Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Đề bài lý luận về mối liên hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường và sự liên hệ thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.19 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
--------------------------------------------------------------------------

TIỂU LUẬN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề bài: Lý luận về mối liên hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong
nền kinh tế thị trường và sự liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.

Họ và tên:
Mã SV:
Lớp:
Người hướng dẫn:

[Type here]

Đặng Diễm Quỳnh
11219120
Quản trị kinh doanh quốc tế CLC 63D
Thầy Lê Ngọc Thông

Hà Nội - 2022

[Type here]


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
--------------------------------------------------------------------------


TIỂU LUẬN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề bài: Lý luận về mối liên hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong
nền kinh tế thị trường và sự liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.

Họ và tên:
Mã SV:
Lớp:
Người hướng dẫn:

Đặng Diễm Quỳnh
11219120
Quản trị kinh doanh quốc tế CLC 63D
Thầy Lê Ngọc Thông

2


MỤC LỤC
Lời giới thiệu.................................................................................................................. 4
A. Tổng luận................................................................................................................... 5
B. Nội dung..................................................................................................................... 6
I. Lý luận kinh tế chính trị........................................................................................ 6
1. Cạnh tranh.......................................................................................................... 6
2. Độc quyền............................................................................................................ 7
3. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường......8
3.1 Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do........................................................8
3.2. Độc quyền là nguyên nhân khiến cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay
gắt hơn.................................................................................................................. 8
II. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam hiện nay...............................9
1. Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam...................................................................9

1.1. Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.................9
1.2. Xu hướng sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp dẫn đến độc
quyền, nâng cao năng lực cạnh tranh..............................................................10
2. Thực trạng độc quyền ở Việt Nam...................................................................11
III. Giải pháp đề xuất...............................................................................................12
1. Về phía Nhà nước..............................................................................................12
2. Về phía Hiệp hội doanh nghiệp........................................................................14
3. Về phía các doanh nghiệp.................................................................................14
4. Về phía người tiêu dùng...................................................................................15
C. Kết luận...................................................................................................................16
Tài liệu tham khảo....................................................................................................... 17

3


Lời giới thiệu
Nền kinh tế thị trường – nơi diễn ra những hoạt động sản xuất hàng hóa, tạo ra sản phẩm,
hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa – đóng góp một vai trị khơng nhỏ trong sự vận động và
phát triển nền kinh tế, đất nước vững mạnh. Trong nền kinh tế thị trường ấy, không thể không
kể đến một trong những quy luật phổ biến nhất – quy luật cạnh tranh. Khi đã tham gia vào thị
trường, để có sự tồn tại và phát triển, khơng thể thiếu đi sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh
doanh để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong bất kì lĩnh vực nào. Đặc biệt, trong bối
cảnh hiện nay, khi nhiệm vụ quan trọng được đặt lên hàng đầu của đất nước ta là cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đất nước đang mở cửa hội nhập, giao lưu với các quốc gia từ nhiều nền kinh
tế khác, thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, đổi mới, chuyển giao những tiến bộ về khoa
học công nghệ, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp trong nước và quốc tế phát triển. Song,
bên cạnh những lợi thế từ việc tăng cường hội nhập, chúng ta cũng sẽ gặp khơng ít khó khăn,
thách thức khi vừa phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, vừa phải cạnh tranh với
những doanh nghiệp lớn từ nước ngoài hay những doanh nghiệp FDI. Nền kinh tế thị trường
cho phép các chủ thể cạnh tranh tự do, nhưng việc cạnh tranh tự do này có thể sẽ dần tích tụ

đến một mức độ nào đó và dẫn đến hiện tượng độc quyền, gây trở ngại cho quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Hiện nay, theo dòng chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thi
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những tàn dư bất lợi của nền kinh tế trước vẫn còn để lại
như tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực thiết yếu,…
Vậy làm sao để tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hạn chế được tình trạng cạnh
tranh khơng bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, kiểm soát vấn đề độc quyền trong nhiều
lĩnh vực là bài toán cần phải tìm ra lời giải đáp. Chính vì sự cấp thiết của vấn đề này, nên em
đã chọn đề tài: “Lý luận về mối liên hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị
trường và sự liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.”
Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận khơng thể tránh khỏi những sai sót và trình độ cịn
hạn chế, em mong sẽ nhận được những đóng góp và nhận xét của thầy để bài viết này và trong
những bài viết tiếp theo có thể được cải thiện. Bên cạnh đó, em xin chân thành cảm ơn sự giảng
dạy tâm huyết và tạo điều kiện cho chúng em để có thể tiếp thu kiến thức về bộ mơn Kinh tế
chính trị Mác - Lênin được đầy đủ và khách quan hơn!

4


A. Tổng luận
Với đề tài: “Lý luận về mối liên hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị
trường và sự liên hệ thực tiễn ở Việt Nam” lần này, mục tiêu nghiên cứu là để phân tích và làm
sáng tỏ những khái niệm, hiểu biết về vấn đề cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị
trường. Qua đó, vận dụng những kiến thức đó, liên hệ thực tiễn với tình trạng hiện tại trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và vận dụng để đề xuất những giải
pháp hợp lí, tháo gỡ những vấn đề cịn đang khúc mắc trong thời điểm hiện tại.
Bài tiểu luận sẽ gồm 3 nội dung chính:
-

Phần I: Lý luận của Mác – Lênin về cạnh tranh và độc quyền.


-

Phần II: Thực trạng vấn đề cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam hiện nay.

-

Phần III: Đề xuất những giải pháp nhằm duy trì cạnh tranh và hạn chế độc quyền, nhằm
phát triển nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Để hoàn thành được bài tiểu luận này, những phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng là:
-

Phương pháp nghiên cứu dựa trên việc phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và
hệ thống hóa lý thuyết: mục đích là để khái quát lại những kiến thức về cạnh tranh và
độc quyền theo nghiên cứu của Mác – Lênin, từ đó tăng vốn hiểu biết sâu rộng về lĩnh
vực mà mình đang thực hiện.

-

Phương pháp nghiên cứu dựa trên những dữ liệu điều tra được: những tài liệu này đã
hỗ trợ, bổ sung, giúp em có cái nhìn đa chiều hơn về đề tài mà mình thực hiện.

5


B. Nội dung
I. Lý luận kinh tế chính trị
1. Cạnh tranh
Sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu thế nhất định

về sản xuất cũng như tiêu thụ và thơng qua đó cũng thu được lợi ích tối đa được gọi là cạnh
tranh. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường cũng càng trở
nên thường xuyên và quyết liệt hơn. Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành thì trong nền kinh tế
thị trường, cạnh tranh cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau.
Những tác động tích cực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Đầu tiên, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ thể sản xuất kinh doanh sẽ khơng
ngừng tìm kiếm, ứng dụng các cơng nghệ, các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từ đó dẫn đến
trình độ tay nghề, tri thức của người lao động cũng được đổi mới. Kết quả là, cạnh tranh thúc
đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn.
Thứ hai, với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, mọi chủ thể kinh tế bên cạnh việc hợp tác,
họ cũng đồng thời cạnh tranh với nhau để có được nhiều điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
kinh doanh để thu được lợi nhuận cao nhất. Thơng qua đó, nền kinh tế thị trường khơng ngừng
được hồn thiện, phát triển hơn nhờ cạnh tranh.
Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực. Để phân
bổ các nguồn lực hợp lí vào chủ thể có thể sử dụng hiệu quả phải dựa trên nguyên tắc cạnh
tranh. Theo đó, các chủ thể sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh lẫn nhau để có cơ hội sử dụng
nguồn lực cho việc sản xuất kinh doanh của mình.
Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường, người tiêu dùng là người cuối cùng quyết định chủng loại, số lượng, chất lượng của
hàng hóa trên thị trường. Chỉ những hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng lựa chọn thì mới
bán được và khi đó chủ thể kinh tế mới có lợi nhuận. Mà mục đích cao nhất của các chủ thể là
tối đa lợi nhuận, vì vậy họ phải tìm cách để tạo ra khối lượng sản phẩm phong phú, dồi dào, đa
dạng, chất lượng cao, giá thành hạ, thì mới đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và xã
hội.
Bên cạnh đó, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành
mạnh:
Thứ nhất, khi các chủ thể kinh tế cạnh tranh thiếu lành mạnh, dùng mọi thủ đoạn xấu xa
để tìm kiếm lợi thế sẽ gây tổn hại đến mơi trường kinh doanh, thậm chí xói mịn giá trị đạo đức
xã hội. Do đó, những biện pháp, thủ đoạn thiếu lành mạnh này cần được loại bỏ, bài trừ.


6


Thứ hai, các nguồn lực sẽ bị chủ thể chiếm giữ để giành được ưu thế trong cạnh tranh, từ
đó mà các nguồn lực khơng được phát huy vai trị của mình, khơng được đưa vào sản xuất để
tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội, dẫn đến việc lãng phí nguồn lực.
Cuối cùng, khi sử dụng các nguồn lực hiệu quả, xã hội sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn để
thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên, khi cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến các nguồn lực bị lãng
phí, sẽ khiến cho các phúc lợi bị ảnh hưởng, tổn thất.
2. Độc quyền
Độc quyền là hiện tượng một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp cấu kết với
nhau nhằm chiếm vị trí độc tơn trong việc sản xuất hay tiêu thụ hàng hóa dịch vụ, đồng thời
cũng cho phép họ kiểm soát giá cả độc quyền để thu lợi nhuận tối đa và ngăn không cho các
đối thủ cạnh tranh Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền là do hậu quả của q trình cạnh
tranh khơng được định hướng và điều chỉnh, dẫn đến thiếu lành mạnh chuyển sang cạnh tranh
mang tính độc quyền và kết quả cuối cùng là dẫn đến độc quyền. Ngoài ra, các tổ chức độc
quyền được thúc đẩy mạnh mẽ, sự phát triển của hệ thống tín dụng, giá cả độc quyền cũng là
những nguyên nhân hình thành nên độc quyền.
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị trí độc quyền trên
cơ sở vẫn duy trì các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế nhằm tạo
ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của chế độ chính trị xã hội ứng với điều kiện phát triển
nhất định trong các thời kỳ lịch sử.
Tác động tích cực của độc quyền đối với nền kinh tế:
Đầu tiên phải kể đến là, các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung nhiều nguồn lực,
nhất là nguồn lực về tài chính khi nghiên cứu hay triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật,
thúc đẩy sự tiến bộ công nghệ.
Thứ hai, là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn, độc
quyền tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kĩ thuật, công nghệ sản
xuất mới, hiện đại, áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, làm tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh

doanh
Thứ hai, độc quyền do sự liên minh giữa những doanh nghiệp có quy mơ lớn và tập
trung sản xuất, nên sẽ tạo ra được lợi thế to lớn khi sử dụng vốn để ứng dụng các thành tựu
công nghệ, kỹ thuật mới, hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến, năng suất lao động được nâng
cao, chi phí sản xuất thấp, từ đó năng lực cạnh tranh sẽ được nâng cao trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Thứ ba, bằng ưu thế tập hợp được sức mạnh kinh tế, đặc biệt là tài chính, các tổ chức
độc quyền sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để đầu tư vào những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi
7


nhọn, phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng sản xuất tập trung với quy mô lớn và hiện
đại.
Tuy nhiên, không thể không kể đến những hậu quả do độc quyền đem lại cho nền kinh
tế:
Thứ nhất, dù độc quyền có lợi thế tạo ra số lượng hàng hóa lớn, giảm chi phí sản xuất
xuống thấp dẫn đến giá cả hàng hóa giảm, nhưng bản chất độc quyền khơng giảm giá, mà họ áp
đặt giá bán cao và giá mua thấp, thực hiện sự trao đổi không ngang giá, khối lượng hàng hóa bị
hạn chế…do đó làm xuất hiện cạnh tranh khơng hồn hảo gây thiệt hại cho người tiêu dùng và
xã hội.
Thứ hai, tuy khả năng nghiên cứu, sáng chế các sáng tạo khoa học kỹ thuật là rất lớn khi
nắm được độc quyền trong tay, nhưng điều này sẽ chỉ thực hiện được khi vị thế của những tổ
chức độc quyền khơng bị lung lay. Vì thế, dù có lợi thế về nguồn lực tài chính, song các tổ
chức này lại khơng q tích cực thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế. Điều
này ít nhiều sẽ kìm hãm sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, và theo đó là kìm hãm sự phát triển kinh
tế, xã hội.
Thứ ba, khi độc quyền nhà nước bị chi phối hoặc khi độc quyền tư nhân chi phối các
quan hệ kinh tế, xã hội thì sẽ làm tăng sự phân hóa giàu nghèo. Do có vị trí then chốt trong
kinh tế và đạt được lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền sẽ không ngừng bành trướng sang các
lĩnh vực khác như chính trị, xã hội, chi phối quan hệ, đối nội đối ngoại của một quốc gia, vì lợi

ích của các tổ chức độc quyền chứ khơng vì lợi chung của tồn thể xã hội.
3. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường
3.1 Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do
Độc quyền đối lập với cạnh tranh, nhưng cũng đồng thời có mối quan hệ nhân quả trong
cấu trúc thị trường. Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được quy định trong điều 4 Luật
Cạnh tranh 2004: “Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước
bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh” và tại điều 5 Luật Cạnh tranh 2018 cũng
quy định tiếp, theo đó: “Doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
Nhà nước bảo đảm quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh.” Vì vậy, các cơng ty, tập đồn
có quyền tự do cạnh tranh và được tự do lựa chọn hành vi và phương thức cạnh tranh, tuy
nhiên những hành vi và phương thức đó phải tuân theo quy định của pháp luật.
3.2. Độc quyền là nguyên nhân khiến cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt
hơn
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại hai sự cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh
doanh và sự cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền.
Đầu tiên là sự cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền. Những cách thông thường để chi phối các doanh nghiệp ngoài độc quyền là: độc quyền
8


mua nguyên liệu đầu vào, độc quyền phương tiện vận tảu, độc quyền tín dụng…khiến cho các
doanh nghiệp yếu thế hơn gặp khó khăn và bị loại bỏ ra khỏi thị trường.
Thứ hai là sự cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền. Hình thức cạnh tranh này có thể
diễn ra thông qua sự cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành, dẫn đến một
sự thỏa thuận hoặc một trong các bên cạnh tranh sẽ phải đóng cửa; hay cạnh tranh giữa các tổ
chức độc quyền trái ngành nhưng có liên kết với nhau khi cùng một nguồn lực đầu vào…
Thứ ba là cạnh tranh nội bộ trong các tổ chức độc quyền. Các thành viên trong tổ chức
độc quyền cũng có thể cạnh tranh với nhau để chiếm lợi thế trong hệ thống như: chiếm tỷ lệ cổ
phần khống chế, sau đó là thay đổi địa vị chi phối và chia sẻ nhiều lợi ích hơn cho mình.


II. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam
Hiện nay, Đảng ta đã đề ra những chủ trương nhằm tạo lập môi trường kinh doanh cạnh
tranh lành mạnh, cơng khai, minh bạch, hạn chế tình trạng độc quyền trong các kỳ Đại hội. Có
rất nhiều quan điểm, định hướng cải cách quan trọng đã được thực hiện nhằm tăng cuòng mức
độ cạnh tranh của thị trường như xóa bỏ, giảm thiểu rào cản hạn chế cạnh tranh, các lĩnh vực
mang tính độc quyền nhà nước được thu hẹp, giá cả của các mặt hàng hóa, dịch vụ đang dần
phản ánh đúng hơn về quan hệ cung – cầu trong thị trường. Những cải cách này đã phần nào
góp sức tạo động lực cho các chủ thể kinh doanh phát triển, tăng mức độ cạnh tranh giữa các
chủ thể trong thị trường.
Tuy nhiên, việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam vẫn còn chưa nhất
quán, chưa thấy được vai trò then chốt của Nhà nước trong nền kinh tế, nên chưa thấy được
những quan điểm dứt khoát về việc ủng hộ cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong
kinh doanh. Vậy nên, bức tranh cạnh tranh vẫn còn nhiều vấn đề cần phải đề cập đến, thể hiện
ở:
1.1. Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế
Tình trạng này vẫn cịn xuất hiện khơng chỉ giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
nước với khối tư nhân mà cịn có sự cạnh tranh khơng lành mạnh giữa các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi với khối doanh nghiệp trong nước. Thực tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp
cho rằng các doanh nghiệp nhà nước thuận lợi hơn trong việc tiếp cận đất đai, các khoản vay
ưu đãi và trong thủ tục hành chính, có lợi thế hơn khi nhận được các hợp đồng từ cơ quan Nhà
nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp này còn tâp trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề
then chốt như điện, nước, than, dầu, bưu chính viễn thơng…, trong khi đó các doanh nghiệp tư
nhân khơng được coi trọng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI cũng được ưu tiên hỗ trợ trong
việc thực hiện các thủ tục hành chính, đặc quyền miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, việc
tiếp cận đất đai cũng được tiến hành thuận lợi hơn; các nguồn lực kinh tế cũng chủ yếu được
ưu ái hơn cho những doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Dù
đã có những chính sách để tạo cơ hội cho tư nhân phát triển, nhưng vẫn chưa tạo dựng được
9



một sân chơi lành mạnh, bình đẳng, chưa cải thiện được được mơi trường kinh doanh và cắt
giảm chi phí cho doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ cho các doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp thông đồng, cấu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong hội, và từ đó loại trừ các doanh nghiệp khác, ngăn chặn các hoạt động kinh
doanh, mở rộng quy mô của các doanh nghiệp khác. Hơn nữa, các doanh nghiệp còn thỏa thuận
với nhau để phân chia địa bàn hoạt động, thị trường tiêu thụ hàng hóa làm cho chuỗi cung ứng
trên thị trường bị gián đoạn, chia cắt thị trường trong nước.
Các doanh nghiệp luôn hướng đến mục tiêu cao nhất là tối đa hóa lợi nhuận mà khơng
phải đối mặt với bất kì khó khăn cản trở nào, do vậy nên những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đang diễn ra ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Theo Luật Cạnh tranh năm 2018 ở nước
ta đã quy định rõ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm bao gồm: chỉ dẫn gây nhầm
lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác; gây
rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh; bán hàng đa cấp bất chính… Trong nhóm những hành vi được quy định đó, gièm pha
doanh nghiệp khác và gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi thường
được các doanh nghiệp sử dụng nhằm “hạ bệ” đối thủ trên thị trường. Bên cạnh đó, cịn có
hành vi khuyến mãi nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Trong một vài năm gần đây,
với sự bùng nổ của các ứng dụng thông minh trên các thiết bị điện tử đã gây ra tác động không
nhỏ đến doanh thu, thị phần của các hãng xe taxi truyền thống, đơn cử là Công ty Cổ phần Ánh
Dương Việt Nam (Vinasun) đã liên tục khởi kiện Công ty TNHH Grab (Grab) về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và yêu cầu bồi thường 41.2 tỷ đồng. Vinasun cho rằng trong suốt thời
gian qua, Grab đã có những phương thức cạnh tranh không lành mạnh, khuyến mãi tràn lan
(hơn 90 ngày một năm), phá giá, không tuân thủ quy định cũng như không nộp thuế,…gây ảnh
hưởng và thiệt hại đến doanh thu của taxi truyền thống. Theo phán quyết của toàn, từ khi vào
Việt Nam, Grab đã gây nhiều thiệt hại cho Vinasun tổng cộng đến 85 tỉ đồng, tuy nhiên
Vinasun không xác định rõ phần thiệt hại nào do Grab gây ra nên Grab chỉ cần bồi thường cho
Vinasun 4.8 tỉ đồng thiệt hại do xe nằm bãi.
1.2. Xu hướng sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp dẫn đến độc quyền,
nâng cao năng lực cạnh tranh

Việc các công ty sáp nhập lại với nhau hay sự thành lập của các tổng công ty làm tăng
mức độ tập trung của thị trường, giảm bớt đối thủ cạnh tranh, tăng khả năng chi phối độc quyền
thị trường, làm triệt tiêu cạnh tranh trong kinh doanh.
Với tiềm lực tài chính lớn, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực bán lẻ, rất nhiều các
doanh nghiệp nước ngoài khi đặt chân vào thị trường Việt Nam lựa chọn phương án mua lại
các hệ thống bán lẻ bằng hình thức M&A (Mergers and Acquisitions), điển hình như: tập đồn
Central Group (Thái Lan) mua lại hệ thống siêu thị BigC (Pháp); Lotte (Hàn Quốc) hay Aeon
(Nhật Bản) cũng đang từng bước mở rộng quy mô, mở rộng chuỗi siêu thị… Trước sự đổ bộ
10


này, các doanh nghiệp trong nước đứng trước sức ép rất lớn, rất nhiều doanh nghiệp nhỏ vì
khơng trụ lại được đã phải từ bỏ, chấp nhận nhượng lại thị phần, sát nhập hay bán cho những
công ty lớn.
Sự gia tăng mạnh mẽ về vốn góp, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài đang thể
hiện khả năng các nhà đầu tư muốn thâu tóm các doanh nghiệp nội địa. Chính vì vậy, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã đề xuất việc bổ sung những cảnh báo về nguy cơ doanh nghiệp bị thâu tóm,
coi đây là một thách thức lớn của nền kinh tế trong những năm sắp tới.
2. Thực trạng độc quyền ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường, nhiều yếu tố bất hợp lí của mơ hình kinh tế trước đó vẫn cịn
tồn đọng và đòi hỏi những biện pháp giải quyết. Một trong những vấn đề lớn đó là tình trạng
độc quyền của doanh nghiệp nhà nước.
Ở Việt Nam tồn tại hai loại hình độc quyền: Loại đầu tiên là do kết quả của cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên đây là hiện tượng bình thường của bất kỳ nền kinh tế
cạnh tranh nào và có thể được giải quyết bằng những quy định về chống độc quyền trong luật
cạnh tranh. Loại thứ hai là loại hình độc quyền phổ biến nhất ở nước ta hiện nay, đó là độc
quyền do kết quả của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của pháp luật cũng như
chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, nước ta chỉ
thừa nhận hai hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, khơng tồn tại hình bóng của hình

thức sở hữu tư nhân. Chế độ công hữu này tạo ra sự độc quyền của nhà nước trong tất cả các
ngành kinh tế.
Thị trường điện lực Việt Nam được phân chia thành 4 khâu gồm: sản xuất, truyền tải,
bán buôn, bán lẻ. Mặc dù trong Luật Điện lực của Việt Nam quy định rõ ràng rằng Nhà nước
chỉ nắm giữ vị trí độc quyền trong khâu truyền tải nhưng trên thực tế, Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) đang là người chơi duy nhất ở tất cả các khâu, ngoại trừ việc sản xuất điện. Trong
hai đến ba năm trở lại đây xuất hiện sự tham gia của các nhà sản xuất điện tư nhân trong và
ngoài nước cùng với sự bùng nổ của năng lượng tái tạo, nhưng EVN vẫn chiếm hơn 2/3 tổng
sản lượng điện Việt Nam sản xuất, thể hiện tính độc quyền rất cao. EVN đang độc quyền trong
ngành điện, là người đặt ra giá thu mua điện năng của các nhà máy thủy điện, nhiệt điện, khí
điện đạm kể cả khi thu mua sản lượng điện từ bên ngoài như Trung Quốc… Do bị ép giá nên
giá thu mua của ngành điền đưa ra thấp hơn giá thành sản xuất điện của nhà máy, gây ra hệ lụy
nhiều nhà máy điện năng khơng phải do tập đồn lớn đầu tư bị thua lỗ, cuối cùng phải bán
chuyển nhượng lại tồn bộ cổ phần cho EVN.
Khơng chỉ độc quyền ở lĩnh vực mạng lưới điện làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
cũng như giá thành và năng lực cạnh tranh, mà còn tồn tại sự độc quyền trong ngành đường sắt,
thiếu đi năng lực cạnh tranh với các loại hình vận tải khác. Với vị thế độc quyền, Tổng công ty
Đường sắt Việt Nam lại không thực hiện tốt vai trị, khơng quan tâm nâng cao chất lượng của
11


tàu, chất lượng cơ sở hạ tầng. Những biểu hiện này có thể kể đến như: vào tháng 6/2020, Tổng
Cơng ty Đường sắt Việt Nam (VNR) báo lỗ gần 1400 tỷ đồng, hạ tầng lạc hậu, xuống cấp, chưa
có nhiều đột phá, không hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư, gây tổn thất tài sản của nhà nước…
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do cơng ty mẹ vẫn còn nắm giữ nhiều cổ phần chi phối
hoạt động của các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực vận tải đường sắt. Sự độc quyền này
dẫn đến sự kém hấp dẫn khi đầu tư vào thị trường vận tải đường sắt, dù có mở cửa nhưng nhiều
nhà đầu tư vẫn tỏ ra e ngại trước sự kiểm soát chi phối của doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ
tầng đường sắt, dẫn đến hiện trang khơng có sự cạnh tranh và ngày càng sa sút dần, kém chất
lượng.

Việc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với những phương tiện thiết yếu
như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thông dây tải điện hay các nhà ga, sân bay, hệ thống
đường sắt cộng thêm sự tách biệt mơ hồ giữa các yếu tố thuộc về cạnh tranh tiềm năng và các
yếu tố thuộc về tự nhiên làm cho cho độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI gặp nhiều bất cập vì mất đi khả
năng cạnh tranh do bị những tập đoàn của Nhà nước chiếm lấy, khơng có điều kiện tiếp cận đến
các nguồn lực kinh tế lớn nên không thể đầu tư lâu dài để có quy mơ lớn hơn. Hay có thể nói,
chính những chính sách kinh tế ở nước ta hiện tại đang chính là rào cản, khơng tạo dựng được
cơ hội cho độc quyền xuất hiện trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

III. Giải pháp đề xuất
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hành vi của chủ thể kinh tế đều hoạt động trong mơi
trường cạnh tranh. Với mục đích thu được lợi nhuận tối đa, các chủ thể doanh nghiệp kinh
doanh bên cạnh việc hợp tác, họ cũng cạnh tranh với nhau để tìm kiếm những nguồn lực về
máy móc, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật cơng nghệ tối tân, hiện đại để có thêm nhiều ưu thế,
thuận lợi trong việc sản xuất và kinh doanh, dẫn đến sự tiến bộ vượt trội về kĩ thuật công nghệ,
phát triển nền kinh tế. Ngồi ra, vì để cạnh tranh lẫn nhau, các doanh nghiệp luôn nỗ lực sản
xuất, sáng chế ra những sản phẩm, hàng hóa tốt nhất, có chất lượng, giá thành hợp lí để củng
cố niềm tin khách hàng, gây dựng sự uy tín trên thị trường. Nhưng trái lại với cạnh tranh, độc
quyền sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế của một đất nước. Khi có trong tay nguồn lực dồi dào,
lớn mạnh, các doanh nghiệp vì lợi ích cá nhân trước mắt, vì bảo tồn vị thế độc quyền của
mình trên những lĩnh vực khác nhau, sẽ khơng tích cực nghiên cứu phát minh, sáng chế khoa
học kĩ thuật, cải thiện chất lượng, làm kìm hãm sự tiến bộ kĩ thuật dẫn đến sự thụt lùi về kinh tế
ở nước ta. Cùng với đó, vì có được sự độc quyền đối với các sản phẩm, khơng có đối thủ cạnh
tranh nên họ khơng đầu tư phát triển, chú trọng đến mặt hàng đó, tạo ra những sản phẩm sơ sài,
kém về chất lượng và nguy hại hơn là gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng, làm mất đi uy tín
của nhà sản xuất,…
Vậy nên, giải pháp để tháo gỡ những bất cập về mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc
quyền trong nền kinh tế thị trường, chúng ta cần phải có biện pháp để nền kinh tế phát triển ổn


12


định, tạo điều kiện thuận lợi cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cụ thể là:
Duy trì cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam.
1. Về phía Nhà nước
Trước hết, điều quan trọng cần làm là hoàn thiện các quy định về pháp luật, quy định về
các chế tài xử phạt những hành vi cạnh tranh kém lành mạnh. Trong hệ thống pháp luật về cạnh
tranh cần thay đổi, chỉnh sửa những quy định xử lý khơng cịn phù hợp với tình thế hiện nay,
thống nhất các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các văn bản luật chuyên
ngành và cân nhắc mức chế tài xử phạt hợp lí. Ngồi ra, vai trị của nhà nước trong việc tạo lập
mơi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước, với những cam kết quốc tế nhằm mở rộng quyền kinh
doanh, quyền chủ động cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế . Cần nới lỏng các
điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường để khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân và nước ngồi
tham gia sản xuất kinh doanh, hình thành khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh
khác nhau là điều cần thiết. Để thực hiện những việc như trên thì trong quá trình sửa đổi luật,
bổ sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần có sự phối hợp
hài hịa giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương cùng với sự tham gia của các doanh
nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu và người tiêu dùng. Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi
ban hành sửa đổi luật sẽ đưa ra được những quy định phù hợp với tình thế hiện tại về cạnh
tranh và độc quyền hơn.
Nhà nước cần xây dựng một cơ quan chuyên trách để theo dõi, giám sát các hành vi liên
quan đến cạnh tranh và độc quyền, rà soát lại và giảm bớt số lượng các lĩnh vực độc quyền,
kiểm soát giám sát kĩ hơn vấn đề độc quyền. Các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn
cũng cần được nghiêm túc, chặt chẽ giám sát từ phía Nhà nước và để tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác giám sát này, cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế toán kiểm toán trong hoạt
động tài chính của các doanh nghiệp.
Cùng với đó, chất lượng nguồn nhân lực cho các cơ quan quản lý cạnh tranh cũng cần
phải được cải thiện và nâng cao. Theo đó, chương trình đào tạo cần xây dựng toàn diện cho

từng loại đối tượng đào tạo, chú trọng đào tạo điều tra viên và hoàn thiện quy chế tài chính đối
với hoạt động giám sát. Để có một đội ngũ cán bộ, các nhà kinh tế có sự am hiểu về cạnh tranh
và độc quyền thì những nội dung giảng dạy về vấn đề này cần được đưa vào chương trình giáo
dục của các trường đại học trong khối kinh tế, kinh doanh.
Về chuyển giao công nghệ, Nhà nước cần tăng ngân sách cho các ngành nghiên cứu
khoa học công nghệ, thiết lập chế độ đãi ngộ hợp lý cho các cán bộ thực hiện nghiên cứu khoa
học, trọng dụng nhân tài, được cung cấp, phổ biến thông tin, bày tỏ ý kiến khách quan dưới góc
độ nghiên cứu khoa học. Hạn chế việc chảy máu chất xám, thúc đẩy việc thu hút các nhà khoa
học nước ngoài vào trong nước nghiên cứu khoa học. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ sản xuất. Sửa đổi chế độ hoạch tốn, kế
tốn nhằm khuyến khích khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ, phát triển thành công các
13


trung tâm nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công nghệ; bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế và áp dụng kinh nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho các doanh nghiệp.
Việc xóa bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện bằng một số biện pháp như:
Chính phủ có thể cụ thể hóa những quy định về vấn đề độc quyền của nhà nước trong một số
lĩnh vực dịch vụ cơng ích, trong những ngành cơng nghiệp then chốt có mối liên hệ chặt chẽ
với đời sống kinh tế - xã hội hay an ninh quốc phịng… nhằm đảo bảo tính rõ ràng của luật
pháp và hạn chế việc độc quyền nhà nước trở thành độc quyền của doanh nghiệp. Điều này đã
được vô số những quốc gia khác thừa nhận trước đó, chẳng hạn như Chính phủ Úc đã thừa
nhận rộng rãi sự độc quyền của nhà nước “trong các lĩnh vực cấp nước, điện lực, đường sắt,
đường bộ, bưu chính, viễn thong. Việc thừa nhận độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực này
được giải thích dựa trên cơ sở là các hoạt động nói trên là hình thức độc quyền tự nhiên.” Mỗi
quốc gia sẽ có một quy định về lĩnh vực đồng quyền riêng biệt, khơng giống nhau hồn tồn
mà phụ thuộc theo hoàn cảnh của mỗi đất nước. Tuy vậy nhưng với những lĩnh vực có yếu tố
đặc biệt nhue quốc phịng an ninh, hay độc quyền tự nhiên thì pháp luật nên quy định nhà nước
nắm giữ vị trí độc quyền ở những lĩnh vực này.

Việc chia tách các công ty đang chiếm lĩnh vị trí độc quyền ở một số những lĩnh vực
quan trọng thành những đơn vị nhỏ, độc lập hơn cũng là một biện pháp nên được thực hiện.
Khi các doanh nghiệp được chia tách sẽ đảm bảo việc không phụ thuộc lẫn nhau giữa các
doanh nghiệp độc quyền, tạo nên một môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng, đảm bảo
mà không bị hạn chế bởi lĩnh vực hay vị trí địa lý.
Bên cạnh đó, nên có những chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nước
ngồi, các cơng ty, tập đồn đa quốc gia tham gia hoạt động tại thị trường nước ta, bảo đảm sự
cạnh tranh của nền kinh tế nhưng cũng thúc đẩy phát triển các chủ thể kinh doanh trong nước.
2. Về phía Hiệp hội doanh nghiệp
Các Hiệp hội doanh nghiệp cần phải liên tục xây dựng và ban hành những quy tắc thích
hợp để ngăn chặn việc cạnh tranh khơng lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh
vực. Đồng thời, với những doanh nghiệp mới ra thành lập, mới triển khai một mặt hàng hay sản
phẩm dịch vụ nào đó, thì trách nhiệm của Hiệp hội là phải tun truyền những chỉ dẫn về hàng
hóa, giúp cho các doanh nghiệp có cái nhìn tồn diện hơn về vấn đề cạnh tranh và độc quyền ở
Việt Nam. Hiệp hội doanh nghiệp, với vai trò là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp của các
doanh nghiệp, đại diện cho quyền lợi của các hội viên, là ngôi nhà chung của cộng đồng doanh
nghiệp, phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ các doanh nghiệp trước những hành vi vi phạm gây
nhầm lẫn đến từ các quốc gia khác.
3. Về phía các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cần phải tuân thủ
các quy định của pháp luật về kinh doanh nói chung và các chính sách về cạnh tranh và độc
14


quyền ở Việt Nam nói riêng. Trong thời đại cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, việc tuân thủ pháp
luật trong cạnh tranh cũng là một biện pháp hữu hiệu để xây dựng uy tín của thương hiệu trên
thị trường. Để tránh hiện tại cạnh tranh không lành mạnh như ăn cắp chất xám,… các doanh
nghiệp cần đẩy mạnh sự quan tâm và xúc tiến việc đăng ký để được bảo hộ nhãn hiệu với các
mặt hàng sản phẩm của doanh nghiệp theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi
2019). Mặt khác, những chiến lược dài cạnh tranh lành mạnh dài hạn và chuyên nghiệp chẳng

hạn như: xây dựng và quảng bá rộng rãi thương hiệu; xác định kênh phân phối chủ yếu; vạch ra
những ưu thế về cạnh tranh khi bước vào thương trường của chính doanh nghiệp mình…cũng
cần được triển khai và thực hiện ngay từ những bước ban đầu để phịng ngừa những tình huống
cạnh tranh kém lành mạnh, duy trì sức cạnh tranh của cơng ty.
4. Về phía người tiêu dùng
Người tiêu dùng cần có cái nhìn tỉnh tảo, đúng đắn về các mặt hàng, sản phẩm sẽ mua và
sử dụng. Những mặt hàng kém chất lượng, khơng có uy tín, nhãn mác đầy đủ, hàng giả hàng
nhái, vi phạm pháp luật, có dấu vết của hình thức cạnh tranh khơng lành mạnh… phải được
loại bỏ khỏi danh mục mua hàng. Ngoài ra, nếu phát hiện bất kì hàng hóa, sản phẩm nào vi
phạm có thể báo cáo, lên án và kêu gọi những người tiêu dùng khác ngừng sử dụng, tẩy chay
doanh nghiệp để tạo sức ép lên các doanh nghiệp vi phạm, từ đó những hành vi cạnh tranh kém
lành mạnh sẽ được đẩy lùi.
Việc thực hiện những giải pháp này cần có sự phối hợp nhịp nhàng, sát sao giữa các ban
ngành, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi và doanh nghiệp nước ngoài, đến sự chung sức của khách hàng, của người tiêu
dùng, từ đó sẽ tạo dựng nên một cơ chế thị trường vững mạnh, đẩy lùi những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và những hành vi độc quyền ở đất nước ta.

15


C. Kết luận
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Những ảnh
hưởng tiêu cực mà cạnh tranh không lành mạnh để lại có thể kể đến như lãng phí nguồn nhân
lực, gây tổn hại đến môi trường kinh doanh… Tuy nhiên nếu nhìn theo góc độ dài hạn, cạnh
tranh là một biện pháp hữu hiệu để kích thích sự cải thiện về chất lượng của sản phẩm, giá
thành hợp lí, các nguồn lực được khai thác tối ưu, thúc đẩy sự phát triển, đổi mới về mặt khoa
học công nghệ…Các doanh nghiệp với mục đích hàng đầu là tối đa lợi nhuận sẽ phải tìm
những biện pháp phù hợp để vươn lên và giành lấy ưu thế trong thị trường khốc liệt, có cạnh
tranh sẽ làm cho các doanh nghiệp vững mạnh và phát triển, có vị trí vững chắc trên thương

trường.
Độc quyền là kết quả của cạnh tranh tự do và cũng là nguyên nhân khiến cho cạnh tranh
không lành mạnh trở nên ngày càng gay gắt, mãnh liệt hơn. Những ưu điểm của độc quyền như
ưu thế lớn về vốn tài chính, lợi thế khi đầu tư vào những ngành mũi nhọn của đất nước…không
thể bù lại được phần tổn thất do độc quyền gây nên. Khi chỉ có một doanh nghiệp lớn duy nhất
chiếm vị trí then chốt trong một lĩnh vực nào đó, khi họ khơng cịn có đối thủ cạnh tranh, thì
khi đó những sáng chế, phát minh nhằm nghiên cứu tiến bộ khoa học, cải thiện năng suất sẽ bị
phớt lờ, chất lượng và giá thành của hàng hóa, sản phẩm cũng khơng cịn được đảm bảo, ảnh
hưởng đến quan hệ cung – cầu, tiềm lực kinh tế của một đất nước…
Chính bởi vì những ngun do và thực trạng hiện tại ở đất nước ta, biện pháp nên được
thực thi và triển khai lúc này là duy trì cạnh tranh và hạn chế tình trạng độc quyền kinh tế để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, làm phong phú thêm đời sống của nhân dân. Những biện pháp
này cần có sự phối hợp từ trên xuống, nhịp nhàng nhuần nhuyễn, từ Nhà nước, Chính phủ, cho
đến các Hiệp hội bảo trợ doanh nghiệp và cả người dân đang ngày ngày tiêu thụ những mặt
hàng có mặt trên thị trường.
Qua đề tài này, bản thân em cũng đúc rút ra được những hiểu biết cho mình. Với tư cách là
một người tiêu dùng thông minh, em sẽ chỉ lựa chọn sử dụng những mặt hàng được đảm bảo
chất lượng, uy tín của doanh nghiệp. Đối với những mặt hàng giả, không được cấp phép kinh
doanh được bày bàn tràn lan trên thị trường, em sẽ không sử dụng và khuyến khích, lan truyền
thơng tin cho mọi người để tránh tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh giữa các doanh nghiệp
với nhau.

16


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019, Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác Lê-nin
2. Phương Anh, 2017, Còn nhiều vấn đề trong bức tranh cạnh tranh quốc gia
( />3.ThS. Đào Ngọc Báu, 2004, Vấn đề độc quyền ở Việt Nam
( />4. Lê Thị Quyên, 2021, Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường

( />5. ThS. Nguyễn Hoàn Hảo, 2019, Giải pháp hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong nền
kinh tế thị trường
( />6. Phan Trang, 2021, Tìm giải pháp đột phá cho đường sắt
( />7. RFA, 2021, Xóa bỏ độc quyền trong ngành điện: Chậm ngày nào, hại ngày ấy
( />
17



×