Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Vốn ngoại vào chứng khoán : Kiểm soát hay không ? docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.09 KB, 5 trang )

Vốn ngoại vào chứng khoán : Kiểm
soát hay không ?
Nhận định mới đây của tờ Boston Globe về vấn đề kiểm soát vốn ngoại tại
thị trường chứng khoán Việt Nam, qua bài viết của nhà báo Matt
Steinglass, thường trú tại Hà Nội. VnEconomy xin giới thiệu bản lược dịch
bài viết này.
Sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhà kinh tế Joseph Stiglitz
bắt đầu nhận định chính sách thị trường tự do của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) là sai lầm và cần thiết phải kiểm soát thị trường vốn.
Trong cuốn sách gần đây nhất được bán rất chạy, Stiglitz cũng đã đưa ra
những quan điểm thuyết phục về vấn đề này.
Khi chỉ số chứng khoán tại thị trường chứng khoán Thượng Hải bị sụt giảm
9% vào ngày 27/02/2007, kéo theo một loạt các thị trường chứng khoán
trên thế giới cũng sụt giảm theo, nhiều người đã nhanh chóng nhớ lại cơn
khủng hoảng tài chính ở châu Á vào năm 1997. Cuộc khủng hoảng xảy ra
vào năm đó không phải do sự sụt giảm của thị trường chứng khoán mà do
tình trạng tích trữ tiền tệ dẫn đến việc đồng bạt Thái bị mất giá.
Nhưng lý do khiến cho cuộc khủng hoảng năm 1997 lan rộng ra nhiều nơi,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của các nước Indonesia, Hàn
Quốc, Philippines, cuối cùng là một số quốc gia ngoài châu Á như Nga,
chính là do việc mất lòng tin nghiêm trọng của các nhà đầu tư vào cái gọi là
“những thị trường mới nổi”.
Các nhà đầu tư rất ấn tượng với những tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng
lại tỏ ra nghi ngờ các nhân tố điều chỉnh không minh bạch và tình trạng
tham nhũng trong chính phủ. Khi đã mất niềm tin vào thị trường tiền tệ và
chứng khoán của những quốc gia này, nhà đầu tư sẽ ồ ạt rút tiền ra.
Tuần trước, đã có những lo ngại khi thị trường chứng khoán châu Á sụt giá
có thể sẽ lại gây ra tình trạng tương tự như việc mất lòng tin hoặc rút vốn ồ
ạt. Chính phủ của một số nước châu Á thậm chí đã lo lắng sẽ xảy ra tình
huống tương tự năm 1997, ngay từ trước khi thị trường chứng khoán
Thượng Hải bất ngờ sụt giảm.


Tại Thái Lan và Việt Nam, việc thị trường chứng khoán hiện đang tăng
trưởng nhanh chóng, kéo theo làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài, đã đẩy
giá tiền tệ trong nước và mức lạm phát lên, và kèm theo đó là nỗi sợ hãi về
bong bóng chứng khoán.
Chính phủ một số nước thậm chí đã cân nhắc những biện pháp “kiểm soát
vốn” đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm hạn chế tốc độ tiền chảy vào
hoặc đi ra khỏi thị trường tài chính. Vào tháng 12 năm ngoái, Thái Lan
cũng ban hành một quy định yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài phải có
30% vốn bảo đảm trong một năm không tính thuế, rút vốn sớm sẽ bị đánh
thuế.
Những giám đốc các quỹ đầu tư lớn đã phản ứng dữ dội trước quy định nói
trên, thị trường chứng khoán Bangkok sụt giảm 15% chỉ trong một ngày và
quy định này lập tức đã bị hủy bỏ.
Nhưng bài học thực sự của khủng hoảng tài chính châu Á là gì? Thực tế,
nhiều nhà kinh tế đã đưa ra bài học trái ngược nhưng lại hoàn toàn chính
xác: mở cửa thị trường vốn đôi lúc sẽ gây ra tác hại trái ngược, và chính
phủ có thể sử dụng việc kiểm soát vốn như những công cụ điều tiết để phát
triển đất nước và duy trì sự ổn định.
Đại diện tiêu biểu của quan điểm này chính là nhà kinh tế học từng đoạt
giải Nobel Joseph Stiglitz, cựu Chủ tịch Hội đồng Tư vấn kinh tế dưới thời
Tổng thống Bill Clinton, ông cũng là giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB)
trong thời gian xảy ra khủng hoảng. Trong bài trả lời phỏng vấn của báo chí
mới đây, khi được hỏi về những nguy cơ rủi ro tại thị trường chứng khoán
châu Á, Stiglitz nói rằng kiểm soát vốn đang hiện đang phổ biến tại những
thị trường mới nổi, và trong nhiều trường hợp thì nó lại là một điều tốt.
“Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều không cho phép vốn chảy ra ngoài mà hoàn
toàn không có sự can thiệp của chính phủ. Ảnh hưởng của việc này sẽ ngăn
mọi người đổ tiền vào rồi lại rút ra trong một sớm một chiều. Những biện
pháp như vậy nhằm hạn chế đầu tư ngắn hạn và rút vốn khỏi Việt Nam.
Việc này sẽ giúp ổn định lại dòng vốn” Stiglitz nói.

Tuy nhiên, một trong những tiếng nói có sức nặng nhất, dù là trên tờ Thời
báo Phố Wall hay ở bất cứ đâu, vẫn đang tiếp tục hướng các nước đang
phát triển nhắm đến việc bãi bỏ quy định kiểm soát vốn trên thị trường tài
chính. Gần đây, trong chuyến thăm Trung Quốc trong khi thị trường chứng
khoán đang chịu hậu quả của việc suy giảm rõ rệt trên thị trường chứng
khoán, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ, Henry Paulson, trong bài diễn thuyêt
tại thị trường chứng khoán Thượng Hải đã kêu gọi chính phủ Trung Quốc
nên ít can thiệp vào thị trường tài chính.
Ông tuyên bố: “Sự ổn định chỉ có thể đến khi thị trường tự do hơn và có
tính lưu động nhiều hơn. Một thị trường tài chính mở, cạnh tranh và tự do
có thể phân bố hiệu quả những nguồn tài nguyên khan hiếm theo cách giữ
vững ổn định, phát triển và thúc đẩy kinh tế tiến xa hơn”
Song bất chấp sự kiên trì của những quan điểm ủng hộ chính sách không
can thiệp của chính phủ, một sự thay đổi lặng lẽ có thể đang diễn ra. Khác
với 10 năm trước, các nhà kinh tế và các chuyên gia phân tích tài chính
ngày càng có khả năng nghiêng về ý kiến chấp nhận việc kiểm soát vốn
như một nhu cầu cần thiết. Thậm chí, một số đã thừa nhận điều này.
Quan điểm của Stiglitz được hình thành trong thời gian xảy ra cuộc khủng
hoảng năm 1997. Khi khủng hoảng đã qua, Stiglitz nhận định những quốc
gia làm theo khuyến nghị không nên kiểm soát vốn của IMF như Thái Lan
và Indonesia đều bị trượt sâu vào khủng hoảng và suy thoái trong khi
những quốc gia có hình thức kiểm soát vốn hoặc nhanh chóng chấp nhận nó
như Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia lại thoát khỏi khủng hoảng với những
thiệt hại tương đối nhỏ.
Cuối cùng, ông cũng tin chắc rằng toàn bộ triết lý “Washington Consensu”
- triết lý về thị trường tự do không có sự can thiệp của nhà nước đã chỉ
đường cho chính sách của IMF trong thập niên 90 là sai lầm. Trong cuốn
sách “Globalzation and Its Discontents,” Stiglitz đã đưa ra những ý kiến về
“những nguy hiểm của thị trường vốn tự do” và tuyên bố rằng nơi nào dòng
“tiền nóng” đột ngột phát triển, “sự can thiệp của chính phủ rất đáng được

mong đợi.”
Stiglitz nói: “Các chuyên gia kinh tế hàng đầu của IMF vẫn tin rằng việc tự
do hóa thị trường vốn là đúng, nhưng những gì họ nói thì hiện tại họ đều
không chứng minh được. Trong một số trường hợp, nếu IMF yêu cầu các
quốc gia áp dụng những hình thức kiểm soát vốn một cách mềm mỏng như
thông qua đánh thuế và điều tiết ngân hàng, có thể đó sẽ là một ý kiến hay”.
Dominic Scriven hiện là giám đốc quản lý của Dragon Capital, một trong
những quỹ đầu tư lớn nhất tại thị trường Việt Nam. Năm 2006, chỉ số
chứng khoán của Tp.HCM tăng trưởng ngoạn mục ở mức 144%, tài sản của
Dragon Capital cũng tăng gần 1,5 tỷ USD. Trong hai tháng đầu năm 2007,
chỉ số chứng khoán đã tăng 47%.
Scriven hoàn toàn có thể trông đợi việc kiểm soát vốn sẽ không xảy ra.
Nhưng trên thực tế, ông lại ủng hộ điều này một cách thận trọng. Scriven
thấy rằng không cần thiết phải hạn chế vốn ngay trong lúc này mà có thể
đợi một thời gian thích hợp. Ông nói: “Tôi nghĩ sẽ là hợp lý nếu một quốc
gia có cơ chế vừa kiểm soát vừa khuyến khích dòng vốn”.
Những giám đốc các quỹ đầu tư như Scriven đều biết rõ sự bất ổn định của
những thị trường mới nổi tại châu Á ra sao. Ở Trung Quốc và một số thị
trường khác, việc báo cáo tài chính thường rất lỏng lẻo và việc hạch toán lại
không đáng tin cậy. Việc có được con số đáng tin cậy về doanh thu của một
công ty gần như là không thể.
Bên cạnh đó, những nhà đầu tư lại thường có rất ít thông tin về những thứ
mà họ đang đầu tư vào. Tại Việt Nam, hầu hết những cổ đông đều lần đầu
tiên bước vào thị trường chứng khoán và đa số họ chưa từng biết gì về
chứng khoán trước đó. Ghé thăm một văn phòng thương mại tại Hà Nội vào
buổi sáng một ngày trong tuần, đều dễ dàng gặp được những người bỏ việc
ở cơ quan để đi kinh doanh chứng khoán.
Chính phủ Việt Nam hiện đang lo lắng về khả năng xảy ra bong bóng
chứng khoán trong nhiều tháng, và văn phòng IMF tại đây cũng chia sẻ
những mối lo ngại tương tự. Trong báo cáo gửi tới Chính phủ Việt Nam

vào giữa tháng 2/2007, IMF cho thấy 99% giá trị cổ phiểu tập trung vào 20
công ty hàng đầu, chỉ số P/E của những công ty này tăng trung bình 70 lần
(trong khi chỉ số trung bình của những thị trường trong cùng khu vực chỉ từ
10 đến 20 lần). Nhưng trong bản báo cáo tóm tắt được được công khai lại
gợi ý không nên kiểm soát vốn vào lúc này.
Tuy nhiên, bản báo cáo hoàn chỉnh được gửi tới Chính phủ Việt Nam lại
bao gồm cả những quan điểm ủng hộ và phản đối những hình thức kiểm
soát vốn khác nhau, như đặt ra thời gian tối thiểu nắm giữ vốn, hoặc đánh
thuế cao hơn đối với đầu tư ngắn hạn. Tuần trước, Bộ trưởng Bộ Tài chính
đã đề xuất những mức thuế khác nhau đánh vào việc rút vốn đầu tư nhanh
chóng.
Năm 1997, IMF liên tục cảnh báo Malaysia đề phòng hậu quả của kiểm
soát vốn, thậm chí phải đối mặt với việc vốn bị rút ra nhanh chóng. Nhưng
hiện nay IMF lại miễn cưỡng hợp tác với Việt Nam trong việc tìm kiếm
những hình thức kiểm soát vốn phù hợp. Điều này cho thấy IMF đang ngày
càng tiến gần đến quan điểm của Stiglitz.
Nhưng Stiglitz cảm thấy IMF vẫn còn một chặng đường dài phía trước. Khi
tư vấn cho các quốc gia, ông thường nói: “IMF vẫn sẽ bảo rằng đối với các
bạn, tự do hóa thị trường vốn là đúng, mặc dù họ chẳng có bằng chứng
nào”.
Khánh Hoa dịch




×