Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

ảnh hưởng của mật độ lên trăng trưởng và tỉ lệ sống của thát lát còm giai đoạn bột lên giống ương trong bể composite

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.47 KB, 55 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG







ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ
TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁ THÁT LÁT CÒM (Chitala ornata)
GIAI ĐOẠN BỘT LÊN GIỐNG ƯƠNG TRONG BỂ
COMPOSITE







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH QUẢN LÍ NGHỀ CÁ








2009

i
LỜI CẢM TẠ

Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy Dương Nhựt Long và thầy
Nguyễn Hoàng Thanh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời
gian thực hiện đề tài.
Xin gởi lời cảm ơn chân thành đến thầy Trần Văn Đua, thầy Nguyễn Thanh
Hiệu và các anh chị trong trại cá thực nghiệm- Khoa Thủy Sản- Đại học Cần
Thơ đã giúp đỡ em tận tình trong quá trình làm thí nghiệm và thu thập số liệu
Em xin gửi lời cảm ơn đến sự giúp đỡ và cộng tác nhiệt tình của các bạn sinh
viên lớp Nuôi Trồng Thủy Sản K31, Lớp Liên Thông Đồng Tháp và Bệnh
Học K31.
Xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến quí Thầy Cô, cán bộ khoa Thủy Sản đã tận tình
giúp đỡ trong suốt thời gian thực hiện đề tài và gởi lời cảm ơn đến Ban lãnh
đạo khoa Thủy Sản trường Đại Học Cần Thơ đã tạo mọi điều kiện tốt nhất
giúp em hoàn thành đề tài này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Thường, cố vấn học
tập lớp Quản Lý Nghề Cá K31, cùng tất cả các bạn trong lớp đã nhiệt tình giúp
đỡ cũng như động viên em trong suốt thời gian làm luận văn tại trường.

XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN


Sinh viên thực hiện


NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG


ii
TÓM TẮT
Đề tài “Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá Thát
Lát Còm (Chitala Ornata) giai đoạn bột lên giống ương trong bể
composite” đã được thực hiện từ tháng 02/2009 – 07/2009 tại Trại nghiên
cứu thực nghiệm, Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ nhằm góp phần hoàn
thiện qui trình ương cá Thát Lát trong vùng. Thí nghiệm được tiến hành trong
vòng 2 tháng trên 9 bể composite có cùng thể tích 60L; với 3 nghiệm thức 1
con/L, 2 con/L, 3 con/L và 3 lần lập lại. Số liệu sau khi thu đã được xử lý
thống kê, phân tích, đánh giá và so sánh để đưa ra những nhận xét.
Kết quả cho thấy ở giai đoạn 30 ngày tuổi cá có tốc độ tăng trưởng tuyệt đối
về khối lượng và chiều dài là khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các
nghiệm thức (p>0,05). Và tỉ lệ sống ở NT II (61,7%) là khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với NT I (94%) và NT III (94,3%). Giai đoạn 30-60 ngày tuổi, tốc
độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài cá là khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05), tăng trưởng nhanh nhất ở mật độ 1 con/L (0,07 g/ngày), thấp nhất ở
mật độ 3 con/L (0,01 g/ngày). Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng giữa
NT I và NT III là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), khác biệt giữa NT II
với NT I và NT III là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tốc độ tăng trưởng
cao nhất ở NT I là 0,08 cm/ngày, thấp nhất ở NT III 0,05 cm/ngày. Tỉ lệ sống
cao nhất ở NT III (88,2%), thấp nhất ở NT II (61,7%) khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa hai nghiệm thức (p<0,05). Nghiệm thức I có tỉ lệ sống 78,7%
khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với NT I và NT III. Kết quả ương saau
60 ngày ở mật độ 3 con/L sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người sản

xuất giống.
Từ những kết quả ghi nhận được, người sản xuất hòan tòan có khả năng chủ
động ương và cung cấp con giống cá Thát Lát Còm có chất lượng tốt cho
người nuôi góp phần đa dạng mô hình, sản phẩm nâng cao thu nhập cho người
dân vùng ĐBSCL.






iii
MỤC LỤC

Danh Mục Trang
Lời cảm tạ i
Tóm tắt ii
MỤC LỤC iii
Danh mục bảng v
Danh mục hình vi
Danh mục từ viết tắt vii
PHẦN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu 2
1.3 Nội dung đề tài 2
1.4 Thời gian thực hiện 3
PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Đặc điểm sinh học 3
2.2 Đặc điểm dinh dưỡng 4
2.3 Đặc điểm sinh trưởng 5

2.4 Đặc điểm sinh sản 5
2.5 Sinh học Moina 6
2.6 Sinh học trùn chỉ 6
2.7 Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam 6
PHẦN 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
3.1 Vật liệu nghiên cứu 8
3.2 Phương pháp nghiên cứu 8
3.2.1 Bố trí thí nghiệm 8
3.2.2 Thực nghiệm ương 9
3.2.3 Quản lý thức ăn và nước trong bể 9
3.2.3.1 Thời gian cho cá ăn 9
iv
3.2.3.2 Thức ăn sử dụng trong quá trình ương 10
3.2.3.3 Cách thức cho ăn và bào quản thức ăn 10
3.2.3 Quản lý thức ăn và nước trong bể 10
3.3 Phương pháp thu và phân tích mẫu 11
3.3.1 Mẫu nước 11
3.3.2 Mẫu cá 11
3.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi 12
3.4 Phương pháp thu, tính toán và xử lý số liệu 12
PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 13
4.1 Các yếu tố môi trường 13
4.1.1 Thủy lý 13
4.1.1.1 Nhiệt độ 13
4.1.2 Thủy hóa 14
4.1.2.1 pH 14
4.1.2.2 Hàm lượng oxi hòa tan 14
4.1.2.3 Độ kiềm (NH
4
+

) 14
4.2 Ảnh hưởng của mật độ lên sự tăng trưởng của cá ương từ ngày 1 đến ngày
30 15
4.2.1 Tăng trưởng về chiều dài trung bình của cá giai đoạn từ 1 ngày tuổi đến
30 ngày tuổi 15
4.2.2 Tăng trưởng về khối lượng trung bình của cá giai đoạn từ 1 ngày tuổi
đến 30 ngày tuổi 16
4.2.3 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình của cá giai đoạn từ 1 ngày tuổi
đến 30 ngày tuổi 17
4.3 Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng của cá ương giai đoạn từ 30 ngày
tuổi đến 60 ngày tuổi - 17
4.3.1 Tăng trưởng về chiều dài trung bình của cá của cá giai đọan 30 ngày
tuổi đến 60 ngày tuổi 17
4.3.2 Tăng trưởng về khối lượng trung bình của cá giai đoạn 30 ngày tuổi đến
60 ngày tuổi 18
4.3.3 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình của cá giai đoạn 30 ngày tuổi
đến 60 ngày tuổi 18
v
4.4 Tỉ lệ sống trung bình của cá ở các nghiệm thức 19
4.4 Tỉ lệ sống trung bình của cá ở các nghiệm thức sau 30 ngày tuổi 19
4.4 Tỉ lệ sống trung bình của cá ở các nghiệm thức sau 60 ngày tuổi 20
PHẦN 5 KẾT LUẬN ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận 21
5.2 Đề xuất 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
PHỤ LỤC 24





















vi
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1 Số lượng cá bố trí ở các nghiệm thức 9
Bảng 3.2 Các chỉ tiêu môi trường trong nuôi Thát Lát Còm 9
Bảng 3.3 Thức ăn sử dụng trong quá trình ương 11
Bảng 4.1 Kết quả trung bình của các chỉ tiêu môi trường 13
Bảng 4.2 Độ tăng khối lượng trung bình và chiều dài trung bình của cá ở 2 giai
đoạn 1-30 ngày tuổi và 30-60 ngày tuổi 15
Bảng 4.3 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình của cá ở 2 giai đoạn 1-30
ngày tuổi và 30-60 ngày tuổi 17
Bảng 4.4 Tỉ lệ sống trung bình của cá ở các nghiệm thức sau 60 ngày tuổi 19


















vii
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 3.1 Cá Còm hay cá Nàng Hai 3
Hình 3.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm 8
Hình 4.1 Đo chiều dài cá bột bằng thước đo cm ở ngày tuổi thứ 30 16


























viii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
FAO Food and Agriculture Organization
ĐBSCL Đồng bằng Sông Cửu Long
NT Nghiệm thức

1

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Nhờ vào sự ưu đãi của thiên nhiên, Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) với
tổng diện tích mặt nước 954.350 ha, chiếm gần 1/4 diện tích của ĐBSCL,

trong đó diện tích mặt nước ngọt chiếm tới 641.350 ha với hệ thống sông ngòi
chằng chịt thuộc hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, là điều kiện thuận lợi cho
nghề nuôi thủy sản nước ngọt phát triển mạnh mẽ.
Trong vùng đã và đang có nhiều loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao như cá
Tra, cá Ba Sa, được nuôi với nhiều qui mô khác nhau. Các đối tượng nuôi
truyền thống và chiếm ưu thế này đã đem lại giá trị xuất khẩu rất cao, góp
phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người nông dân trong những
thập kỷ qua. Tuy nhiên hiện nay chúng gặp không ít khó khăn về nhiều mặt
như: giá cả trong năm biến động mạnh, rào cản kỹ thuật và rào cản kinh tế từ
các nước nhập khẩu, sự bùng phát của dịch bệnh… Những điều này đang làm
tăng rủi ro cho người nuôi. Vì thế những đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế
đang được các nhà lãnh đạo cũng như nhà khoa học và người nuôi quan tâm.
Cá Thát Lát Còm là loại cá quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam và là loại
cá nuôi mới chưa được phổ biến như những loài cá truyền thống. Nhưng với
những giá trị về hình thái, chất lượng và đặc tính sinh trưởng như: màu sắc
đẹp, thịt thơm ngon chất lượng cao, có khả năng thích ứng với điều kiện sống
tốt nên việc nuôi đối tượng này đã nhanh chóng vượt khỏi giới hạn nuôi cảnh
mà hiện nay nó đang góp phần không nhỏ vào nguồn thực phẩm dinh dưỡng
cung cấp cho con người. Các nghiên cứu trước đây về loài cá Thát Lát Còm
phần lớn tập trung vào việc mô tả, nhận dạng và phân loại cùng một số đặc
điểm sinh thái học của loài.
Theo Lê Ngọc Diện, Phan Văn Thành, Mai Bá Trường Sơn và Trịnh Thị Thu
Hương (2006) đã đưa ra những kết quả nhất định về ương và nuôi cá Thát Lát
Còm từ những nghiên cứu của mình. Đến năm 2008 Trần Thị Thanh Hiền và
Nguyễn Hương Thùy cũng đã cho ra những kết quả có ý nghĩa về mặt dinh
dưỡng trên đối tượng này. Về mặt sinh sản nhân tạo có nghiên cứu của Phạm
Minh Thành, Phạm Phú Hùng và Nguyễn Thanh Hiệu năm 2008. Các nghiên
cứu này đã phần nào góp phần vào việc hoàn thiện những vấn đề cần được
nghiên cứu trên đối tượng Thát Lát Còm.
Để nhân rộng và phát triển một đối tượng nuôi cho người dân thì việc đảm bảo

chủ động nguồn giống là rất quan trọng. Nhưng nguồn cá giống vớt từ tự
2

nhiên hoàn toàn không thể đáp ứng đủ nhu cầu bức thiết đó. Và một nhược
điểm lớn của nguồn giống này là cá có kích thước không đồng đều, cá thường
bị xây xát trong quá trình đánh bắt vận chuyển nên dễ bị mắc bệnh. Mặc khác
nguồn giống cá Thát Lát Còm ngày càng cạn kiệt do khai thác quá mức nên
không đáp ứng về cả số lượng lẫn chất lượng cho người nuôi trong khi nhu
cầu con giống ngày càng cao. Trong khi đó con giống sản xuất nhân tạo có thể
khắc phục được nhược điểm này. Tuy cá có thể sinh sản ngoài tự nhiên tốt
nhưng sinh sản nhân tạo đóng vai trò quan trọng trong việc chủ động nguồn
giống, bảo vệ nguồn cá tự nhiên cũng như đóng góp vào việc thuần hóa đối
tượng này thành đối tượng nuôi đạt hiệu quả cao. Trước nhu cầu bức thiết về
con giống với số lượng lớn, chất lượng cao như hiện nay thì việc đầu tư
nghiên cứu ở giai đoạn con giống là rất phù hợp. Do đó đề tài “Ảnh hưởng
của mật độ đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá Thát Lát Còm (Chitala
Ornata) giai đoạn bột lên giống ương trong bể composite” đã được tiến
hành.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Đề tài thực hiện nhằm mục tiêu khảo sát sự tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá
Thát Lát Còm bột trong điều kiện ương với các mật độ khác nhau nhằm tìm
được mật độ ương thích hợp để ương nuôi cá đạt hiệu quả, từ đó làm tư liệu
góp phần xây dựng qui trình ương cá Thát Lát trong vùng.
1.3 Nội dung của đề tài
Để đạt được những mục tiêu trên, cần thực hiện những công việc sau đây:
(1) Theo dõi một số chỉ tiêu môi trường: pH, nhiệt độ, COD, NH
4
+
.
(2) Khảo sát sự tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá Thát Lát ương với 3 mật độ

khác nhau: 1con/l, 2con/l, 3con/l.
(3) So sánh và phân tích hiệu quả kỹ thuật giữa 3 nghiệm thức.
1.4 Thời gian thực hiện đề tài:
Đề tài này được tiến hành nghiên cứu trong vòng 5 tháng, bắt đầu từ tháng
2/2009, kết thúc tháng 7/2009.
Địa điểm thực hiện: Trại cá Thực Nghiệm- Bộ môn Kỹ thuật nuôi Thủy Sản
nước ngọt- Khoa Thủy Sản- Đại Học Cần Thơ.


3

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học
Ngành có dây sống: Chordata
Ngành phụ có xương sống: vertebrata
Bộ: Osteoglossiformes
Họ: Notopteridae (Featherbacks or knifefishes)
Giống: Notpterus
Tên tiếng anh: Clown featherback
Tên khoa học: Chitala Ornata (Gray, 1831)
Tên Việt Nam: Cá Thát Lát Còm
Cá Thát Lát Còm hay còn gọi là cá Nàng Hai hay cá Đao (Chitala ornata)
phân bố rộng trên thế giới nhưng chủ yếu ở Đông Nam Á. Cá có mặt trên toàn
bộ lưu vực sông MeKong như: Ấn Độ, Thái Lan, Mianma, Lào, Cambodia,
Malaysia, Indonesia và Việt Nam. Ở Việt Nam cá tập trung ở ĐBSCL. Cá
Thát Lát có cơ quan hô hấp phụ vì vậy cá có khả năng thích ứng với điều kiện
môi trường có hàm lượng oxi thấp (Theo Khoa học Phổ thông).

Hình 2.1 Cá Còm hay cá Nàng Hai

Thát Lát Còm có hình thái và màu sắc đẹp, hình dáng bên ngoài rất giống với
cá Thát Lát nhưng trên thân có nhiều đốm tròn đen vó viền trắng và phân bố
dọc theo vây hậu môn. Cá có thân hình dẹp bên, cao, phủ vẩy tròn rất nhỏ.
Viền lưng cong và nhô cao. Độ cong của lưng tăng dần theo sự lớn lên của cá.
Đầu nhọn, miệng rộng hướng về phía sau ổ mắt. Vây lưng nhỏ và nằm ở giữa
4

lưng. Vây hậu môn rất dài bắt đầu từ mép vây ngực kéo dài về phía sau và nối
liền với vây đuôi nhỏ.
Vây lưng: 8 - 9, vây ngực: 13 - 15, vây đuôi, vây hậu môn: 128 - 130, vảy
đường bên 168 - 185. Gai sườn bụng 37 - 38. Đầu nhỏ, dẹt bên. Miệng trước,
rạch miệng xiên kéo dài qua khỏi mặt, xương hàm trên phát triển. Răng nhiều,
nhọn, mọc trên hàm dưới trên phần giữa xương trước hàm, trên xương khầu
cái, trên xương lá mía và lưỡi, ngoài ra còn có đám răng nhỏ mịn trên xương
bướm phụ, có một đôi râu mũi ngắn nhỏ, mặt nhỏ (Sách đỏ Việt Nam).
Cá có màu xám bạc, lưng sẫm hơn. Cá trưởng thành có 4 -10 đốm đen, viền
trắng nằm dọc phía trên vây hậu môn. Lúc cá còn nhỏ thân có 10 -15 sọc đen
ngang thân. Khoảng 2 tháng tuổi phần dưới của các sọc này xuất hiện các đốm
nâu tròn. Cá càng lớn, đốm càng rỏ nét trong khi các sọc mờ dần rồi mất hẳn.
Trong điều kiện tự nhiên, cá nàng hai sống ở tầng giữa và tầng đáy. Ban ngày
cá thường ẩn nấp trong đám thực vật thủy sinh. Ban đêm cá hoạt động nhiều
hơn, cá bơi lội chậm , nhẹ nhàng, vây hậu môn hoạt động liên tục như làn
sóng. Cá thích sống môi trường có nhiều thực vật thủy sinh lớn , nước trung
tính pH dao động từ 6,5 - 7. Cá có kích thước và trọng lượng nhỏ thì tiêu hao
oxy lớn và ngược lại. Tiêu hao oxy trung bình của cá là 0.59 mgO
2
/g/giờ ở
nhiệt độ 28 - 29
o
C nhiệt độ thích hợp cho cá từ 26 - 28

o
C.
2.2 Đặc điểm dinh dưỡng
Đây là loài ăn tạp, chủ yếu là ăn động vật, thức ăn chủ yếu là cá, giáp xác và
côn trùng. Cá hoạt động săn mồi tích cực vào ban đêm. Hệ tiêu hóa của cá
gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột. Miệng trức, rộng, rạch miệng xiên kéo
dài ra khỏi mắt, xương hàm trên phát triển. Răng nhiều, nhọn mọc trên hàm
dưới trên phần giữa xương trức hàm, trên xương khẩu cái, lá mía và lưởi.
Ngoài ra, còn có đám răng nhỏ mịn trên xương bướm phụ vì vậy chúng có thể
bắt giữ, cắn xé con mồi. Thực quản ngắn, rộng và có vách hơi dài. Dạ dày
hình chữ J có vách hơi dày. Ranh giới giữa ruột non và ruột già không phân
biệt rỏ ràng. Đây là loài ăn động vật (Dương Nhựt Long, 2004).
Thêm vào đó, Thát Lát có miệng lớn, răng nhỏ sắc, săn mồi ở tầng giữa và
tầng đáy. Ngoài những loài trên cá cũng ăn trùn sống và thức ăn tự chế biến từ
các nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp như rau xanh, bèo hoa dâu, cám, cua, ốc
băm nhỏ, các loài côn trùng, tép… (Nguyễn Chung, 2006).


5

2.3 Đặc điểm sinh trưởng
Cá Thát Lát phân bố chủ yếu ở trung và hạ lưu sông MeKong, vào mùa ngập
nước cá cũng đi vào ruộng hoặc vùng rừng ngập nước. Trong điều kiện tự
nhiên, cá thường sống ở vùng tầng giữa và đáy của mực nước. Cá thích sống
trong môi trường có nhiều thực vật thủy sinh lớn, nước trung tính có độ pH từ
6,5 - 7, nhiệt độ thích hợp 26 - 28
o
C. Cá cũng có thể được nuôi với mật độ khá
cao trong các hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh. Ngoài ra cũng có
thể nuôi ghép cá Thát Lát với một số loại cá khác như Sặc Rằn, Rô đồng, Mè,

Chép nhưng không nuôi với cá Lóc. Ngoài ra cá cũng có khả năng sống ở điều
kiện nước có độ cứng khoảng 6ppm (Dương Nhựt Long, 2004).
2.4 Đặc điểm sinh sản
Cá có chiều dài 20 cm, trọng lượng có thể đạt đến 2 kg có sức sinh sản tối đa
khoảng 1.500 trứng. Trong điều kiện tự nhiên cá tự tái phát dục sau 7 - 10 tuần
và có thể sinh sản hai đến ba lần trong mùa mưa. Cá được nuôi trong ao, hồ có
thể chủ động nuôi thành thục cho sinh sản kéo dài từ tháng 2 đến tháng 11 nếu
được nuôi dưỡng đúng mức và cho ăn đầy đủ chất dinh dưỡng.
Sau khi con cái đẻ xong con đực sẽ theo sau thụ tinh cho trứng và bảo vệ
trứng, dồn trứng thành cụm và quạt nước cung cấp dưỡng khí cho trứng. Số
lượng trong một lần đẻ khoảng 100 - 150 trứng và đẻ thành nhiều đợt, mỗi đợt
khoảng 10 - 15 trứng. Trong tự nhiên cá thường đẻ ở vùng nước cạn có thực
vật thủy sinh. Tuỳ vào nhiệt độ, thời gian nở của trứng sẽ khác nhau, ở 24
o
C
trứng sẽ nở 5 - 6 ngày (Dương Nhựt Long, 2004).
2.5 Sinh học của Moina
Moina thuộc họ Daphnidae. Toàn bộ cơ thể phủ bởi vỏ giáp, hình dẹp, không
phân đốt. Moina sinh sống trong các ao hồ chứa nhưng chủ yếu chiếm cứ
trong các ao hoặc mương tạm thời. Thời gian đạt tới thành thục sinh sản chiếm
khoảng 4-5 ngày ở 26
0
C. Vào giai đoạn trưởng thành những đặc điểm lưỡng
hình theo giới tính rõ ràng có thể quan sát thấy về kích thước của con vật và
hình thái học của râu. Con đực (0,6-0,9 mm), con cái (1,0- 1,5 mm). Con đực
có đôi càng dài dùng để giữ con cái trong lúc giao cấu. Con cái thành thục giới
tính mang chỉ có hai trứng được bao bọc trong một hố yên mà hố yên này là
một phần của vỏ giáp ngoài phần lưng (Trần Ngọc Hải và Trần Thị Thanh
Hiền, 2000).



6

2.6 Sinh học trùn chỉ
Trùn chỉ thuộc họ Tubificidae, giống Tubifex. Trùn chỉ hay còn gọi là giun đỏ,
tìm thấy ở vùng nước nhiều dinh dưỡng và là sinh vật chỉ thị đáng tin cậy nhất
cho vùng bị ô nhiễm. Trùn chỉ hơi giống với giun đất còn non nhưng hơi mảnh
hơn. Chúng sống bằng cách vùi một phần cơ thể xuống đáy bùn và phần lớn
cơ thể hướng lên và uốn lượn như gợn sóng. Khối trùn thường không chỉ đơn
thuần một loài Tuxbifex mà vẫn còn nhiều loài khác (Limnodrilus). Vì thế
chính xác hơn người ta còn gọi trùn chỉ là Tubuficids. Tubificids sống ở nơi có
dòng nước chảy, nhiều chất hữu cơ đang phân hủy và bẩn, nhất là phân hữu
cơ. Chỉ cần một dấu hiệu nhỏ, chúng nhanh chóng rút than vào đáy, sau đó lại
thò đuôi ra vẩy sóng để lấy oxy ít ỏi trong nước bẩn (Trần Ngọc Hải và Trần
Thị Thanh Hiền, 2000).
2.7 Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngành thủy sản là một trong những ngành đi tiên phong trong
công cuộc đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường. Sản lượng của
ngành đã phát triển không ngừng với tỉ lệ tăng trưởng cao (trung bình 10,1%
hàng năm) kể từ 1993 đến 2003. Trong cơ cấu sản lượng thủy sản đã có sự
thay đổi theo hướng giảm dần tỷ lệ sản lượng khai thác và tăng tỉ lệ sản lượng
nuôi trồng. Năm 1992 sản lượng khai thác chiếm 83% và sản lượng nuôi trồng
chiếm 17%, nhưng đến năm 2003 số liệu tương ứng là 65% và 35% (Phụ lục
D). Mặt khác tiềm năng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam rất phong phú và đa
dạng. Diện tích mặt nước: hệ thống ao, hồ, ruộng có diện tích khoảng 1 triệu
ha; vùng triều khoảng 0,7 triệu ha; hệ thống eo, vịnh, đầm phá ven biển có thể
sử dụng vào nuôi trồng thủy sản chưa được qui hoạch khoảng 300.000-
400.000 ha; ngoài ra còn có hệ thống kênh rạch, sông ngòi chằn chịt trên phạm
vi cả nước (Nguyễn Văn Nam, 2005). Bên cạnh tiềm năng về diện tích nuôi,
Việt Nam còn có nguồn lợi thủy sản tự nhiên nội địa và biển khá phong phú.

Cá nước ngọt có 544 loài trong 18 bộ, 57 họ, 228 giống, trong đó có nhiều loài
có giá trị kinh tế cao; cá nước lợ, mặn có 186 loài chủ yếu. Ngoài ra còn có
tôm, nhuyễn thể…là những loài có giá trị kinh tế trong vùng. Tuy nhiên khả
năng khai thác thủy sản nội địa chỉ khoảng 200 ngàn tấn/năm do diện tích khai
thác bị thu hẹp dần và sự quản lí khai thác thiếu chặt chẽ.
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng được thiên nhiên rất ưu
đãi về tiềm năng thủy sản. Nơi đây có diện tích mặt nước và có nhiều điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản (Phụ
lục E), với sự phong phú và đa dạng về các chủng loại cá cũng như các loại
7

hình thủy vực và chất nước nhất cả nước. Nghề khai thác thủy sản ở đây đã
được người dân biết đến từ rất sớm với những cấp độ thô sơ và hiện đại khác
nhau. Song song đó nuôi trồng thủy sản cũng được chú ý ngay từ buổi đầu, và
nó cũng không ngừng được cải tiến theo sự phát triển của xã hội. Nuôi trồng
thủy sản đã phát triển từ những hình thức đơn giản như giữ nuôi cá trong nhà
để phục vụ những bữa ăn gia đình cho đến những mô hình đơn canh, đa canh,
thâm canh, Các hình thức nuôi này đã trở nên quen thuộc với những nông
dân trong nghề thủy sản. Không dừng lại ở phạm vi nuôi trong vùng nước
ngọt, mà đã có rất nhiều thử nghiệm ương nuôi cá ở nước lợ và những vùng
nước có độ mặn tương đối cao (Phụ lục F). Và phần lớn kết quả của những
nghiên cứu đó đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao thu nhập cho người
dân. Nếu như giá trị từ sản phẩm khai thác đã từng đóng góp phần lớn vào
kim ngạch xuất khẩu, thì ngày nay giá trị đó đã giảm nhiều và thay vào đó là
các sản phẩm từ nuôi trồng. Trong đó nuôi trồng thủy sản nước ngọt chiếm từ
54-56% trong sản lượng thủy sản nuôi trồng cả nước. ĐBSCL là vùng cung
cấp sản phầm nuôi nước ngọt lớn nhất cả nước chiếm 63,1% (2003) tổng sản
lượng cả nước (Phụ lục G).
















8

Phần 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
Nguồn cá bột 3-6 ngày tuổi lấy từ Hậu Giang.
Dụng cụ: cân điện tử, bể nhựa 60l, máy bơm nước, ống si phông, hệ thống sục
khí, vợt mịn…
Hóa chất: muối…
Thức ăn cho cá: trứng nước, trùn chỉ, cá tạp.
Máy đo pH, bộ test nhanh, nhiệt kế.
3.2 Phương pháp nghiên cứu.
3.2.1 Bố trí thí nghiệm
Tất cả các thí nghiệm được tiến hành trên bể composite (60l) chứa cùng thể
tích nước là 50l.

Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Ba nghiệm thức thí nghiệm I, II, III và 3 lần lập lại 1, 2, 3. Các bể được đặt
song song nhau một cách ngẫu nhiên. Mỗi bể đều có lưới đậy kín để phòng cá
nhảy ra ngoài. Lưới đậy phải đảm bảo được giặt sạch trước khi sử dụng nhằm
tránh mầm bệnh.
Nước được lấy từ sông vào ao lắng lục bình, nước được bơm từ ao lắng vào hệ
thống bể lọc. Hệ thống bể lọc gồm 5 bể lọc trung gian và một bể chứa trung
tâm, tất cả được âm dưới đất. Trong mỗi bể lọc chứa đá to, đá nhuyễn và cát.
9

Nước được cấp lên hệ thống bể thí nghiệm thông qua máy bơm đặt ở bể chứa
trung tâm. Nước qua lưới lọc và được kiểm tra các yếu tố môi trường, đảm bảo
các yếu tố môi trường thõa mãn những chỉ tiêu môi trường trong ương nuôi cá
Thát Lát.
Bảng 3.1: Những chỉ tiêu môi trường trong nuôi Thát Lát Còm (Nguyễn
Chung, 2006).
Chỉ tiêu pH DO (mg/l) H
2
S (mg/l) CO
2
(mg/l) NH
4
(mg/l)
Giá trị 6.5- 8.0 > 4 < 0.1 8-14 < 1.0
3.2.2 Thực nghiệm ương
Sau khi đã cấp nước từ bể lọc vào các bể composite đã chuẩn bị, lượng nước
cấp đều (50l/1bể) cho 9 bể. Đặt giá thể ny lông (màu đen) vào mỗi bể. Giá thể
dài khoảng 60 cm, được xé nhỏ và cột lại thành chùm, giặt và phơi vài nắng
(đối với ny lông mới mua về), ny lông cũ có thể dùng ngay sau khi đã được
giặt sạch và buộc đá vào giữa giá thể để tránh cho chúng nổi lên mặt nước.
Lấp hệ thống sục khí để đảm bảo cung cấp đủ oxi cho cá trong mọi điều kiện.

Hệ thống ương phải sẵn sàng trước ngày thả cá từ 2-4 ngày. Nước được kiểm
tra các yếu tố môi trường lại một lần trước khi thả cá.
Cá được cân, đo (chiều dài trung bình:1,62 cm, khối lượng trung bình: 0,64g)
sau đó bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào các bể với 3 nghiệm thức (I, II, III) và
3 lần lập lại (1, 2, 3) ở mỗi nghiệm thức, cụ thể như Bảng 3.1.
Bảng 3.2: Số lượng cá bố trí ở các nghiệm thức
Đơn vị: con
Nghiệm thức
I II III
Số lần lập lại
1

50

100

150

2

50

100

150

3

50


100

150

3.2.3 Quản lý thức ăn và nước trong bể
3.2.3.1Thời gian cho cá ăn
Cá được cho ăn mỗi ngày 2 lần (9h và16h30) với 3 loại thức ăn ứng với các
giai đoạn khác nhau.
10

3.2.3.2 Thức ăn sử dụng trong quá trình ương
Cá ở giai đoạn 5-8 ngày tuổi cho ăn Moina, kế đó là trùn chỉ đến ngày thứ 35,
sau đó chuyển hẳn qua cá tạp biển.
3.2.3.3 Cách thức cho ăn và bảo quản thức ăn
a. Moina: Moina mua về được đổ vào trong thao lớn chứa 2/3 nước và có
sục khí mạnh; đến khi cần vớt Moina thì tắt sục khí và dùng vợt mịn đảo theo
vòng tròn, việc đảo theo vòng tròn giúp ta loại bỏ được xác của những con
Moina chết. Sau khi vớt đủ lượng Moina cần thì ta đặt sục khí vào ngay để
tránh thiếu oxi cho những con còn lại. Với cách bảo quản này thì Moina có thể
được bảo quản trong vòng 1-2 ngày và tỉ lệ sống khoảng trên 70%. Khi sử
dụng Moina cho cá ăn ta có thể rải đều trong bể hoặc để ở một góc bể, đều
không ảnh hưởng tới khả năng bắt mồi của cá.
b. Trùn chỉ: Trùn chỉ mua về được rửa vài lần để loại bỏ bớt bùn, sau đó
đặt trùn chỉ vào một cái thao chứa một ít nước. Cho nước chảy tràn nhẹ trong
suốt quá trình bảo quản trùn chỉ. Với cách này ta có thể giữ cho trùn chỉ không
bị chết nhiều và trùn sẽ sạch hơn. Khi vớt trùn chỉ cho cá ăn ta chỉ cần dùng
vợt vớt và rửa lại bằng nước sạch vài lần là được. Khi cho cá ăn bằng trùn chỉ
ta nên gom lại một góc nhưng lấy một ít trùn khuấy động trên mặt nước để
kích thích khả năng nhận biết thức ăn của cá.
c. Cá tạp: Cá tạp mua về được trữ trong tủ đông, do đó ta có thể mua đủ

lượng sử dụng từ 5-10 ngày cho cá.Trước lúc cho cá ăn phải đem rã đông-
dùng nước lạnh cho chảy từ từ lên cá trong khoảng 30 phút. Cá sau khi rã
đông được lóc thịt (chỉ lấy phần thịt mà không lấy da) đem bâm nhuyễn. Với
cá tạp ta phải cho cá ăn từ từ để tránh thức ăn dư thừa nhiều, đồng thời thao
tác phải nhẹ nhàng để tránh làm thức ăn tan rã nhiều. Với cách cho ăn từ từ và
nhẹ nhàng này giúp ta có thể hạn chế được việc làm dơ nước và tiết kiệm thức
ăn nhưng vẫn đảm bảo cung cấp bữa ăn đầy đủ cho cá.
Chú ý: Phải linh động tăng hoặc giảm thức ăn dựa trên hoạt động ăn của cá và
thức ăn dư thừa. Chỉ cho ăn vừa đủ để tránh phí thức ăn và dơ nước. Mặt khác
khi chuyển đổi thức ăn phải chuyển từ từ bằng cách cho ăn kết hợp hai loại
thức ăn cũ và mới, sau đó giảm dần thức ăn cũ, tăng dần thức ăn mới.




11

Quản lý nước trong bể: si phông nước mỗi ngày. Ở giai đoạn cho ăn Moina và
trùn chỉ nước rất ít dơ nên chỉ cần thay 1/3 lượng nước trong bể là đủ; ở giai
đoạn cho ăn cá tạp ta phải thay 2/3 lượng nước trong bể mỗi tuần một lần.
Nước được cấp vào hệ thống bể ương thông qua lưới lọc đường kính 3mm,
cho nước chảy từ từ đến mức nước qui định thì ngừng.
Bảng 3.3: Thức ăn sử dụng trong quá trình ương
Thức ăn
Ngày tuổi
Trứng nước
(lon/ngày/9 bể)
Trùn chỉ
(kg/ngày 9 bể)
Cá tạp (kg/ngày/9

bể)
1-8 0.5

0

0

9-16 0

0.5

0

17-24 0

0.7

0

25-32 0

0.9

0

33-59 0

0

1


.
3.3 Phương pháp thu và phân tích mẫu
3.3.1 Mẫu nước
Mẫu thu định kì 1tuần/ lần. Mỗi lần thu ở hai thời điểm khác nhau trong cùng
một ngày: 8-9 h sáng, 3-4 h chiều.
Các yếu tố COD, NH
4
được đo bằng bộ test có bán trên thị trường, pH được
đo bằng máy đo pH, nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế.
3.3.2 Mẫu cá
Cân điện tử được sử dụng để cân khối lượng cá trước và sau khi thả. Khi sử
dụng cân nên dùng một cái chén khô để vào hộp cân, hiệu chỉnh về 00,00, rồi
vớt cá đặt vào chén, sau đó đậy nắp hộp cân lại để giảm thiểu sai số, đọc số
liệu khi giá trị hiển thị đã cố định. Thao tác tương tự trước khi cân mẫu mới.
Nên lao chén sau khoảng 10 lần cân để giảm sai số.
Dùng thước đo cm có chia vạch mm để đo cá. Khi đo ta cố định đầu cá ở một
đầu thước, đầu kia dùng tay vuốt nhẹ cho cá thẳng rồi đọc giá trị.
Cá được bắt ngẫu nhiên 30 con/ bể để cân và đo.
12


3.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi

Tỉ lệ sống (%) = * 100 3.1


Với: Wc: khối lượng cuối
W đ: khối lượng đầu
t: thời gian nuôi

- Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG, g/ ngày) = 3.2
3.4 Phương pháp thu thập, tính toán và xử lý số liệu
Thông tin thứ cấp được thu thập từ sách, báo, tạp chí.
Số liệu sơ cấp lấy từ kết quả đo đạt trong quá trình thí nghiệm.
Số liệu sau khi nhập được xử lý bằng chương trình Excel và so sánh thống kê
bằng phương pháp phân tích ANOVA với phần mềm Statistical 11.5.














Wc - W đ
t
Tổng số cá giống thu
đươc
Tổng số cá bột
13

Phần 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Các yếu tố môi trường

4.1.1 Thủy lý
4.1.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ ở các bể thí nghiệm vào buổi sáng dao động từ 26,9
0
C- 27,5
0
C, buổi
chiều từ 28,2
0
C- 29
0
C (Bảng 4.1). Giữa các mật độ khác nhau có sự chênh
lệch nhiệt độ nhưng không lớn và nhiệt độ trung bình của nước tăng dần theo
sự tăng mật độ cá. Cụ thể nhiệt độ trung bình ở mật độ 1 con/L luôn thấp nhất
(sáng: 26,9
0
C; chiều: 28,2
0
C), kế đó là mật độ 2 con/L (sáng: 27,5
0
C;
chiều:28,5
0
C), nhiệt độ cao nhất ở mật độ 3 con/L (sáng: 27,6
0
C; chiều: 29
0
C).
Mặc dù có sự chênh lệch nhưng nhìn chung nhiệt độ trong suốt quá trình ương
dao động trong khoảng thuận lợi cho sự sinh trưởng của cá. Sự thuận lợi về

yếu tố nhiệt độ có thể là nhờ vào nguồn nước cấp luôn đầy đủ cộng với việc si
phông đáy bể thường xuyên, thay nước đều đặn hệ thống bể thí nghiệm và
không có sự thay đổi nhiệt độ đột ngột của môi trường. Nhiệt độ là nhân tố
quan trọng vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới các hoạt động sống của sinh vật như:
sinh trưởng, dinh dưỡng, sinh sản và di cư thủy sinh vật Và nhiệt độ đặt biệt
quan trọng đối với những loài động vật biến nhiệt. Khi nhiệt độ cao thì nhu
cầu oxi của chúng tăng và ngược lại. Nhiệt độ cơ thể cá chỉ chênh lệch với
nhiệt độ môi trường khoảng 0,5 – 1
0
C. Thường nhiệt độ thích hợp cho đa số
các loài cá nuôi là từ 20 – 30
0
C. Giới hạn cho phép là từ 10 – 40
0
C, nếu nhiệt
độ lớn hơn 40
0
C hay nhỏ hơn 10
0
C ít loài nào có khả năng sống sót (Trương
Quốc Phú, 2006).
Bảng 4.1: Kết quả trung bình của các chỉ tiêu môi trường
Các chỉ tiêu theo dõi Nghiệm thức
I II III
Nhiệt độ trung bình (
o
C)

Sáng 26,9±0,55


27,5±0,57

27,6±0,34

Chiều 28,2±0,40

28,5±0,50

29,0±0,48

pH trung bình Sáng 7,6±0,10

7,7±0,18

7,8±0,28

Chiều 7,9±0,22

8,1±0,29

8,1±0,21

COD trung bình (mg/L) Sáng 0,5±0,00

0,5±0,00

0,5±0,00

Chiều 0,5±0,00


0,5±0,00

0,5±0,00

NH
+
4
trung bình (mg/L) Sáng 0,5±0,00

0,5±0,00

0,5±0,00

Chiều 0,5±0,00

0,5±0,00

0,5±0,00


14

4.1.2 Thủy hóa
4.1.2.1 pH
Kết quả thí nghiệm có độ pH buổi sáng từ 7,6- 7,8 buổi chiều từ 7,9- 8,1. Ở
mật độ 1 con/L có giá trị pH thấp nhất (sáng: 7,6; chiều:7,9), mật độ 2 con/L
có pH cao hơn (sáng: 7,7; chiều: 8,1) và pH cao nhất ở mật độ 3 con/L (sáng:
7,8; chiều: 8,1) (Bảng 4.1). Độ biến động pH trong ngày không lớn, pH chênh
lệch giữa buổi sáng và buổi chiều khoảng 0,3 đơn vị do đó ta có thể kết luận
pH trong suốt quá trình thí nghiệm không gây hại đến sự tăng trưởng của cá.

Điều này có thể được giải thích là do nguồn nước cấp ổn định và việc quản lí
tốt hệ thống ương. pH là nhân tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với đời sống thủy sinh vật như: sinh trưởng, tỉ lệ
sống , sinh sản và dinh dưỡng. Khi pH thay đổi thì sự tiêu hao oxi của cá cũng
thay đổi theo, dù pH tăng hay giảm thì tiêu hao oxi của cá đều tăng. pH thích
hợp cho thủy sinh vật là 6,5- 9 (Trương Quốc Phú, 2006).
4.1.2.2 Hàm lượng oxi hòa tan
Hàm lượng oxi hòa tan trong nước của các bể thí nghiệm luôn ở mức ổn định
0,5 mg/L ở những thời điểm kiểm tra. Mặc dù với bộ test nhanh không cho ra
những giá trị chính xác nhưng vẫn đảm bảo chính xác các khoảng giá trị do đó
vẫn đảm bảo độ tin cậy cao. Với giá trị oxi đo được trong các bể thí nghiệm thì
hàm lượng oxi hòa tan trong nước không ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của
cá. Sự ổn định này có thể là do nguồn nước không có sự biến đổi lớn và hệ
thống sục khí được trang bị hoạt động xuyên suốt thời gian ương. Oxy là chất
khí quan trọng nhất trong số các chất khí hòa tan trong môi trường nước. Oxi
rất cần cho đời sống sinh vật, đặc biệt là thủy sinh vật do hệ số khếch tán của
oxi trong nước nhỏ hơn rất nhiều so với trong không khí nên dễ đưa đến hiện
tượng thiếu oxi cục bộ trong thủy vực. Nồng độ oxi hòa tan trong thủy quyển
chỉ chiếm 3/4% thể tích. Nồng độ oxi hòa tan lí tưởng cho sự phát triển của
tôm cá là trên 5ppm (Trương Quốc Phú, 2006).
4.1.2.3 Amonium (NH
4
+
)
Amonium trong thí nghiệm cũng không có sự biến động mạnh, chỉ dao động
trong phạm vi 0,5 mg/L. Điều đó cũng có thể được giải thích là do không có
sự biến động của nguồn nước cung cấp. Tuy có xuất hiện một vài đợt mưa lớn
trong quá trình ương, nhưng do nước đã được cấp vào hệ thống bể lọc nên
những lúc mưa việc thay nước các bể thí nghiệm vẫn được tiến hành bình
thường mà không sợ có sự thay đổi đột ngột của môi trường. NH

4
+
trong nước
rất cần thiết cho sự phát triển của các sinh vật làm thức ăn tự nhiên, nhưng nếu
15

hàm lượng NH
4
+
quá cao sẽ làm cho thực vật phù du phát triển quá mức không
có lợi cho cá (thiếu oxi vào sáng sớm, pH dao động ). Hàm lượng NH
4
+
thích
hợp cho ao nuôi thủy sản là 0,2- 2 mg/L.
4.2 Ảnh hưởng của mật độ lên sự tăng trưởng của cá ương từ 1 ngày tuổi
đến 30 ngày tuổi.
Sự tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng cá trong 30 ngày đầu được trình
bày ở Bảng 4.2.
Bảng 4.2: Tốc độ tăng trưởng về khối lượng và chiều dài của cá Thát Lát Còm
ở 2 giai đoạn 1-30 ngày tuổi và 30- 60 ngày tuổi.
Nghiệm thức
Các chỉ tiêu tăng trưởng
I
(Mật độ 1
con/L)
II
(Mật độ 2
con/ L)
III

(Mật độ 3
con/L)
Khối lượng trung bình cá bột (g/con) 0,56±0,1
a
0,63±0,02
ab
0,73±0,04
b
Khối lượng trung bình cá giống 30 ngày
(g/con) 4,5±0,66

3,77±0,55

3,07±1,10

Khối lượng trung bình cá giống 60 ngày
(g/con)
6,68±0,53
a
4,82±0,5
b
3,31±1,25
b
Độ tăng khối lượng trung bình (g/con) 3,94

3,14

2,34

Chiều dài trung bình cá bột (cm/con) 1,64±0,12


1,63±0,15

1,60±0,38

Chiều dài trung bình cá giống 30 ngày
(cm/con)
7,77±0,60

7,27±0,15

6,83±0,91

Chiều dài trung bình cá giống 60 ngày
(cm/con) 10,12±0,32
a
9,08±0,15
ab
8,18±0,93
b
Độ tăng chiều dài trung bình (cm/con) 6,13

5,64

5,23

(Những giá trị trong cùng một hàng có những chữ cái a, b, c khác nhau là khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05)
4.2.1 Tăng trưởng về chiều dài của cá từ 1 ngày tuổi đến 30 ngày tuổi
Trong giai đoạn 30 ngày tuổi đầu, sự tăng trưởng về chiều dài của cá không

đều nhau giữa 3 mật độ. Cụ thể, ở mật độ 1 con/L cá có chiều dài trung bình
(7,77 cm/con) lớn nhất so với chiều dài trung bình ở nghiệm thức II (2 con/L)
(7,27 cm/con) và nghiệm thức III (3 con/L) (6,83 cm/con) . Bảng 4.2 cho ta
thấy sự khác biệt giữa các nghiệm thức là không có ý nghĩa thống kê (p>
0,05). Như vậy chiều dài trung bình của cá không có sự chênh lệch lớn giữa
các mật độ, tuy nhiên chiều dài trung bình của cá giảm dần theo sự tăng mật
độ nuôi 1 con/L, 2 con/L, 3 con/L. Chiều dài trung bình của cá trong thí
nghiệm này là lớn hơn so với thí nghiệm trước đây về ương cá Thát Lát Còm ở
mật độ thưa hơn (mật độ lần lượt là 25 con/60L, 50 con/60L, 75 con/60L).

×