Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.95 KB, 24 trang )

Lời nói đầu
Kinh tế thị trường chính là: “của cải chung về sự phát triển của xã hội loài
người” nó luôn luôn là một vấn đề cần nghiên cứu về lý luận cũng như trong
thực tiễn trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình vận động trong nền kinh tế thế
giới những năm gần đây đã khẳng định rằng việc lựu chọn mô hình kinh tế
thị trường có sự điều chỉnh của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là hoàn
toàn đúng đắn và hợp lý.
Ở nước ta hiện nay, sựra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận
và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ
giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường
và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp
ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình
thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ
chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Với đề tài: “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Qua đề tài này
tôi mong muốn các bạn có thể hiểu rõ hơn về những xu hướng vận động và
phát triển của nền kinh tế thị trường, những bản chất và mâu thuẫn cơ bản
của nền kinh tế, của việc hình thành và xây dựng con người XHCN. Việc
nhận thức được thực chất của giai đoạn quá độ, chi phối được nó sẽ tránh
khỏi những sai lầm, chủ quan nóng vội duy ý chí hoặc khuynh hướng cực
đoan, máy móc sao chép tránh những sai lầm có thể xảy ra.
Mặc dù trong suốt quá trình làm đề tài tôi đã có nhiều cố gắng tìm hiểu và
tham khảo các tài liệu nhưng bài tiểu luận của tôi sẽ không tránh khỏi những
thiếu xót. Vì vậy sau khi đọc bài tiểu luận này tôi rất mong nhận được sự góp
ý của các bạn sinh viên, đặc biệt là sự góp ý của các thầy cô bộ môn để bài


tiểu luận của tôi được hoàn chỉnh
Trân thành cảm ơn!
Nội dung
I. Lý luận chung
Trong thế giới hiện thực, bất kỳ một sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng
trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển
ngược chiều nhau. Sựđấu tranh chuyển hoá của các mặt trong những điều
kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ
mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới làm nảy sinh các mặt đối lập và
mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủđịnh lẫn
nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng.
Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc vàđộng lực của sự phát triển.
1) Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến
Theo phép duy vật biện chứng tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong thế
giới khách quan đều chứa đựng trong nó những mâu thuẫn. Sự hình thành và
phát triển của mâu thuẫn do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện
tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất kỳ lực lượng siêu
nhiên nào, kể cảý chí chủ quan của con người. Mỗi một sự vật, hiện tượng
đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các
khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự
liên hệ tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủđịnh lẫn nhau
tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách
quan của chính bản thân của các sự vật và hiện tượng.
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy của của con người, giữa các giai cấp đối kháng như chủ nô và nô lệ,
nông dân vàđịa chủ, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mẫu cũng mang tính
phổ biến, chẳng hạn như cung cầu, tích luỹ và tiêu dùng… trong tư duy của
con người cũng có mâu thuẫn như chân lý và sai lầm…
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc, trong

mỗi sự vật, có thể có rất nhiều mâu thuẫn hình thành, vì sự vật trong cùng
một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác
được hình thành. Ăng- ghen chỉ ra rằng chính sự vận động đơn giản nhất của
vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao
hơn, mâu thuẫn càng thể hiện rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt
quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật. Đó chính là những
thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
2) Sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập nhau.
Quy luật thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập là một trong những quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. V.I. Lênin đã gọi là quy luật hạt
nhân của phép biện chứng vì nóđề cập đến vấn đề quan trọng nhất của phép
biện chứng là nguồn gốc của sự phát triển.
• Thế nào là mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng, những
yếu tố có xu hướng biến đổi trái ngược nhau trong cùng một sự vật, hiện
tượng.
Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo thành từ nhiều bộ phận với những thuộc tính
khác nhau mà còn có những mặt đối lập nhau tạo thành các mâu thuẫn. Bởi vì
trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại
trong nó hai mặt đối lập, mà có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập chỉ có
những mặt đối lập nào tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một
chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ,
phủđịnh và chuyển hoávới nhau (sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc,
động lực đồng thời quy định cả bản chất, khuynh hướng phát triển của sư vật)
hai mặt đối lập như vậy được gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
• Sự thống nhất của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập được hiểu với nghĩa là hai mặt đối lập
nương tựa vào nhau, quy định lẫn nhau, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia
làm tiền đề cho sự tồn tại của mình. Sự thống nhất của các mặt đối lập làđiều
kiện không thể thiếu được cho bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Sự thống nhất

này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật, hiện tượng tạo nên
• Đấu tranh của các mặt đối lập
Phát triển làđấu tranh giữa các mặt đối lập. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là
sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủđịnh lẫn nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh không chỉ là xung đột, đụng độ, thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối
lập. Sựđa dạng, phong phú về hình thức đấu tranh của các mặt đối lập phụ
thuộc vào lĩnh vực tồn tại cũng nhưđiều kiện trong đó diễn ra cuộc đâu tranh
giữa các mặt đó. Lênin cho rằng: “Sựđấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ
lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”
Sựđấu tranh của các mặt đối lập diễn ra từ thấp đến cao, trải qua nhiều giai
đoạn. Khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay
gắt, người ta gọi đó là những liện hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều
nhau, tạo thành động lực bên trong của sựphát triển, thì hai mặt ấy mới hình
thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển
đến giai đoạn xung đột gay gắt nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các điều
kiện cần thiết, hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau. Sau khi mâu thuẫn được
giải quyết, sự thống nhất của hai mặt đối lập cũđược thay thế bằng sự thống
nhất của hai mặt đối lập mới. Hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá
tạo thành mâu thuẫn. Đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi
không ngừng từ thấp đến cao
• Sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập
Không phải bất kỳ sựđấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá
giữa chúng. Chỉ có sựđấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình
độ nhât định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoábài trừ
và phủđịnh lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập
thường diễn ra một cách tự phát. Còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt
đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua các hoạt động cóý thức của con
người. Chuyển hoá các mặt đối lập chính là lúc các mâu thuẫn được giải
quyết. Đó là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú.
Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức: Một là, mặt

đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về
phương diện chất của sự vật. Chẳng hạn, lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành
nên quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng
sản xuất mới ở trình độ hơn. Hai là, cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau
để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Tóm lại: thực chất của quy luật thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập là:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng tạo
thành mâu thuẫn. Sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập làđộng lực
bên trong của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra
đời của cái mới.
Vì vậy, Thứ nhất, mâu thuẫn chỉ có thểđược giải quyết khi cóđủ những điều
kiện chín muồi. Trong hoạt động thực tiễn phải xác định đúng trạng thái chín
muồi của mâu thuẫn, chuẩn bịđầy đủ những điều kiện, phương tiện và tổ
chức lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Không được giải quyết mâu thuẫn
một cách tuỳ tiện, nóng vội khi chưa cóđủ những điều kiện cần thiết. Thứ hai,
mọi mâu thuẫn chỉ có thểđược giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới
những hình thức, biện pháp khác nhau. Do đóđòi hỏi chủ thể phải có quan
điểm lịch sử cụ thể trong việc phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
3) Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến hình thành từ những cấu
trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật hiện tượng
trong bản thân thế giới khách quan. Do vậy trong quá trình hoạt động thực
tiễn phải biết phân tích mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thểđể nhận thức
được bản chất, khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Sự vật khác nhau thì mâu thuẫn cũng khác nhau, mỗi sự vật đều có nhiều
mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn lại cóđặc điểm riêng của nó; quá trình phát triển
của một mâu thuẫn, ở mỗi giai đoạn của nó lại có những đặc điểm riêng. Do
đó, phải biết phân tích cụ thể các mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể
từng loại mâu thuẫn đó.

- Cần nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn. Đó là sựđấu tranh giữa
hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũđể thiết lập cái mới cái tiến
bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được được
coi là chân chính vì nó thúc đẩy sự phát triển.
II – QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM
1) Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với
xu hướng khách quan trong nền kinh tế
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mà ở đó
việc sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai, được quyết định thông qua thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các
doanh nghiệp đều biểu hiện thông qua hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ
trên thị trường.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải
là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự
nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong
thời đại ngày nay. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế
thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói
kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là "cái đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
cụ thể của Việt Nam.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Nó
nằm trong tiến trình phát triển lịch sử khách quan về kinh tế trong xã hội loài
người. Đồng thời nó không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà
là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại.
Còn cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới
sự chi phối của các quy luật thị trường. Trong đó quy luật giá trị giữ vai trò
chi phối và trong môi trường cạnh tranh nhằm phục vụ mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung, cầu và giá cả thị trường

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu
tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh
tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức,
có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật
của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân
dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Như vậy lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết
định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật
phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi
sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được
con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế
cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị
trường.
• Các ưu thế của nền kinh tế thị trường:
- Nó kích thích việc áp dụng tiến bị khoa học kỹ thuật, tăng năng suất
lao động nâng cao trình độ sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận làm
đông lực cho mọi hoạt động. Để thu giữ được nhiều lợi nhuận đòi hỏi

các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý
hoá sản xuất làm cho năng suất lao động xã hội và năng suất lao động cá
biệt tăng lên.
- Kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh
chóng. ở đây tồn tại nguyên tắc ai đưa được hàng hoá ra thị trường trước
tiên sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Mặt khác nếu nhận thức được sản
phẩm của mình không có người mua hay lượng cầu đang giảm dần,
người sản xuất sẽ không sản xuất nữa. Điều đó dẫn đến sự tiết kiệm hao
phí lao động xã hội. Vì vậy kinh tế thị trường luôn diễn ra sự đổi mới
- Trong kinh tế thị trường có nhiều hàng hoá và dịch vụ, đó là một nền
kinh tế dư thừa chứ không phải là một nền kinh tế thiếu hụt. Do vậy, nền
kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn
nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của con người
• Bên cạnh những ưu thế của nền kinh tế thị trường cũng có những khuyết
tật chẳng hạn như: thường xảy ra tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, phân
hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường , tiêu cực và các tệ nạn xã hội phát
triển…
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường nhà nước cần phải có sự can thiệp vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn
định, công bằng và hiệu quả. Trên thế giới đã từng tồn tại rất nhiều mô hình
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước như: Kinh tế thị trường
theo kiểu tự do của Mỹ, mô hình kinh tế thị trường ở Nhật Bản, mô hình
Kinh tế thị trường ở các nước Bắc Âu, ở Cộng hoà liên bang Đức…
Vậy một câu hỏi đặt ra mô hình nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN là gì? Kinh tế thị trường XHCN là một kiểu tổ chức, một kiểu vận
hành nền kinh tế mà một mặt tuan theo những quy luật kinh tế thị trường,
mặt khác dựa trên cơ sở bản chất và nguyên tắc của CNXH được chi phối
bởi nguyên tắc, bản chất của CNXH trên cả ba mặt của nền kinh tế: Sở hữu,
quản lý và phân phối. Đặc trưng chủ yếu của mô hình kinh tế này là: kinh tế
công hữu, kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là chủ thể và kinh tế quốc

hữu làm chủ đạo. Chủ thể là nói về quy mô, mặt định lượng là chính. Chủ
đạo là nói về vai trò dẫn đường soi nối đi, mặt định tính là chính. Kinh tế cá

×