1
Tiểu luận
ĐỀ TÀI: “Mâu thuẫn biện chứng
trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện
nay”
2
MỤC LỤC
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1
B.NỘI DUNG CHÍNH 5
I.Cơ sở của đề tài 5
1.Cơ sở lý luận 5
2. Cơ sở thực tế 6
II. Thực trạng của quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay. 8
1. Thành công 8
2. Hạn chế 10
3.Nguyên nhân: 11
C.KẾT LUẬN 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
3
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vì vậy việc đề ra
một đường lối, một chiến lược phát triển kinh tế phù hợp là hết sức quan
trọng. Sau hơn 18 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những tiến triển, cơ
cấu kinh tế có sự chuyển dịch tiến bộ và phù hợp hơn với điều kiện đất nước.
Những thành công đó đã khẳng định sự đúng đắn trong đường lối của Đảng.
Một trong những nguyên nhân làm nên sự thành công đó là việc bước đầu
hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Tại đại hội Đảng lần thứ VI 12/1985, Đảng ta đã khẳng định phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Động lực để phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần chủ yếu là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập tồn tại sẵn trong
nền kinh tế. Việc phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá
trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một nội dung quan trọng
trong việc xây dựng các chính sách kinh tế xã hội.
Trong quá trình phát triển, xã hội luôn nảy sinh các mâu thuẫn. Khi một
lớp mâu thuẫn được giải quyết hoặc dịu đi thì một lớp mâu thuẫn khác xuất
hiện, lớp nọ kế tiếp lớp kia đòi hỏi giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn chính là
động lực của sự phát triển và phải đạt mục tiêu hài hòa về lợi ích giữa các
nhóm, giai tầng xã hội chứ không phải triệt tiêu lợi ích của bất cứ nhóm, giai
tầng nào. Lợi ích của tất cả các nhóm, giai tầng trong xã hội đều cần được tôn
trọng và bảo vệ nhưng lợi ích dân tộc vẫn phải được đặt lên trên hết.
Nếu giải quyết tốt những mâu thuẫn không đối kháng thì xã hội sẽ phát triển,
nếu giải quyết không tốt thì mâu thuẫn có thể trở thành đối kháng và có thể
dẫn xã hội đi tới thoái hóa, thậm chí suy sụp. Giải quyết tốt mâu thuẫn chính
là làm tăng sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích đối lập đến tột đỉnh, triệt giảm
4
sự xung đột đấu tranh giữa chúng đến mức nhỏ nhất có thể. Cơ sở để giải
quyết tốt mọi mâu thuẫn trong xã hội chính là văn hóa và do đó biện pháp dân
chủ sẽ là thích hợp và hiệu quả nhất.
Từ khi chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, những chủ trương chính
sách mới trong kinh tế cũng đã để lại một số vấn đề về công bằng xã hội mà
nếu không giải quyết một cách thỏa đáng, chúng sẽ biến thành mâu thuẫn
giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay và những mâu thuẫn trong đó em chọn đề tài “Mâu thuẫn
biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở Việt Nam hiện nay “.Trong bài tiểu luận này, dựa trên quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập của phép biện chứng duy vật để phân
tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
5
B.NỘI DUNG CHÍNH
I.Cơ sở của đề tài
1.Cơ sở lý luận
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau giữa các mặt đối lập. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan
và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư
duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của
nhận thức.
Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau.Sự
thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau
giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn luôn đấu tranh
với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
phủ định và bài trừ lẫn nhau.
Trong các sự vật, hiện tượng bao giờ cũng có các mặt đối lập tồn tại,
chúng thống nhất với nhau và là cơ sở cho sự tồn tại của sự vật đó, biểu hiện
tính tương đối của sự vật. Mâu thuẫn thể hiện rõ nét hơn khi hai mặt đối lập
đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh phát triển gay gắt lên đến đỉnh cao thì xảy ra
xung đột giữa hai mặt đối lập. Hai mặt đó chuyển hoá lẫn nhau trong những
điều kiện nhất định tức là mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới ra đời, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế nó. Cứ như
vậy sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra thường xuyên làm cho sự vận
động, phát triển không ngừng, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự phát
triển, là động lực cho sự phát triển trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế có sự thống nhất và đối lập với nhau.
Thống nhất ở chỗ mục đích chung của các thành phần kinh tế là sự phát
triển của nền kinh tế, sự phát triển của đất nước. Nhưng mỗi thành phần kinh
6
tế, đứng phía sau là những chủ thể với những mục đích, lợi ích riêng dẫn đến
cạnh tranh đối lập với nhau. Vậy các thành phần kinh tế chính là các mặt đối
lập trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trong đó mâu thuẫn giữa
chúng là luôn luôn tồn tại và không thể phủ nhận được. Giải quyết được
những mâu thuẫn đó mới có thể phát triển nền kinh tế nước ta theo đúng
hướng của Đảng và có hiệu quả.
2. Cơ sở thực tế
Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống xã
hội chủ nghĩa đã đi theo hai con đường khác nhau. Việt Nam lựa chọn con
đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa
nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò
chủ đạo, thừa nhận kinh tế thị trường, thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, nhưng về mặt chính trị vẫn duy trì nền tảng chính trị của chủ nghĩa xã
hội, trong đó mấu chốt là Đảng cộng sản cầm quyền, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa có khả năng thi hành các chính sách định hướng xã hội chủ
nghĩa. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện mức
sống và nâng cao vị thế quốc gia; trong giữ vững độc lập, tự chủ, tự quyết
định các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam đã khẳng định sự lựa
chọn đường lối phát triển đất nước là đúng đắn.
Tuy nhiên để có được sự nhận thức rõ ràng về kinh tế nhà nước như hiện
nay là cả một quá trình hoàn thiện nhận thức của Đảng ta, bắt đầu từ ý tưởng
xây dựng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu thuần khiết được xác
định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đến tư tưởng xây
dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và tập thể của Đại hội
Đảng lần thứ III Và mặc dù đến Đại hội Đảng lần thứ VI, khi đưa ra chính
sách kinh tế nhiều thành phần vẫn chưa có khái niệm “kinh tế nhà nước”,
song chủ trương của Đảng vẫn là “đi đôi với phát triển kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ
7
vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế khác”.
Đại hội Đảng lần thứ VII đ ã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về kinh tế thị
trường: “Đổi mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc
với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước”; “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”; và phân định rõ phạm
vi quản lý của nhà nước và phạm vi tác động của cơ chế thị trường.
Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngoài sự khẳng định rõ ràng mục tiêu vận
hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa do Đại hội VII nêu ra, lần đầu tiên Đảng đưa ra khái
niệm kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đại hội VIII
đồng thời cũng có một số thay đổi đối với các thành phần kinh tế khác, các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành cùng tồn tại lâu dài, tư tưởng
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác dần trở thành nền
tảng đã cơ bản được hình thành ở Đại hội Đảng lần thứ VIII.
Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng:
“Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngoài ra, Đại
hội Đảng lần thứ IX một lần nữa lại khẳng định tư tưởng công hữu phải là nền
tảng của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng quá trình hình thành nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa phải dần dần, trong đó cần phát huy tối đa khả năng sản
8
xuất của các thành phần kinh tế khác nhằm xây dựng nước ta thành một nước
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Có thể thấy rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hàm chứa nhiều mâu thuẫn, những mâu thuẫn đó tồn tại khách quan.
Vì vậy việc phát hiện và giải quyết nhưng mâu thuẫn trong quá trình phát
triển kinh tế là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng các chính sách
kinh tế xã hội. Đảng ta khẳng định: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã
hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế đảm bảo cho mọi người được làm
ăn theo pháp luật”.
II. Thực trạng của quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay.
1. Thành công
Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự
thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp
đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu
vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và
38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích
cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã
giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng
ngày càng tăng của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003,
chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ
thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng
cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
9
trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng
được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng
sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã
có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do
kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không
cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí…
Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký
mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có
150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với
tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng
của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế
ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống
31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ
1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong
nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các
doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp
điều chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý
tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần
theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày
càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc
10
doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tỷ
trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm
1991 xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9%
trong thời gian tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp
nhà nước được đưa vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882
doanh nghiệp và năm 2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục
tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích
của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao
chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ
108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi thọ trung bình của người dân
từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi năm 2005, giảm tỷ lệ số hộ đói
nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống dưới 7% năm 2005.
2. Hạn chế
a) Việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay ở nước
ta mới ở giai đoạn đầu, xuất phát điểm còn thấp, nền kinh tế hàng hoá chưa
phát triển; sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cung, tự cấp. Thể hiện ở
cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế nói chung và từng thành phần kinh tế nói riêng. Nhìn chung, sản
xuất còn thủ công; năng suất lao động thấp, khối lượng ít, chất lượng và tỷ
suất hàng hoá thấp, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại. Việc hình thành
các thành phần kinh tế mang nặng tính tự phát.
b) Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chưa được xoá bỏ triệt để, tác
phong, lề lối, thói quen cũ trong quản lý của cơ quan nhà nước ảnh hưởng
trực tiếp đến các thành phần kinh tế. Sự đan xen cơ chế quản lý cũ và cơ chế
quản lý mới vừa cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, vừa tạo môi
11
trường cạnh tranh không bình đẳng, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, trong
các đơn vị kinh tế cũng như trong bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước.
c) Thành phần kinh tế quốc doanh đã nhiều năm tồn tại trong chế độ bao
cấp, chưa kịp chuyển sang cơ chế mới, độ nhạy cảm với thị trường còn thấp.
Không ít các xí nghiệp quốc doanh trì trệ, bế tắc, không đứng vững trong cơ
chế mới, đây cũng là mảnh đất cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát
triển. Thành phần kinh tế tập thể giảm đi nhanh chóng cả trong lĩnh vực sản
xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, lĩnh vực lưu
thông.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy có phát triển nhưng mới
chỉ tập trung vào các ngành không cần vốn lớn, thu lợi nhanh như dịch vụ ăn
uống, khách sạn, thương nghiệp. Các thành phần kinh tế này chưa thực sự
bình đẳng trong cạnh tranh. Do còn có sự can thiệp về hành chính của cơ quan
nhà nước, nhất là các thủ tục hành chính nên họ thường chú trọng đến việc
tranh thủ các cơ quan, viên chức nhà nước để có những lợi thế trong cạnh
tranh và thu nguồn lợi không từ sản xuất, kinh doanh.
d) Mức độ hình thành và hoàn thiện thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn
sơ khai, thiếu đồng bộ về thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất, thị
trường sức lao động, thị trường tư liệu tiêu dùng. Điều đó dẫn tới các thành
phần kinh tế chưa có môi trường thực sự cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
Nói một cách khác, hiện nay nền kinh tế của nước ta mới chỉ là giai đoạn đầu
của nền kinh tế hàng hoá (nhiều thành phần) chưa phải nền kinh tế thị trường;
chưa có cơ chế thị thực sự điều tiết nó.
3.Nguyên nhân:
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay do nhiều yếu tố bao gồm:
a) Sự thay đổi về tư duy :
12
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản
chủ nghĩa (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về
bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân
phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy
luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các
quy luật của chủ nghĩa tư bản (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế hoạch
chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, vận
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất
là một động lực của sự phát triển).
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với
trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
- Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là
chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba
chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh
tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đến
quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ
đầu đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn
cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải
13
trải qua một quá trình dài xây dựng, đổi mới và phát triển với những bước
thích hợp; trong khi đó, vẫn khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư
nhân, coi như thành phần này là động lực quan trọng của phát triển kinh tế và
phát triển lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế
hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên
xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức
năng quản lý kinh doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở
hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì
thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận
vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối
tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên
bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị
kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh
doanh.
- Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là
phân phối theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng
thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện
không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối hợp lý
tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đến có
cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự
làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng
pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá
đáng hai đầu.
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta
cũng được đổi mới qua nhiều bước.
14
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta
là kinh tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý
chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh
tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của
đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế
mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển
thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta
là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ
đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có
nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về
công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là
cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân
loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và
phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa
tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ
nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở
trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức
chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta
nghĩa rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ
15
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn
đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và
liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để
rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ nghĩa xã hội hay
không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm của Đại
hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai
trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng
(2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục
đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt:
sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo
Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật
đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
16
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trương
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội
X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn
thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận
hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển
mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh.
Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại,
hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và
song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu
một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh
tế quốc tế của nước ta.
b)Vẫn còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn phức tạp:
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất
cập của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát
triển, tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng
8%/năm
(1)
. Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể
thực hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để
gia tăng mạnh và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện
vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác động không lớn lắm của những biến đổi
kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong
khu vực và thế giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa
được ngăn chặn.
17
- Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt
trái của kinh tế thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở
khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa
tìm được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác
động tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt,
điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo
đức, lối sống của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng.
Văn hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội
hè với nhiều hủ tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình
xuống cấp. Tình huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn,
mức độ phức tạp của tình hình gia tăng hơn Chúng ta chưa tìm được những
phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó.
- Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng
thuận xã hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều
kiện tất yếu để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng
với những yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các thế lực thù
địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình" đối với nước ta bằng
nhiều con đường, nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp
qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý
luận đã làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm
18
Chúng ta có phần còn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh
vực này.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối
sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân
dân, phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện
đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của
bản thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm
được cách để khắc phục tình hình này với hiệu quả cao.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với
sự thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh
hơn nữa việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
sự kết hợp hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song,
chúng ta chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết,
nhiều chủ trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực
tiễn còn thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị còn quá cồng kềnh, cơ chế vận
hành chưa thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ
phận cấu thành hệ thống chính trị còn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa
phương. Việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều nơi còn vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh,
phương pháp hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể còn trong tình trạng
viên chức hoá Sự yếu kém đó, nếu không được khắc phục có hiệu quả, thì
một số phương diện của hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi
mới trên lĩnh vực kinh tế.
- Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu
giá đỡ về lý luận và thực tiễn cho quá trình đó.
19
Dân chủ hoá đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi
mới. Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tất nhất để xác lập vững
chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một Đảng duy
nhất cầm quyền, không đa nguyên về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà
nước theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức
thực hiện dân chủ thích hợp với truyền thống văn hoá chính trị, với trình độ
dân trí, trình độ văn hoá chung của nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong xã
hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên
thực tế còn nhiều hạn chế. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên
quyết, hiệu quả thấp. Chưa có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự
thuộc về nhân dân, vai trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối
với chính quyền và cán bộ, Đảng viên còn mờ nhạt.
- Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với
khả năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác
động tiêu cực của hội nhập.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển,
nhưng chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý
mối quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu
hơn, rộng hơn, đa dạng hơn với việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
-Mâu thuẫn giữa việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng nhân tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới với tình trạng
một số mặt của Đảng chưa thật ngang tầm trước đòi hỏi của tình hình.
Để đổi mới thành công, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều đó chỉ có được duy trì được với tiền
đề: Đảng phải vững vàng về chính trị - tư tưởng, mạnh về tổ chức và cán bộ,
20
trong sạch về đạo đức, lối sống, đứng ở tầm cao về trí tuệ, có phương thức
lãnh đạo thực sự khoa học. Yêu cầu đó đặt ra trong tình hình Đảng đang đứng
trước sự bất cập không nhỏ trên hầu hết các phương diện đó.
Đảng ta nói chung, hầu hết cán bộ, đảng viên nói riêng kiên định mục
tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn, kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đổi mới vì chủ nghĩa xã hội
song, cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thậm chí cả một bộ
phận tổ chức đảng phai nhạt lý tưởng, rơi vào dòng xoáy của thị trường, bệnh
tham nhũng chưa có dấu hiệu suy giảm, một bộ phận sa đoạ về đạo đúc, lối
sống. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu đề ra.
Những yếu kém này đã và đang làm suy giảm một cách đáng kể mềm tin của
một bộ phận nhân dân vào tiền đồ của đổi mới, vào vị trí của Đảng ta. Đó là
nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Sự tiên phong về lý luận là biểu hiện tập trung nhất sự tiên phong của
Đảng. Nhưng, ngay trên lĩnh vực quan trọng này cũng có những hẫng hụt
không nhỏ. Sự phát triển lý luận chưa đủ cung cấp cơ sở khoa học cho việc
tìm ra những lời giải đáp đúng đắn, kịp thời nhằm giải quyết có hiệu quả
những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn trên đây đang là một trở ngại lớn cho việc
tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy
sau 20 năm đổi mới, nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con dường đi lên
CNXH ở nước ta đã được làm sáng tỏ hơn, song cũng còn không ít vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu. Chẳng hạn:
Toàn cầu hoá kinh tế kéo theo toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác. Hội
nhập kinh tế đòi hỏi phải hội nhập trên nhiều lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực
văn hoá, chính trị. Chẳng hạn, để làm ăn kinh tế với nhau, chúng ta phải điều
chỉnh hệ chuẩn pháp luật kinh tế, làm cho nó tương thích với hệ chuẩn kinh tế
của nước đối tác mà phần lớn là tư bản chủ nghĩa: Từ giác độ lý luận, độc lập,
21
tự chủ trên các lĩnh vực này được hiểu như thế nào, từ đó, thiết kế thực tiễn ra
sao?
Những yếu tố quan trọng nhất quyết định tính chất xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở nước ta là gì? Phải chăng, đó là: mục tiêu phát triển vì
con người, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lại có
ý kiến cho rằng, tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu quan trọng nhất, thể
hiện tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phải đảm
bảo công bằng xã hội trong tiếp cận các cơ hội và nguồn lực để phát triển,
trong phân bổ nguồn lực quốc gia, phân phối kết quả làm ra, thực hiện điều
tiết xã hội và phân phối lại.
Có cái gọi là những cơ chế vận hành có tính quy luật, tất yếu của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN không, hay chỉ có những cơ chế vận
hành có tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế thị trường, không tuỳ thuộc vào
chế độ xã hội? Nếu có sự phụ thuộc vào tính chất xã hội, thì tính đặc thù của
những cơ chế đó ở nước ta là gì?
Nhà nước đóng vai trò như thế nào trong quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN? Phải chăng, Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và phát huy các nguồn lực
đầu tư phát triển hay còn phải trực tiếp quản lý doanh nghiệp Nhà nước và
phần Nhà nước trong các loại doanh nghiệp khác?
Sở hữu và thành phần kinh tế vẫn là vấn đề lớn. Phân định sở hữu như
thế nào, 3 hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân) hay 4 hình thức (toàn dân, tập
thể, tư nhân, hỗn hợp), thậm chí là 5 hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn
hợp, sở hữu của nước ngoài đang đầu tư ở nước ta, trong đó có thể có phần
thuộc sở hữu Nhà nước của nước ngoài)? Hơn nữa, nên gọi là "sở hữu toàn
dân" hay để làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của người sở hữu, nên xác định
là "sở hữu Nhà nước"? Có nên phân định thành phần kinh tế, trong đó có kinh
tế tư bản tư nhân không? Hay nên phân định khu vực kinh tế, hoặc phân định
22
theo quy mô sản xuất - kinh doanh để dễ quản lý Nhà nước như hiện nay bên
Nhà nước vẫn phân định? Giải quyết như thế nào yêu cầu xoá bỏ triệt để mọi
hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế với tính tất yếu phải
"đỡ đầu” cho một số loại doanh nghiệp thiết yếu cần cho quốc kế dân sinh
nhưng hiệu quả kinh tế thấp?
Ngoài vai trò của các nhân tố chính trị, không có vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước thì không giữ vững được định hướng XHCN trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường. Nhưng, hiểu như thế nào về vai trò "chủ đạo" của
kinh tế Nhà nước, khi mà ở khu vực này, rất nhiều doanh nghiệp làm ăn với
hiệu quả và sức cạnh tranh thấp? Điều đó không chỉ ở nước ta, mà là hiện
tượng tương đối phổ biến ở ngay những nước có nền kinh tế phát triển thuần
thục như những nước tư bản phát triển. Đây vẫn tiếp tục là vấn đề trọng đại và
bức xúc của đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội X, vì nhiều doanh nghiệp Nhà
nước, hợp tác xã vẫn đang trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả, tham nhũng
nặng nề và tình trạng mất đoàn kết trong bộ máy quản lý đang là phổ biến.
Hướng phát triển tới là thu hẹp hơn nữa diện doanh nghiệp Nhà nước,
tập trung vào một số lĩnh vực mà doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu
quả hơn. Song, trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nếu doanh nghiệp tư nhân
được làm thì phần lớn lại có hiệu quả cao hơn. Vậy, về mặt lý luận, giải quyết
vấn đề này như thế nào?
Thực tiễn 20 năm đổi mới cho thấy rằng, kinh tế tư nhân là một động lực
khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội để phát triển kinh
tế, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, là một động lực rất quan trọng để phát
triển nền kinh tế nước ta. Song, giải quyết như thế nào về mối quan hệ, sự
tương hợp giữa kinh tế tư nhân là phổ biến với chế độ chính trị XHCN, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân?
Đại hội IX đã xác định mục tiêu: "Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Nhưng, điều chưa rõ là lấy
23
những tiêu chí nào để có thể xếp một nước vào hàng ngũ các nước công
nghiệp hay hàng ngũ các nước công nghiệp theo hướng hiện đại, và đến đâu
thì có thể coi là cơ bản trở thành một nước công nghiệp hay một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại? Nếu không làm rõ vấn đề này, ít nhất là về
những tiêu chí chính, thì sẽ không có cơ sở để Đại hội X xác định được mục
tiêu cụ thể cho năm 2010 thoát khỏi nước nghèo, kém phát triển, "tạo nền
tảng" để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp và
bước đi cho các giai đoạn từ 2010 đến 2020.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cao hơn, vấn đề hàng
đầu đặt ra là cần làm rõ hơn những yêu cầu, nội dung của nền kinh tế độc lập,
tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào? Đặc biệt là cần xác
định cụ thể hai nhóm vấn đề then chốt liên quan đến phạm vi và mức độ của
tính độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế là: những vấn đề gì là
những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh cần cương quyết giữ vững,
không được phép nhân nhượng trong các quan hệ hợp tác, liên kết kinh tế
quốc tế, những vấn đề gì, mặc dù cũng rất quan trọng, nhưng có thể nhân
nhượng có mức độ đủ phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế để đem lại lợi
ích cho đất nước? Hơn nữa, có nên thay khái niệm "nền kinh tế độc lập tự
chủ" bằng khái niệm "nền kinh tế tự chủ" không, khi khái niệm "độc lập”
thường chỉ dùng theo nghĩa về mặt chính trị.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần tập trung vào những ngành, lĩnh
vực, những vùng có điều kiện phát triển thuận lợi, thù lao cao cho người làm
ăn có hiệu quả Nhưng, vì vấn đề xã hội, có khi lại không thể làm như thế.
Vậy, giải quyết như thề nào mối quan hệ này để vừa có sự phát triền kinh tế
thị trường nhanh, vừa giải quyết tốt vấn đề xã hội? Tổng quát hơn, những điều
kiện cơ bản bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển ở nước ta là
gì? Xử lý như thê nào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân hoá giàu
nghèo trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta?
24
Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, sớm quyền hạn của các cơ quan
Nhà nước theo phá cách nào để khỏi chồng chéo? Chẳng hạn theo quy định
của Hiến pháp và luật hiện hành, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp, nhưng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng có quyền ban hành
các nghị định độc lập. Trên thực tế các quy định của pháp lệnh và nghị định
cùng có hiệu lực thi hành. Cùng với thẩm quyền lập pháp, Quốc hội lại còn có
các thẩm quyền khác như thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước (các công trình lớn, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của
đất nước ), thẩm quyền liên quan đến tư pháp như quyết định đại xá, bầu
Chánh án Toà án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao Giải quyết như thế nào địa vị phán lý của Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội và cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất? Nói cách khác,
cẩn làm rõ quan điểm về sự thống nhất quyền lực Nhà nước, đồng thời, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
“Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn sinh
động thì muôn hình, muôn vẻ, dồi dào hơn nhiều so với điều mà người ta suy
nghĩ ban đầu” (Hêgen). Một số mâu thuẫn và vấn đề có tính mâu thuẫn nêu
trên không phải là tất cả những mâu thuẫn đang có trong quá trình đổi mới
hiện nay ở nước ta. Song, việc điểm danh một cách đại thể như vậy cũng đủ
cho chúng ta thấy tính phức tạp của tình hình mà chúng ta đang phải giải
quyết.
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính
mâu thuẫn trên đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
25
C.KẾT LUẬN
- Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt đối lập tạo nên mâu
thuẫn trong chính bản thân sự vật hiện tượng đó. Sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập sẽ giúp sự vật phát triển, cái cũ mất đi, thay thế bằng một
cái mới.
- Mâu thuẫn biện chứng với việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần là một vấn đề hết sức cần thiết với nước ta. Những thành tựu mà
chúng ta đã đạt được qua 15 năm thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là sự nỗ
lực vượt bậc của Đảng, toàn dân ta.
- CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận động hình thành trong lịch
sử loài người. Bởi vậy bám sát thực tiễn nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để
phát triển lý luận – đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đã đặt ra cho hoạt động
lý luận của Đảng hôm nay.
- Trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chúng
ta đã đạt được những thành công nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế
đòi hỏi phải hoàn thiện hơn các công cụ quản lý xã hội, công cụ pháp luật,
công cụ tài chính
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của thầy
giáo đã giúp em hiểu sâu sắc hơn và hoàn thành bài tiểu luận này.