Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.41 KB, 12 trang )

QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
Minh Chi
(Trong cuộc hội thảo khoa học về "Nho giáo ở Việt Nam" do trường Ðại học Harvard phối
hợp với trường Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM tổ chức, từ ngày 18-20 tháng
7-2001 tại TP. HCM, nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi đã trình bày tham luận về mối quan
hệ giữa Phật giáo và Nho giáo ở Việt Nam. Xin trích giới thiệu với bạn đọc phần thứ hai của
tham luận)
... Nho giáo đến Việt Nam vào thời Bắc thuộc, tất nhiên nó đóng vai trị hệ tư tưởng thống trị
và có tác dụng củng cố quyền thống trị của người Hán ở Giao Châu thời bấy giờ. Sức mạnh về
quân sự, một chế độ thống trị chính trị kéo dài hàng nghìn năm, eộng với một nền văn hóa
Nho, Lão có truyền thống lâu đời khíến cho dân tộc Việt thời bấy giờ có nguy cơ đồng hóa và
Hán hóa, như một số bộ tộc người Việt ở Quảng Ðông và Quảng Tây đã bị Hán hóa vậy.
Tơi xin nhắc lại, Nho giáo là một hệ tư tưởng chính trị-tơn giáo đứng đầu là vua Trung
Quốc cai trị thiên hạ theo mệnh Trời. Khái niệm thiên hạ ở đây bao quát cả người Hán và
người phi Hán, mà sách Trung Quốc thường gọi thời bấy giờ là Di Ðịch. Phật giáo đến Trung
Quốc theo con đường tơ lụa Trung Á, có thể là khoảng cùng một thời với Phật giáo du nhập
vào Việt Nam theo đường biển. Tơi dùng từ có thể và khoảng bởi lẽ khơng có sử liệu ghi chép
rõ ràng về vấn đề này.
Vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam đề cập đến
(như Nguyễn Lang, Hà Văn Tấn, Lê Mạnh Thát...) ở đây tôi không bàn lại.
Phật giáo là lực đối trọng, tuy đến từ xa nhưng rất mạnh lại đặc thù :
· Trước hết Phật giáo xuất phát từ Ấn Ðộ như là một trung tâm văn hóa hàng đầu
của thế giới cổ đại, có liên hệ trực tiếp với trung tâm văn hóa cổ đại Hy Lạp-La
Mã, Lưỡng Hà và Ai Cập.
· Phật giáo là một tôn giáo, một hệ triết học có tầm cỡ thế giới từ thế kỷ III trước
Cơng ngun, sau khi Hồng đế Asoka (triều đại Maurya-Khổng Tước) gửi nhiều
phái đoàn truyền giáo đến các nước ngoài (kể cả một phái đoàn đến vùng hiện
nay là bán đảo Ðông Dương, và lúc bấy giờ gọi là Suvannabhumi Ðất xứ của
Vàng). Trong khi đó, Nho giáo chủ yếu chỉ là hệ tư tưởng-tôn giáo của dân tộc
Ðại Hán.
· Từ thế kỷ IV đến đầu thế kỷ IX Phật giáo trên thực tế đã trở thành một tôn giáo,


một hệ tư tưởng ngự trị khắp vùng Ðông á, hầu như cả châu á, ngoại trừ Xi-bê-ri
và Trung Cận Ðông. Hàng loạt Tăng sĩ Ðông á đã đến Ấn Ðộ cầu pháp, hoặc theo
con đường biển, hoặc theo con đường bộ xuyên Trung Á. Sử liệu thống kê giữa
những thế kỷ thứ IV và thứ IX có tới 200 Tăng sĩ, chủ yếu là người Trung Hoa,
đã đến Ấn Ðộ theo nhiều đợt. Trong số Tăng sĩ trên, có cả người Triều Tiên (5
người) và người Việt Nam (trong đó có sư Ðại Thặng Ðăng, người Thanh Hóa).


Tuy nhiên, đó là một lực đối trọng rất đặc thù , vì khác với Nho giáo thường hẹp hịi, cố
chấp, Phật giáo khơng bao giờ có tư tưởng độc tôn, đối với các tôn giáo khác và hệ tư tưởng
khác, Phật giáo bao giờ cũng tỏ thái độ kính trọng, hợp tác, đồn kết, tuy là khơng bao giờ
hành xử trái ngược với tinh thần giải thoát và hỷ xả của đạo.
Ở Việt Nam, thái độ bao dung của đạo Phật thấy rõ:
· Trong các sự kiện như đời nhà Lý, các ông vua sùng đạo Phật như Lý Thánh Tông, đã
cho thành lập Văn Miếu, tạc tượng Chu Công và Khổng Tử để thờ, mở các khoa thi tam giáo
để tuyển chọn nhân tài.
· Các triều đại Phật giáo đời Lý và Trần đều trọng dụng Nho sĩ, như các ông Tô
Hiến Thành, Lê Văn Thịnh, Chu Văn An, Mạc Ðĩnh Chi.
Tuy nhiên, như đã nhấn mạnh trên đây, tuy Phật giáo Việt Nam ngay dưới các tnều đại Phật
giáo như Lý-Trần tôn trọng đạo Nho và trọng dụng Nho sĩ, thế nhưng đường lối trị nước, an
dân, bảo vệ độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc thì lại thấm đượm tinh thần Phật giáo:
bình đẳng, dân chủ, từ bi, hỷ xả v.v... Sau đây là một vài chứng cứ nổi bật:
Những đặc điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam
Sư Vạn Hạnh từng phục vụ các triều Ðinh, Tiền Lê, nhưng đã không ngại chủ trương thế nhà
Tiền Lê, lập ra nhà Lý. Bởi vì, trước họa xâm lăng của nhà Tống mà một cánh quân xâm lược
đã vào Lạng Sơn, ông nhận thấy triều đại Tiền Lê khơng cịn thích hợp nữa, cho nên sư đã
cùng với Ðào Cam Mộc phò Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra triều đại Phật giáo nhà Lý (không
phải ngu trung).
Lý Công Uẩn mới lên ngôi, đã cho mở cừa các nhà tù, thả các tội nhân, đồng thời cho
đốt bỏ hình cụ.

Nhà Lý cũng như nhà Trần để có thể đảm bảo kháng chiến thắng lợi chống mọi cuộc
xâm lăng liên tiếp của phương Bắc, đã triệt để và nhất quán áp dụng chính sách đoàn kết dân
tộc và đoàn kết toàn dân (chứng cớ: Bài thơ “Vận nước” của Thiền sư Pháp Thuận, chính sách
khoan dung của nhà Lý đối với họ Nùng ở Việt Nam, các hội nghị Diên Hồng và Bình Than
đời Trần, việc vua Trần gả cháu gái Huyền Trân cho vua Chiêm v.v...)
Tuy Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Ðộ, thế nhưng Phật giáo Việt
Nam không mất thời giờ vào cái tệ tư biện siêu hình và mộng mơ như Phật giáo Ấn Ðộ (đặc
biệt là từ thế kỷ IV trở đi ) 1. Vì dân tộc Việt Nam không thể mộng mơ trước họa xâm lăng
thường trực của phong kiến Trung Quốc. Phật giáo Việt Nam có đầu óc thực tiễn, và giúp cho
các ông vua Phật tử đời Lý và đời Trần có đầu óc thực tiễn đó, thì mới có thể thường xuyên cả
nh giác phòng bị, bảo vệ được nền độc lập chính trị của Tổ quốc.
Tuy Phật giáo Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo T'rung Hoa và nền
văn hóa Nho giáo của Trung Hoa, thế nhưng Phật giáo không tán thành quan điểm thiên mệnh,
và cho rằng vua cai trị dân là theo ý dân (lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình : Trần


Thái Tông trong cuốn “Thiền Tông Chỉ Nam”), đồng thời nhà vua ở cương vị lãnh đạo phải
thực hành đạo đức vô ngã v.v...
Phản ứng chống Nho giáo của Phật giáo Việt Nam
Phản ứng mạnh nhất chống Nho giáo là cuốn Lý Hoặc Luận mà tác giả Mâu Tử 2 lại là
một người Hán ở Giao Châu. Có thể nói đó là một người Hán đã Việt hóa, một Nho sĩ chính
thống và uyên bác, nhưng về sau lại theo Ðạo Phật, điều này cho thấy ảnh hướng sâu đậm của
Phật giáo đối với trí thức Trung Quốc vào cuối đời Hán, khi mà nhà Hán bắt đầu suy tàn, kèm
theo là sự mất uy tín của văn hóa truyề n thống Trung Quốc vốn là chỗ dựa của chính quyền
thống trị về mặt tư tưởng hệ.
Trong 37 câu vấn nạn và trả lời là nội dung cuốn Lý Hoặc Luận, chỉ có 5 câu đầu nói về
Phật và Phật giáo, 7 câu sau cùng về Lão Tử và Lão giáo, 25 câu còn lại là những câu Nho gia
vấn nạn Phật gìáo và Mâu Tử trả lời. Kết cấu cuốn Lý Hoặc Luận cho thấy thời bấy giờ Phật
giáo là đối tượng cơng kích chính của Nho gia; nhưng Nho gia cũng là đối tượng phản bác
chính của Phật giáo.

Nói chung, cái sai trong thái độ phê phán của Nho gia đối với Phật giáo là bao giờ cũng
lấy Nho gia làm chuẩn mực của chân lý, tuy rằng Phật giáo khơng cơng nhận chuẩn mực đó,
cho nên Mâu Tử khi trả lời đã ví Phật giáo như mặt trời giữa trưa, Nho giáo như đuốc sáng,
Phật giáo như phượng hồng, như núi Thái Sơn, như sơng Trường Giang, cịn Nho giáo thì
như chim sẻ, như gị đống, như ngịi lạch v.v...
Có thể nói tồn bộ lời phê phán của Nho gia trong cuốn Lý Hoặc Luận đều phạm sai
lầm chủ quan ấy, cái sai lầm mà lơ-gíc học Phật giáo hay Nhân minh học Phật giáo gọi là Sở y
bất thành nghĩa là chỗ dựa để lập luận là khơng vững, bất thành. Ðó là loại câu chất vấn như
Nho giáo trọng kiệm ước, vì sao đạo Phật lại đề cao sự bố thí (điều 17), Nho gia xem như
khơng có con nối dõi tơng đường là đại bất hiếu, sao Tăng sĩ lại khơng có vợ. Nho gia không
bàn chuyện chết và quỷ thần nhưng đạo Phật lại bàn đến chuyện chết và quỷ thần. Thậm chí,
ngay khi Nho gia dẫn chứng ở Giao Châu thời bấy giờ có Tăng sĩ rượu chè, có vợ con, mua rẻ
bán đắt, làm chuyện dối trá, sao gọi đạo Phật là coi trọng giới luật được và sống đạo đức? Tuy
trong lời phê phán này, chỗ dựa của Nho gia là thực tế có thật nhưng vấn đề là thực tế nào, nếu
đó chỉ là thực tế cá biệt, số ít, khơng phải là tiêu biểu thì dựa vào thực tế một vài người mà phê
phán chung cả một đạo cũng là một sai trái về biện luận lơgíc.
Một phản ứng mạnh mẽ khác chống Nho giáo là của Khương Tăng Hội, một Tăng sĩ
Trung Á nhưng sinh ra và lớn lên và tu học Phật pháp, thành đạt ở Giao Châu (200-280). Năm
247, Tăng Hội đến Kiến Nghiệp, thuộc Ðông Ngô, dưới triều đại của Ngô Tôn Quyền, ông
dịch nhiều kinh Phật và biên soạn cuốn sách nhan đề Lục Ðộ Tập Kinh phản ánh thái độ phê
phán Nho giáo và bênh vực đề cao Phật giáo.
Học giả Lê Mạnh Thát trong cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I chương 5 về
Khương Tăng Hội đã trích đẫn các câu của Tăng Hội viết trong Lục Ðộ Tập Kinh như: “Tôi ở
đời đã lâu thấy Nho gia không bằng Phật tử” (trang 341).


“Phật giáo đề cập đến nhiều vấn đề mà Nho giáo khơng nói tới. Nho giáo là một hệ tư
tưởng chưa hồn chỉnh, chưa đầy đủ, cịn nhiều mắc mứu. Chỉ có Phật giáo là hồn chỉnh và
đầy đủ, giải đáp được hết mắc mứu của mọi người”(sách đã dẫn cùng trang).
Thái độ của trí thức Việt Nam đối với Khổng giáo cách tân đời Tống

Hiện nay, có một số người muốn đề cao họ Trình, họ Chu đời Tống trong việc khởi
xướng phong trào Khổng giáo cách tân, đem lại sự ổn định cho xã hội Trung Hoa trong hàng
nhiều thế kỷ, trước khi phong trào đó bị sụp đổ vì các cuộc xâm lược liên tiếp của quân Anh,
quân Pháp và Liên quân Ðồng Minh.
Chỗ yếu và ehỗ mạnh của thiết chế Khổng giáo cách tân cũng là một. Cấu kết với chính
quyền, nó tạo ra sự độc tơn của Khổng giáo, một sự nhất trí hình thức và giả tạo về tư tưởng
hệ. Muốn thi đỗ ra làm quan, có chức có phận thì phải làm bài thi theo nhận thức khn mẫu
của họ Chu, họ Trình, nếu khơng bị đánh hỏng . Khơng có chức, có phận thì nói gì đến ảnh
hưởng tới đất nước, tới quốc gia?
Ðộc tôn Nho giáo dẫn tới làm cho Nho gìáo thốì hóa, mất sức sống và sáng tạo, chỉ
cịn là một bậc thang của danh và lợi mà thôi. Ổn định là sức mạnh, nhưng cường điệu sự ổn
định thành ra trì trệ; thì lại là chỗ yếu. Thống nhất vốn là chỗ mạnh, nhưng cường điệu sự
thống nhất thành ra khn sáo, hình thức, khơng cịn sáng tạo nữa, mất nhạy bén với cuộc
sống thì lại là chỗ yếu. Tất cả những tệ hại này của Khổng giáo cách tân và độc tôn đã bị
phong trào Ngũ Tứ đả kích kịch liệt, khơng cần bàn thêm nữa. Ấy thế mà bây giờ vẫn có
người muốn đề cao Khổng giáo cách tân như là ngọn nguồn của cáe con rồng châu á thì cũng
thật lạ kỳ .
Chúng ta đặt câu hỏi, Khổng giáo cách tân, chớm nở vào cuối đời Ðường và cực thịnh
vào đời Tống với hai họ Chu, Trình có trách nhiệm gì khơng trong sự kiện hai lần cả nước
Trung Quốc bị những dân tộc phi Hán là nhà Nguyên và nhà Thanh đô hộ, thống trị... những
dân tộc phi Hán mà tổng cộng lại, dân số chỉ bằng khoảng 1/24 của dân số người Hán?
Người Việt chúng ta cũng học Tống nho, cũng học Khổng giáo cách tân, nhưng may sao
chỉ học một nửa. Cho nên, Nguyên Mông, lật đổ nhà Tống thống trị Trung Quốc và 1/2 thế
giới mà cả ba lần đánh ta đều bị quân dân nhà Trần đánh cho đại bại. Mãn Thanh lật đổ nhà
Minh, thống trị Trung Quốc rồi đem 20 vạn binh sang đánh ta cũng bị Nguyễn Huệ đánh cho
kinh hồn tán đởm.
Nhưng đó chỉ mới là chiến thắng quân sự, mà cũng là nhờ hồn thiêng sông núi, kết tinh
lại trong những anh hùng như Trần Hưng Ðạo và Nguyễn Huệ, đã biết phát huy cao độ tinh
thần tự cường dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Nhưng còn về mặt văn hóa?
Sự xâm lược về quân sự bị chặn đứng và đẩy lùi, nhưng sự xâm lược về văn hóa vẫn

tiếp tục, lặng lẽ mà kiên trì, cái đó mới đáng sợ. Trong một thế giới và xã hộì sơì động, với
những phát minh khoa học có tính cách mạng làm đảo lộn biết bao khái niệm truyền thống
tưởng chừng bất di dịch như núi Thái Sơn thế mà Khổng giáo cách tân lại cung cấp cho chúng


ta mơ hình một nền văn hóa tĩnh, địi phục hồi những giá trị đạo đức thời Lưỡng Hán, đề cao
tam cương, ngũ thường như là một thiết chế cố định, hợp với thiên mệnh... tơi nói cái chết, cái
nguy hạí của Khồng giáo cách tân chính là ở chỗ đó.
Giặc đến ngồi ngõ mà trong nhà như là khơng hay, từng lớp hủ Nho thi đua ngâm vịnh,
tán tụng Nghiêu Thuấn và Khổng Tữ, rồi lại mong chờ thiên binh của Thiên triều qua giúp để
đánh đuổi bọn bạch quỷ đi. Francis Garnier với 175 quân đã hạ dễ dàng thành Hà Nội, trong
khi 70 vạn quân Nguyên phải bó tay trước sự kháng cự ngoan cường của Trần Hưng Ðạo và
quân dân nhà Trần. Cùng là người Việt cả , sao mà khác nhau đến thế. Tôi nghĩ: Di hại của
Tống Nho thực đáng sợ là vậy.
Sau này cụ Phan Chu Trinh, kết án chế độ khoa cử và Hán học, Hán tự khơng phải là
khơng có lý do. Thậm chí ơng viết bài “Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc”, nghĩa là
không bỏ chữ Hán, sẽ không đủ để cứu nước Nam. Tất nhiên, cụ Phan khơng ghét gì Hán tự,
thế nhưng cái học khoa cừ, tầm chương trích cú, nhồi nét vào đầu chữ nghĩa của thánh hìền,
rập khn theo Tống Nho thì thật là tệ hại.
Cụ Phan khơng thích thú Tống Nho nhưng lại đề cao đạo Phật. Cụ viết: “Nay bà con thử
xét, đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như vậy Quân Nguyên thắng cả Á và Âu, nuốt trọn
Trung Hoa mà qua đến nước ta thì bại tẩu. Nào bị cướp giáo ở Chương Dương đô, nào bị bắt
trói ở Bạch Ðằng, như vậy chẳng phải nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư ? ( Ðông kinh
nghĩa thục-Nguyễn Hiến Lê, Lá Bối, 1974-chuyển dẫn từ Việt Nam Phật giáo sử luận, quyển
III).
Cụ Phan Khơi bình luận về tình hình chính trị so sánh bên Trung Quốc và bên ta, cũng
đồng ý như cụ Phan Chu Trinh:
“Xưa nay, bên Tàu, quốc thể có hai lần hèn yếu nhất, bị lũ mọi rợ phương Bắc vào đè
đầu: lần trước vào thời kỳ Tấn Lục Triều, là kết quả của sự sùng thượng Lão Trang, lần sau
vào thời kỳ Tống, Minh thì là kết quả của cuộc vận động Lý học. Cịn Phật giáo thì theo lịch

sử chẳng khi nào gây ra sự hèn yếu cả.
Ở nước ta cũng vậy, vào thời nhà Lý, nhà Trần, đạo Phật tràn ngập cả nước, chủa chiền
khắp nơi, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như hồi Lê trung hưng hay Nguyễn
thống nhất là cái thời đạo Nho học thịnh hành. Trái lại, nhà Lý, nhà Trần mạnh lắm, dân khí
cịn hăng lắm, mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt. Lịch sử là cái chứng
mạnh lắm. Khơng ai cãi được. Nó đã làm bằng chứng cho Phật giáo: không phải là một thứ
thuốc phiện làm mịn yếu con người”. (Báo Tiếng Chng Sớm số 9, ngày 12-10-1935chuyển dẫn từ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập III, trang 29).
Tơi nghĩ những trích dẫn trên đầy đủ cho chúng ta thấm thía tất cả cái tệ hại của lối học
khoa cử mà phái Tống Nho và phong trào Khổng giáo cách tân truyền sang cho ta. Học giả
Ðào Duy Anh đã có nhận định rất xác đáng về di hại của Tống Nho đối với từng lớp gọi là sĩ
phu nước ta như sau:


“Chế độ khoa cử thế ấy thì phải sinh ra phương pháp giáo dục thế kia là lẽ tất nhiên.
Học như vậy thì học trị chỉ chăm học thuộc lịng một số ít sách kể trên (Ðào Duy Anh muốn
nói Tứ Thư, Ngũ Kinh và Bắc Sử tức là sử Trung Hoa, không phải sử Việt Nam-MC), và chăm
lựa lời cho khéo, gọt câu cho chỉnh, viết chữ cho tử tế, một ý tứ có thể điền ra năm, bảy cách
miễn là lời văn cho bóng bẩy mà ý tứ dù là cặn bã của Tống Nho cũng không cần gì. Cái thói
trọng từ chương, ưa hư văn đã trở thành một thiên tính của dân tộc ta. Với cách giáo dục ấy,
thì dù người thiên tư lỗi lạc cũng phải nhạt đi, huống gì những người tư chất tầm thường.
Thực là một thứ giáo dục giết chết nhân cách vậy”. (Ðào Duy Anh–Chữ Nôm. NXB Khoa học
Xã hội, 1975, tr. 260, chuyển từ cuốn Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Ðông Á. Vĩnh Sinh,
tr. 159).
Tác hại của phong trào Khổng giáo cách tân tại Việt Nam, đã dẫn tới sự trì trệ yếu kém
của triều Nguyễn, và đó cũng là một ngun nhân chính để phương Tây đô hộ. Nếu ôn lại Phật
giáo đời Lý Trần và những phê phán kịch liệt về Tống Nho của cụ Phan Chu Trinh và Ðào
Duy Anh, chúng ta sẽ thấy rõ luận điểm nói trên.
NHO GIA
Q trình hình thành và phát triển:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Cơng

Đán, cịn gọi là Chu Cơng. Đến thời Xn Thu, xã hội loạn lạc, Đức Khổng Tử (sinh năm 551
trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các
tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ơng là người sáng lập ra Nho giáo. Cũng giống
như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Phật Thích Ca , Chúa Giê-xu,... người đời sau
không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng Tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư
tưởng của ngài bằng các ghi chép do các học trò của ngài để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt
sách, chơn Nho" của nhà Tần, vào khoảng hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời, khiến cho
việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời
sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ngài.
Nho giáo nguyên thủy:
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi,
Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc
nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của
ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là
Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội
của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến
Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trị của ơng chép thành sách Mạnh Tử. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo ngun thủy, cịn gọi là Nho giáo tiền Tần
(trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái
niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó cịn được gọi là
Nho học; cịn Nho giáo mang tính tơn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và


Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực
hành.
Hán Nho:
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên
hàng quốc giáo và dùng nó làm cơng cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo
trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn
năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy

là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che
đậy "pháp trị". [cần dẫn nguồn]
Tống Nho:
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh
Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho.
Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu
Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học
nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác
biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật
giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
[cần dẫn nguồn]
Các sách kinh điển:
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh
điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về
những kinh nghiệm lịch sử Trung Quốc, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng
biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
Ngũ kinh
1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình u nam
nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành
mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Đức Khổng Tử hỏi con trai "học
Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Đức Khổng Tử nói "Khơng học Kinh Thi thì khơng
biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng
Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ
đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương
tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Khơng học Kinh Lễ thì khơng biết đi đứng ở
đời" (sách Luận ngữ).



4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Hán cổ đại dựa trên các khái niệm âm
dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát qi gọi là
Thốn từ. Chu Cơng Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ.
Kinh Dịch thời nhà Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ
cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Đức Khổng Tử. Đức Khổng
Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ơng chọn lọc các
sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ơng nói,
"Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây
là cuốn kinh Đức Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói
những sự việc xảy ra.)
6. Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành
một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.
Tứ thư:
1. Luận Ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trị của ơng ghi chép lại sau khi ngài mất
(Luận ngữ = các lời bình luận).
2. Đại Học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm, còn gọi là
Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của ngài soạn ra (Đại học = sự
học lớn).
3. Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hịa, khơng thiên lệch. Sách này do người cháu
nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra (Trung = ý
muốn nói cái Tâm không lệch bên này hay bên kia, Dung = có nghĩa dung dưỡng, giữ mãi ở
mức như vậy).
4. Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu biểu
nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc
(390-305 trước công nguyên).
Nội dung cơ bản của Nho học:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ
chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu
- người lý tưởng này gọi là quân tử. (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã

hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau Khổng Tử dùng từ
"quân tử" để chỉ phẩm chất đạo đức: "Quân tử sở tính nhân nghĩa lễ trí" phân biệt với "tiểu
nhân" là những người thiếu đạo đức). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải
"tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành
đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Đạo ở đây là con đường để hồn thiện chính mình,
hồ hợp đất trời trở về bản ngã “bổn thiện”).


Tu thân:
Đức Khổng Tử nêu lên ngũ luân với thuyết chính danh và chữ “Nhân” để làm chuẩn mực cho
mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Ngũ thường:ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở
đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
1. Nhân: Đạo làm người. Hiểu nơm na là làm những gì mà mình muốn người khác làm cho
mình mà khơng cầu lợi, danh.
2. Nghĩa: nghĩa đen là thích hợp. Hành động thích hợp với đạo Nhân, đối lập với nó là lợi.
3. Lễ: Sự tơn trọng, hịa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở rộng ra là việc tuân thủ các
quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật.
4. Trí: Ĩc khơn ngoan, sáng suốt. Cảm giác đúng và sai. Biết tiên liệu, tính tốn để hành
động hợp đạo lý.
5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau này được tách ra để
thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá trị trên.
== Người quân tử phải đạt ba điều trong q trình tu thân:
• Đạt đạo: Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải
thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tơi, đạo cha con, đạo
vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử,
phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là hay Ngũ ln[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất
là "trung dung".
• Đạt đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người
qn tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân khơng lo buồn, người trí khơng nghi ngại,

người dũng khơng sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa"
nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất
cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này cịn gọi là ngũ thường.
• Biết thi, thư, lễ, nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết
"thi, thư, lễ, nhạc". Tức là người qn tử cịn phải có một vốn văn hóa tồn diện. Ngày nay
nghĩa là có kiến thức về xã hội, chính trị, văn hố – nghệ thuật và kỹ năng chuyên môn.
Hành đạo:
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung
của cơng việc này được cơng thức hóa thành "tề gia, trị quốc, thiên hạ bình ". Tức là phải hồn
thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên
hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị
là hai phương châm:


• Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người
như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Đức Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận
ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người khơng có
nhân thì lễ mà làm gì? Người khơng có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
• Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm
đúng chức phận của mình. "Danh khơng chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc
không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Cơng: "Quân quân, thần thần,
phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm
gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nghĩa là khi tu thân có thành tựu
thì phải tham gia giúp đời, giúp nước, cải thiện xã hội mà cụ thể, thiết thực nhất là tham gia
vào chính quyền.
Đặc điểm của Nho giáo:
Nho giáo sau này từ đời Hán Vũ Đế là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục phương
Bắc và văn hóa nơng nghiệp phương Nam. Chính vì thế nó mang đặc điểm của hai loại hình

văn hóa này.
Tính du mục phương Bắc:
• Tính "quốc tế" là một trong những đặc tính khác biệt của văn hóa du mục so với văn hóa
nơng nghiệp. Tính quốc tế trong Nho giáo thể hiện ở mục tiêu cao nhất của người quân tử là
"bình thiên hạ". Bản thân Đức Khổng Tử đã nhiều lần rời bỏ nước Lỗ, quê hương ngài để đi
tìm minh chủ. Đối với người quân tử, việc tìm được một minh quân quan trọng hơn việc làm
gì cho đất nước của mình. Trong các truyền thuyết và văn học Trung Hoa, việc các nhân tài
thay đổi minh chủ là điều rất thường thấy. Đó cũng là một trong những ảnh hưởng của Nho
giáo.
• Tính "phi dân chủ" và hệ quả của nó là tư tưởng "bá quyền", coi khinh các dân tộc khác,
coi mình là trung tâm cịn "tứ di" xung quanh đều là "bỉ lậu" cả. Khổng Tử nói: "Các nước Di,
Địch, dù có vua nhưng cũng khơng bằng Hoa Hạ (Trung Hoa) khơng có vua" [cần dẫn nguồn].
Tính phi dân chủ cịn được thể hiện ở chỗ coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Khổng Tử
gọi dân thường là "tiểu nhân", đối lập với người "qn tử". Cịn đối với phụ nữ, ơng nói: "Chỉ
hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ ốn" [cần dẫn nguồn](sách
Luận ngữ???chương???).
• Tính "trọng sức mạnh" được thể hiện ở chữ "Dũng", một trong ba đức mà người quân tử
phải có (Nhân - Trí - Dũng). Tuy nhiên ơng cũng nhận ra điều nguy hiểm: "Kẻ nào có dũng mà
ghét cảnh bần hàn tất làm loạn".


• Tính "nguyên tắc" được thể hiện ở học thuyết "chính danh". Tất cả phải có tơn ti, tất cả
phải làm việc theo đúng bổn phận của mình.
[sửa] === Tính nơng nghiệp phương Nam.===
• Tính "hài hịa" là một đặc tính của văn hóa nơng nghiệp, trái ngược với tính trọng sức
mạnh của văn hóa du mục. Biểu hiện cho tính hài hịa là việc đề cao chữ "Nhân" và nguyên lý
"Nhân trị". Khổng Tử từng nói: "Về cái mạnh của phương Nam ư? Hay cái mạnh của phương
Bắc ư? ... Khoan hịa mềm mại để dạy người, khơng báo thù kẻ vô đạo - ấy là cái mạnh của
phương Nam, người qn tử ở vào phía ấy. Xơng pha gươm giáo, dầu chết không nản, ấy là
cái mạnh của phương Bắc - kẻ mạnh ở vào phía ấy" (sách Trung Dung).

• Tính "dân chủ" là đặc tính khác biệt với văn hóa du mục. Khổng Tử nói: "Dân là chủ của
thần, vì thế thánh nhân xưa lo cho việc dân rồi mới lo việc thần" (Kinh Xuân Thu). Ông cịn
nói: "Phải làm trước những cơng việc của dân, phải khó nhọc vì dân" (sách Luận ngữ). Tính
dân chủ cịn được thể hiện ở cách cư xử "trung dung" trong "ngũ ln". Trong các quan hệ đó,
đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng: Vua sáng, tơi trung; cha hiền, con hiếu; anh tốt, em
nhường; bạn bè tin cậy.
• Tính coi trọng văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc) thể hiện nhiều trong Kinh Thi. Tính
"trọng văn" cũng ngược lại với tính "trọng võ" của văn hóa du mục.
Sự thất bại:
Thất bại: bởi lẽ Nho giáo nguyên thuỷ mâu thuẫn với chế độ độc tài quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, trong khi các bậc đế vương phương Bắc với truyền thống "trọng võ",
quen "pháp trị" và chuyên chế bằng vũ lực thì Khổng Tử lại nên cao "trọng văn", dùng "nhân
trị", thu phục bằng nhân tâm. Nên khi sinh thời, Khổng Tử muốn làm quan nhưng hầu như
không được ai dùng. Về già, một lần ông tiên đốn về sự suy tàn của đạo mình: "Chim phượng
chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sơng Hồng Hà, ta hết hi vọng rồi" (sách Luận ngữ). Sau
khi Khổng Tử chết, năm 246 trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính dùng vũ lực thống
trị thiên hạ xưng là Tần Thủy Hồng đế, áp dụng chính sách cai trị bằng pháp luật, độc đốn
hồn tồn trái ngược với các chủ trương của Nho giáo và dẫn đến hành động "đốt sách, chôn
Nho" nổi tiếng.
Thành công trong việc truyền bá khắp Đông Á là bởi lẽ, sau khi Tần Thủy Hoàng chết, nhà
Tần sụp đổ, Hán Cao Tổ là Lưu Bang đã rút ra được một số kinh nghiệm của nhà Tần mà bớt
đi phần hà khắc mà trưng dụng trí thức. Nhưng phải đến Hán Vũ Đế, theo lời khuyên của
Đổng Trọng Thư thì Nho giáo mới được đưa lên địa vị quốc giáo. Nho giáo trở thành hệ tư
tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Khơng
những thế, nó cịn được truyền bá khắp miền Đông Á. Đức Khổng Tử được tơn lên bậc Chí
thánh, trên thế giới tên tuổi của ngài không ai không biết.
Tuy nhiên sự thành công đó khơng phải là điều mà Khổng Tử trơng đợi bởi vì cái Nho giáo


mà Khổng Tử tạo ra hoàn toàn thất bại mà thay vào đó, cũng cái tên Nho giáo đó nhưng với
nội dung khác hẳn đã được đề cao. Nói chính xác hơn, hầu hết các đặc điểm nông nghiệp

trong Nho giáo nguyên thủy bị loại bỏ và bị thay thể bằng các đặc điểm du mục. Đến Hán
nho, nhà Hán chủ trương "dương đức", "âm pháp", hay còn gọi là "ngoại Nho, nội pháp", tức
là chủ trương nhân trị chỉ cịn là hình thức mà thực chất là pháp trị. Hán Vũ đế giao cho nhóm
người do Lưu Hâm cầm đầu, cải tạo và biến đổi Nho giáo để phục vụ vương triều. Nhóm của
Lưu Hâm làm ba việc:
• Hạ thấp nhân trị, đề cao lễ trị. Vì nhân trị là cốt lõi của Khổng Tử nên họ không thể loại bỏ
hoàn toàn mà dùng nhân trị như một cái vỏ bao bọc lễ trị.
• Loại bỏ tính dân chủ của Nho giáo nguyên thủy. Dân là chủ bị lờ đi mà thay vào đó họ đề
cao "trời", tạo ra thuyết "thiên mệnh". Vua là "thiên tử" (con trời), không nghe theo vua là
phản lại trời. "Ngũ luân" trong Nho giáo nguyên thủy được rút gọn thành "tam cương": vuatôi, cha-con, vợ-chồng. Quan hệ "trung dung" trong ngũ luân được chuyển thành quan hệ một
chiều duy nhất được tóm gọn trong bốn chữ "trung-hiếu-tiết nghĩa". Bề tôi phải tuyệt đối phục
tùng vua, con phải tuyệt đối nghe lời cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng, đó là những mối
quan hệ hết sức phi nhân bản: "Vua bảo tôi chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con
chết, con khơng chết là con bất hiếu". Cịn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì được diễn đạt
bằng ba cơng thức được gọi là tam tịng: "Ở nhà theo cha, lấy chống theo chồng, chồng chết
theo con trai".
• Hạn chế vai trị của văn hóa sao cho có lợi cho chế độ phong kiến. Quan hệ nam nữ bị giới
hạn một cách quá đáng: "nam nữ thụ thụ bất thân". Đề cao nam, hạ thấp nữ: "nam tôn, nữ ti",
"dương thiện, âm ác". Đến Tống Nho, Nho giáo lại bổ sung thêm các yếu tố tâm linh từ Phật
giáo và các yếu tố siêu hình từ Đạo giáo với các tên tuổi như Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di.
Như vậy, Khổng giáo hoàn toàn thất bại ở thời phong kiến (từ 221TCN đến hết TK20).
Trước khi chết, Đức Khổng Tử rất u buồn bởi lẽ ngài hiểu rằng, hút nhụy một phần từ văn
minh nông nghiệp, Nho giáo mang tính nhân bản của ngài khó áp dụng vào thời đại phong
kiến lạc hậu về kinh tế và dân trí thấp này. Ngày nay, chế độ pháp quyền với nền tảng nhân
quyền và dân quyền cũng không khác nhiều với tư tưởng của ngài.



×