Phát triển thị trường tài chính (vốn, tiền tệ, chứng khoán) trong bối cảnh
hội nhập ở Việt Nam.
Mục lục
Đặt vấn đề.
Nội dung.
1. Tổng quan về thị trường tài chính.
1.1. Bản chất, vai trò của thị trường tài chính.
1.1.1. Bản chất của thị trường tài chính.
1.1.2. Vai trò của thị trường tài chính.
1.2. Tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam.
2. Các loại thị trường tài chính chủ yếu nước ta hiện nay.
2.1. Thị trường vốn.
2.2. Thị trường tiền tệ.
2.3. Thị trường chứng khoán.
3. Các phương hướng,chính sách phát triển thị trường tài
chính ở Việt Nam.
3.1. Thị trường vốn.
3.2. Thị trường tiền tệ.
3.3. Thị trường chứng khoán.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
1
A-Đặt vấn đề .
Có thê nói, thị trường tài chính nước ta chưa bao giờ lại phát triển mạnh và
đạt được những thành công, tốc độ tăng trưởng cao vượt bậc, trở thành “địa
điểm” đầu tư hấp dẫn trong con mắt các tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài. Thị
trường tiền tệ phát triển mạnh với hệ thống ngân hàng hai cấp, và ngày càng
xuất hiện nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần và thương mại nước ngoài.
Thị trường vốn thì vẫn tiếp tục được coi là một thị trường tiềm năng, thu hút
nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Lượng vốn đầu tư gián tiếp trong các năm qua liên
tục tăng cao. Còn thị trường chứng khóan thì lại sôi động hơn bao giờ hết, không
chỉ những nhà đầu tư mà ngay cả những người dân cũng quan tâm đến thị
trường này. Tất cả những điều đó càng được thể hiện rõ nét sau sự kiện Việt
Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Mặc dù đã có những phát triển manh mẽ như vây, nhưng không thể không
nhìn nhận sự tụt hậu của tài chính nước ta so với trong khu vực và thế giới. Thị
trường tài chính dù là vốn, tiền tệ hay chứng khoán đều đóng một vai trò quan
trọng trong sự phát triển kinh tế Việt Nam. Vì vậy sự phát triển thị trường tài
chính có thể coi là một trong những ưu tiên hàng đầu của nước ta hiên nay. Là
một sinh viên Kinh tế, dặc biệt lại là sinh viên chuyên ngành ngân hàng, việc tìm
hiểu về thị trường tài chính là vô cùng quan trọng, để từ đó có thể rút ra những
bài học, kinh nghiệm quý báu làm hành trang vào đời sau 4 năm nữa.
2
B-Nội dung.
1.Tổng quan về thị trường tài chính.
1.1. Bản chất, vai trò của thị trường tài chính.
1.1.1. B ản chất của thị trường tài chính.
Trước khi tìm hiểu thị trường tài chính là gì, chúng ta sẽ tìm hiểu qua về
thế nào là tài chính?
Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời
của nhà nước và nền sản xuất hàng hóa. Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế
biểu hiện trong lĩnh vực hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong
nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tổ chức các họat động kinh tế,
cần phải tạo lập các quỹ tiền tệ mà thực chất là các quỹ giá trị khác nhau và chia
thành các phần để phân phối và sử dụng các quỹ đó. Vì vậy ngoài các quan hệ
hàng hóa-tiền tệ, thì hàng loạt các quan hệ tiền tệ khác nảy sinh , đó là các quan
hệ tài chính. Khác với quan hệ hàng hóa-tiền tệ, tiền biểu hiện như vật ngang
giá, giá trị chỉ thay đổi hình thức tồn tại thì trong các quan hệ tài chính, giá trị
thực sự chuyển dịch từ chủ thể hay bộ phận này sang chủ thể hay bộ phận khác.
Chẳng hạn như quan hệ về thuế, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước,
giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước. Với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay thì bản chất của tài
chính biểu hiện qua các nhóm quan hệ: đó là quan hệ tài chính giữa các doanh
nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với Nhà nước; giữa các doanh nghiệp, tổ
chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng; giữa các chủ thể với thị trường; và
cuối cùng là nhóm các quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể(doanh nghiệp,
dân cư, tổ chức xã hội,..).
3
Tổng thể các mối quan hệ tài chính cùng các tổ chức bộ máy thực hiện các
chức năng tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế được gọi là hệ thống tài
chính. Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong đó, hệ thống tài chính bao
gồm các bộ phận hợp thành với tư cách là các tụ điểm tài chính. Các tụ điểm tài
chính này gắn với một chủ thể nhất định và thực hiện quá trình “bơm”, “hút” các
nguồn lực tài chính dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường
tài chính. Như vậy với tư cách là nơi diễn ra cá hoạt động trao đổi mua bán
quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các
công cụ và dịch vụ tài chính nhất định, thị trường tài chính có thể hiểu là tổng
hòa các quan hệ cung cầu về vốn.
Thị trường tài chính được phân thành 2 loại: thị trường vốn ngắn hạn(thị
trường tiền tệ) và thị trường vốn dài hạn.
-Thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ, là các hoạt động
về cung cấp vốn ngắn hạn(dưới một năm) diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động
của hệ thống ngân hàng các cấp
-Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung cấp vốn dài
hạn cho Chính phủ, doanh nghiệp, hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao gồm
thị trường vay nợ dài hạn và thị trưừong chứng khoán.
1.1.2.Vai tr ò của thị trường tài chính.
Nhìn chung, dù là ngắn hạn hay dài hạn thì thị trường tài chính ngày nay
càng ngày càng mang tính mở và đóng góp vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế-xã hội hiện đại ở cấp quốc gia cũng như cấp quốc tế. Đó là những vai
trò:
-Tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu tư phát triển từ các
nguồn trong nước và ngòai nước, từ trong doanh ngiệp và trong dân. Trong nền
kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh vực sản
4
xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra ngòai nước và ngược lại. Nếu
nhà nước có chính sách điều chỉnh tốtcác quan hệ tài chính nảy sinh trong quá
trình di chuyển đó thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát
triển , giảm bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài. Đây là nhiệm vụ, vai trò cực kỳ quan trọng, nhất là trong giai đọan
đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội.
-Cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa dạng và
phù hợp. Nhà nước trên cơ sở kiểm tra giám sát bằng đồng tiền, nắm được thực
tế hoạt động của nền kinh tế, có thể dùng các biện pháp đầu tư thêm vốn, bổ
sung thêm vốn để đẩy mạnh những ngành kém phát triển và các lĩnh vực trọng
yếu của nền kinh tế quốc dân. Hay Nhà nước cũng có thể dùng biện pháp giảm
vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế sự phát triển của những ngành những khâu chưa
cần thiết. Đồng thời, Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ
thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành.
-Làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh
giá xác thực hơn giá trị của các doanh ngiệp và nền kinh tế.
-Và cuối cùng là giúp thực hiện một các có hiệu quả hơn các chính sách
kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường mở. Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ
thu - chi tài chính và phân phối thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất,
xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp,
người lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh; thông qua giám đốc tài chính mà có thể duy trì kỷ luật tài chính, góp
phần đẩy lùi lãng phí, tham ô,..
1.2. T ổng quan về thị trường tài chính Việt Nam.
Tính từ năm 1986, năm bắt đầu công cuộc đổi mới ở Việt Nam, như vậy
sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống tài chính Việt Nam đã có những bước chuyển
biến lớn, từ hành chính bao cấp sang vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường.
5
Dẫn chứng cho những điều đó, ta có thể thấy: nước ta đã có nhiều cải cách về hệ
thống thuế, đổi mới hệ thống ngân hàng và tiền tệ, phát triển thị trường bảo
hiểm, xây dựng thị trường thị trường chứng khoán,…Có thể nói cho đến nay,
nước ta đã có một cấu trúc thị trường tài chính khá đầy đủ. Tuy nhiên không chỉ
hình thành một cách đầy đủ mà thị trường tài chính Việt Nam những năm gần
đây đã phát triển mạnh và đạt được tốc độ tăng trưởng cao vượt bậc, nhanh
chóng trở thành “địa điểm” đầu tư hấp dẫn trong con mắt của các nhà đầu tư, tổ
chức nước ngoài. Theo nhận định của những nhà chuyên môn, thị trường tài
chính Việt Nam là một trong những thị trường tài chính phát triển nhanh nhất
thế giới.
Thị trường tài chính Việt Nam được hình thành trong thời kỳ đổi mới,
ngày càng gia tăng về quy mô; đồng bộ về cơ cấu, hiện đại hơn về công nghệ,
nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu
được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong tạo động lực định
hướng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả hiện tại lẫn
tương lai... Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, xét về tổng thể,
thị trường tài chính Việt Nam hiện nay nổi lên một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, thị trường tài chính chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu, chưa
đồng đều về trình độ giữa các bộ phận hợp thành.Có thể nói, ở nước ta cho đến
nay, dường như còn chưa có thị trường tài chính thực sự với đầy đủ hình hài, bộ
phận cần có như thị trường tài chính ở các nước khu vực có nền kinh tế thị
trường phát triển. Các hoạt động trên thị trường tài chính ở nước ta mới chỉ tập
trung vào thị trường vốn ngắn hạn, chưa nhiều các hoạt động trên thị trường vốn
dài hạn. Hơn nữa, trong thị trường vốn ngắn hạn cũng chủ yếu mới tập trung ở
một số hoạt động huy động và cho vay tín dụng thông thường của các ngân
hàng thương mại nhà nước, còn ở thị trường vốn dài hạn mới tập trung ở các
hoạt động vay nợ dài hạn của Chính phủ hoặc doanh nghiệp nhà nước... Thị
trường chứng khoán - một định chế tài chính tiên tiến, thước đo trình độ phát
6
triển thị trường của một quốc gia, một hình thức tổ chức trực tiếp giữa người có
cung - cầu vốn, không có trung gian tài chính, một thị trường liên tục, gần với
thị trường cạnh tranh hoàn hảo - thì hầu như chưa hình thành với tư cách một thị
trường, cũng như chưa được mở rộng trên cả nước. Cho đến nay, mới chỉ có 1
trung tâm giao dịch chứng khoán ở Thành phố Hồ Chí Minh, với 21 công ty
niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu tương đương 130 triệu USD, tức chưa đến 2%
GDP cả nước năm 2002. Tổng cộng mới có 11 công ty chứng khoán, 6 công ty
kiểm toán, 3 ngân hàng lưu ký nước ngoài được thừa nhận về tư cách pháp lý
phục vụ cho 21 công ty niêm yết nói trên và 13000 tài khoản đầu tư thống kê
được tại các công ty chứng khoán và chỉ khoảng 1/4 số tài khoản này là hoạt
động thực sự (trong đó tài khoản của các nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư có
tổ chức rất ít). Đó là chưa kể chỉ số chứng khoán Việt Nam (VN Index) hiện đã
giảm còn chừng 1/3 so với đỉnh điểm (khoảng 150 điểm vào giữa tháng 7/2003
so với 571 điểm ngay 25/6/2001).
Thứ hai, quy mô thị trường còn nhỏ, các hàng hóa và dịch vụ tài chính còn
nghèo nàn, đơn giản và tính chuyên nghiệp chưa cao. Mặc dầu còn thiếu số liệu
đầy đủ để đánh giá tổng quát quy mô thị trường tài chính của nước ta cả về tổng
thể, cũng như từng bộ phận, song có thể cảm nhận thấy sự khiêm tốn của chúng
qua số lượng và quy mô vốn điều lệ, cũng như khả năng thanh toán của các ngân
hàng, công ty tài chính và các cơ sở kinh doanh khác đang hoạt động trong lĩnh
vực tài chính. Hiện tại, trên địa bàn thủ đô Hà Nội - trung tâm tài chính hàng đầu
của cả nước - có 113 các tổ chức tài chính, tín dụng hoạt động, bao gồm 67 ngân
hàng và chi nhánh ngân hàng, 2 công ty tài chính, 6 công ty cho thuê tài chính, 9
công ty chứng khoán, 9 quỹ tín dụng nhân dân và 5 quỹ tài chính Nhà nước. Các
ngân hàng và công ty bảo hiểm quốc doanh lớn nhất nước ta cũng mới chỉ cung
cấp chừng 60 sản phẩm dịch vụ cho các khách hàng so với từ 200 - 600 sản
phẩm dịch vụ hết sức đa dạng và linh hoạt của các ngân hàng và công ty bảo
hiểm trung bình ở các nước phát triển trên thế giới. Đa số dân cư và phần lớn
các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước còn nằm ngoài "vùng phủ sóng" của
7
các dịch vụ thị trường tài chính; nhiều doanh nghiệp đang khát vốn kinh doanh,
trong khi thiếu cơ chế và công cụ hiệu quả khai thông nguồn vốn "chết" trong
dân, trong các ngân hàng .... Tính chuyên nghiệp và năng động của các nhân
viên và cơ sở kinh doanh tín dụng "đen" hoặc tư nhân ở góc độ nào đó đang tỏ
ra hiệu quả hơn so với các cơ sở tín dụng quốc doanh.
Thứ ba, thị trường tài chính còn tập trung vào “sân chơi” và đối tác thuộc
khu vực kinh tế nhà nước, chưa có sư liên thông và mở rộng trong cả nước cũng
như với nước ngoài. Có thể nhận thấy trong bức tranh chung hoạt động của thị
trường tài chính ở nước ta, các điểm sáng và đầu mối cung - cầu lớn nhất, các
công cụ tài chính quan trọng nhất, dường như đều tập trung trong sân chơi giữa
các đối tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước với nhau hoặc huy động vốn từ xã
hội, nhưng lại đầu tư cho khu vực kinh tế này, và ước tính có lẽ chiếm không
dưới 80% tổng giá trị các giao dịch hiện hành trên thị trường tài chính nước ta.
Các ngân hàng, cơ sở kinh doanh tài chính tư nhân và các đối tượng vay vốn tư
nhân còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân ở nước ta đang
gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng do thiếu tài sản
thế chấp, thiếu dự án kinh doanh "khả thi", thiếu thông tin cần thiết, thiếu sự
thấu hiểu và tận tụy của ngân hàng hoặc đơn giản chỉ là do chưa quen vì chưa
từng được hưởng các dịch vụ tài chính này...
Thứ tư, thị trường tài chính hoạt động chưa mang tính thị trường cao và
chưa gắn đồng bộ với các thị trường khác trong nền kinh tế. Rất nhiều ngân
hàng, công ty tài chính vẫn còn mang dáng dấp và phong cách kinh doanh của
thời bao cấp. Hơn nữa, do còn một số bất cập trong khung pháp lý về hoạt động,
do tập trung vào các đối tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước, nên các nguyên tắc
kinh doanh thị trường nhiều khi được thực hiện một cách ước lệ, hình thức.
Dòng vốn xã hội, thông qua thị trường tài chính, vẫn chưa được thực sự chảy
đến những nơi cần đến và tuân theo tín hiệu, nguyên tắc thị trường. Tính cạnh
tranh thị trường giữa các ngân hàng mới đựoc khởi động gần đây, từ khi Ngân
8
hàng nhà nước áp dụng chế độ lãi suất cơ bản và bãi bỏ kiểm soát lãi suất... Nợ
quá hạn, khó đòi của nhiều ngân hàng còn cao do ngân hàng chịu sức ép "cho
vay chính sách", còn các đối tác được vay thì sẵn tâm lý xin hỗ trợ chính sách
càng nhiều càng tốt...Hơn nữa, thị trường tài chính dường như còn hoạt động
một cách đơn độc, thiếu gắn kết đồng bộ với nhiều thị trường và các hoạt động
kinh tế - xã hội lớn khác. Chẳng hạn, thị trường chứng khoán còn thờ ơ với quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; hoặc thị trường tiền tệ trong nước còn
khá ""lãnh đạm"" với thị trường tài chính quốc tế.... Những rủi ro phi thị trường
còn lớn đối với các hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính, nhất là thị
trường chứng khoán (do thông tin cổ phiếu thiếu về số lượng, không đảm bảo về
chất lượng hoặc không kịp thời...).
Thứ năm, thị trường tài chính đang từng bước được xây dựng, củng cố và
phát triển phù hợp quá trình chuyển đổi cơ chế và đáp ứng các cam kết hội nhập
và thông lệ quốc tế. Đây đã, đang và sẽ còn là đặc điểm lớn nhất bao trùm,
xuyên suốt, chi phối và định hướng toàn bộ qua trình vận động của thị trường tài
chính Việt Nam. Cùng với sự chuyển biến về nhận thức và sự hoàn thiện cơ chế
thị trường mở nói chung, hệ thống pháp lý kinh tế nói riêng, thị trường tài chính
Việt Nam sẽ ngày càng được củng cố và phát triển vững chắc, an toàn và hiệu
quả hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu. Các bộ phận thị trường trong hệ thống thị
trường tài chính sẽ tiếp tục mở rộng về quy mô, tăng thêm các công cụ, dịch vụ
chuyên nghiệp, phân nhánh chi tiết và rõ nét hơn các bộ phận thị trường chuyên
biệt (ví dụ, thị trường cổ phiếu doanh nghiệp sẽ phân thành thị trường cổ phiếu
của nhóm doanh nghiệp cơ khí, nhóm doanh nghiệp may mặc, nhóm doanh
nghiệp giầy, ...). Kiến thức, tâm lý và thông tin về thị trường tài chính sẽ được
củng cố, cải thiện cả về phía bên cung lẫn bên cầu, cũng như bên trung gian và
toàn xã hội, tạo thuận lợi cho hoạt động của thị trường tài chính. Đặc biệt, thị
trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được kết nối đồng bộ với các thị trường
khác trong nền kinh tế, được liên thông với thị trường tài chính quốc tế và thu
9