Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học PHÉP BIỆN CHỨNG về mối LIÊN hệ PHỔ BIẾN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH tế với bảo vệ môi TRƯỜNG SINH THÁI 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.91 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hải Thương
Mã SV: 2014110232
Lớp Anh 7, Khối 3 Kinh tế, Khóa 59
Lớp tín chỉ: TRI114.3
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Huy Quang

Hà Nội - 3/2021


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................3
NỘI DUNG.................................................................................................................................4
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến............................................................................4
I.1. Phép biện chứng là gì?......................................................................................................4
I.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
I.3. Ý nghĩa phương pháp luận

5


7

II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái..............................7
II.1. Thế nào gọi là tăng trưởng kinh tế?

7

II.2. Thế nào gọi là bảo vệ môi trường sinh thái?

8

II.3. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái?
II.4. Thực trạng mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái

8

9

II.5. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường 11
KẾT LUẬN...............................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................14

2


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế thường được cho là không thể

nào không mâu thuẫn với nhau. Không một quyết định kinh tế nào mà không
ảnh hưởng đến môi trường và ngược lại. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng
nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang
gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên. Bởi vậy mà, bài toán đang
được đặt ra hiện nay là sự phát triển kinh tế trong bối cảnh bảo vệ môi trường.
Để có những kết quả về kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá
là mất đi sự bền vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Đây là bài tốn
khơng hề đơn giản, và lại càng khó khăn hơn với một nước đang phát triển như
nước ta. Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở nên trầm
trọng và song song với đó cịn là sự gia tăng mức tiêu thụ, phân hóa giàu
nghèo… Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay, tôi đã chọn đề tài:
“Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái”
Trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến, tôi viết bài tiểu luận này
với mong muốn mọi người sẽ có được cái nhìn sâu sắc hơn, cặn kẽ, toàn diện
hơn về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ mơi trường. Từ đó có
những giải pháp để có thể phần nào giải quyết được vấn đề về môi trường – vấn
đề cấp thiết của nước ta hiện nay.
Trong phạm vi một bài tiểu luận, tôi chỉ xem xét và giải quyết một số vấn đề
sau:
 Quan hệ phép biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
 Thực trạng phát triển kinh tế với môi trường sinh thái.
 Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường.

3


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232


NỘI DUNG
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
I.1. Phép biện chứng là gì?
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng ở trong các
mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. Và nhận thức đối tượng
ở trạng thái vận động biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của
sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại
của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó
thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc
là…” cịn có cả cái “vừa là… vừa là…” nữa, thừa nhận một chỉnh thể trong lúc
vừa là nó lại vừa khơng phải là nó, thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa
loại trừ nhau lại vừa gắn bó nhau.
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua
ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của
nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy
vật.
Hình thức thể hiện thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà
biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật hiện
tượng của vũ trụ sinh thành biến hoá trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận.
Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa
phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này
được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người
hồn thiện là Hêghen. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy
nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội
dung quan trọng nhất của phép biện chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt
đầu ở tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý
niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được

thể hiện trong triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa
4


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng nên phép
biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự
phát triển dưới hình thức hồn bị nhất.
I.2. Ngun lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một
đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối
tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay
đổi. Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi
của đối tượng này khơng ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, không làm
chúng thay đổi.
Ta hiểu khái niệm trên như thế nào?
Thứ nhất, liên hệ là một phạm trù triết học. Như vậy chúng ta phải hiểu liên
hệ một cách khái quát nhất bao gồm tất cả các mối liên hệ trong cả tự nhiên, xã
hội và trong tư duy.
Thứ hai, liên hệ dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy
định với nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng. Một sự vật hiện
tượng luôn bao gồm các mặt, các bộ phận, chúng vừa khác nhau, độc lập với
nhau, lại vừa thống nhất với nhau, ràng buộc, quy định nhau để cùng tạo nên
một chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
Ví dụ, xét một chỉnh thể sự vật là một cơ thể con người. Cấu tạo cơ thể con
người bao gồm 8 hệ cơ bản: hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ hơ hấp, hệ tiêu hố,

hệ bài tiết, hệ cơ, hệ xương và hệ sinh dục. Mỗi hệ có một chức năng hoàn toàn
khác nhau, như hệ tuần hoàn giúp lưu thông máu, đưa máu đến các cơ quan
thông qua đó thực hiện q trình trao đổi chất và trao đổi khí qua các mao mạch,
hệ bài tiết giữ vai trò bài tiết trong cơ thể - đào thải các chất cặn bã đưa ra ngoài
cơ thể… Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những mối liên hệ thống nhất với nhau
nhằm giúp cho cơ thể con người phát triển một cách khoẻ mạnh, hệ thần kinh
trong đó có bộ não điều hành chung sự hoạt động của tất cả các cơ quan cịn lại,
hệ tiêu hố thực hiện trao đổi chất trực tiếp từ ngoài vào cơ thể, đồng thời biến
đổi các chất từ dạng phức tạp thành các dạng đơn giản giúp cơ thể dễ dàng hấp
thụ, nhờ đó cung cấp các chất dinh dưỡng nuôi cơ quan khác trong đó có hệ thần
kinh. Như vậy, một cơ thể khoẻ mạnh là một cơ thể bao gồm tất cả các hệ, các
5


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

cơ quan đều phát triển một cách khoẻ mạnh, không thể thiếu đi một trong các bộ
phận đó được.
Thứ ba, liên hệ cịn dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy
định với nhau giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Thật vậy, một con người
phát triển khoẻ mạnh là nhờ sự tác động qua lại lẫn nhau của các hệ, các cơ quan
trong cơ thể, nhưng một con người khơng thể tồn tại một mình trên thế giới này
mà khơng có những mối liên hệ nào với tự nhiên, với những người khác.
Ví dụ: xét một phần trong mối liên hệ giữa con người và tự nhiên. Nhu cầu
thiết yếu nhất của con người đó là thức ăn, mà thức ăn lại do tự nhiên cung cấp,
nhưng không phải tự nhiên sẽ cung cấp cho con người thức ăn mãi mãi, cũng
như sẽ phục vụ đúng như những nhu cầu ngày càng cao của con người. Mà
muốn vậy, con người cần phải tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm
phục vụ chính những mong muốn của mình cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy
nhiên khi con người tác động vào tự nhiên cũng có cũng có những tác động tốt

giúp cải tạo tự nhiên, có những tác động làm tổn hại đến tự nhiên và khi đó
chính con người lại chịu mọi thành quả cũng như những hậu quả do mình làm
ra.
Như vậy ta có thể hiểu được phần nào nội dung cơ bản của nguyên lý mối
liên hệ phổ biến: giữa các mặt trong một sự vật hiện tượng và giữa các sự vật
hiện tượng với nhau luôn tồn tại mối liên hệ độc lập mà thống nhất – đó là mối
liên hệ phổ biến.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có
ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi
sự vật, hiện tượng, nó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật hiện tượng nào ở
bất kỳ không gian nào, thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật hiện
tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần
nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố
khác.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật hiện tượng khác
nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện
khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong,
6


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu… Các mối liên
hệ này có vị trí vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật hiện
tượng.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối
nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và

vai trị xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm
bắt đúng mối liên hệ để có có cách tác động phù hợp nhằm đưa loại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của mình.
I.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về
phương pháp luận sau:
a. Quan điểm tồn diện:
Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật hiện tượng trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự
vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác, kể cả mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức
đúng sự vật.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà cịn
phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác
b. Quan điểm lịch sử toàn diện - cụ thể:
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú. sự vật hiện tượng khác nhau
không gian thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện hồn cảnh lịch sử - cụ thể, mơi trường cụ
thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận
điểm nào đó là luận điểm khoa học trong đó điều kiện này, nhưng sẽ không là
luận điểm khoa học trong điều kiện khác.

7


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232


II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
II.1. Thế nào gọi là tăng trưởng kinh tế?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mơ sản lượng quốc gia tính bình qn
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Tuy vậy ở một số quốc gia,
mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu
người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một
giai đoạn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa
quy mơ kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh
tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
II.2. Thế nào gọi là bảo vệ môi trường sinh thái?
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước, khơng khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu.
Sự tương tác hoà đồng giữa các hệ thống của thiên nhiên tạo ra môi trường
tương đối ổn định. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ
gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một
bộ phận của thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một
khâu, một yếu tố trong hệ thống. Thơng qua q trình lao động, con người khai
thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. Cũng qua q trình đó con người xã hội dần
dần có sự đối lập với tự nhiên. Do tiếng gọi của những lợi ích nhất thời nào đó,
cũng có thể là do sự hoạch định thiển cận về mặt chiến lược, trong khơng ít nền
kinh tế đã nảy sinh tình trạng vơ tình hoặc cố ý khơng tính đến tương lai của
chính mình. Đầu tư nhằm vào những lĩnh vực sinh lợi nhanh được kêu gọi một
cách ồ ạt, đẩy trách nhiệm trả nợ cho thế hệ kế tiếp. Lợi ích trước mắt được quan
tâm quá mức, gây nên tình trạng phát triển thiếu cân đối hoặc phát triển theo
kiểu “bong bóng xà phịng”. Vơ tình hay hữu ý, con người càng phá huỷ mơi
trường sống của chính mình một cách nghiêm trọng.

II.3. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái?
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và
tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã
hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và
8


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

cả loài người trong quá trinh sống. Giữa mơi trường và sự phát triển có mối
quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển,
còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi
là cải tạo mơi trường tự nhiên hay tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, từ
đó nâng cao ý thức của con người về việc bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng có
thể gây ra ơ nhiễm mơi trường tự nhiên hoặc nhân tạo từ những rác thải sinh
hoạt, rác thải công nghiệp, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, môi
trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông
qua việc cung cấp nguyên nhiên liệu cho quá trình sản xuất, nhưng cũng có thể
gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực,
hay tạo những cản trờ về địa hình, thổ nhưỡng, điều kiện thời tiết...
Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển trên dẫn đến sự xuất hiện các quan
niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển: Lý thuyết đình chỉ phát triển là
làm cho sự tăng trưởng kinh tế bằng 0 hoặc mang giá trị âm để đảm bảo tài
nguyên thiên nhiên của Trái đất. Một số nhà khoa học khác lại đề xuất lấy bảo
vệ để ngăn chặn sự nghiên cứu, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1992 các
nhà môi trường đã đưa ra quan niệm phát triển bền vững, đó là phát triển trong
mức độ duy trì chất lượng mơi trường, giữ cân bằng giữa môi trường và phát
triển. (Nguồn VACNE)

II.4. Thực trạng mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Điều rất dễ thấy và không thể bác bỏ là: hệ thống kinh tế và hệ thống môi
trường sinh thái khơng dung hồ nhau mà bộc lộ những mâu thuẫn mang tính
sinh tồn ngày càng trở nên rất rõ nét trong sự phát triển của xã hội hiện đại.Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là để làm kinh tế và đạt bằng
được các mục tiêu kinh tế, các mối liên quan về môi trường sinh thái đã bị bỏ
qua, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.
Đối với các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trờ rất to
lớn, đóng góp đáng kể vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Song nếu khai thác nguồn
tài nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm
trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đó chính là hậu quả lớn nhất do tăng trưởng
kinh tế mà không quan tâm bảo vệ mơi trường. Dẫn đến là: ngày càng nhìn thấy
rõ giới hạn của sự tăng trưởng là việc chuyển đổi từ trạng thái con người bị thiên
nhiên đe doạ và phải chống lại nó trước đây, sang trạng thái con người bị thiên
nhiên xâm phạm đến môi trường, trong khi môi trường là yếu tố không thể thiếu
trong sự tồn tại và phát triển của chính con người.
9


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

Theo dự báo, nếu con người cứ khai thác như mức hiện nay, trong số các tài
ngun khống vật (tài ngun khơng tái tạo được) có thể duy trì: sắt được 173
năm, than được 150 năm, nhôm được 55 năm, đồng được 48 năm, vàng được 29
năm, các nguồn tài nguyên sinh vật, rừng rậm trong 170 năm nữa sẽ chỉ đốn hết,
trong đó, ma rừng nhiệt đới có thể hết sẵn sau 40 năm nữa. Đã có rất nhiều bài
học cho các nước vì quá coi trọng tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo được sự bứt
phá lớn về kinh tế, mong vượt lên các nước khác về kinh tế, song đã phải trả giá
đắt về việc làm cạn kiệt và suy thối mơi trường. Trung Quốc - quốc gia có sự
phát triển thần kỳ về nền kinh tế đã trở thành gánh nặng cho mơi trường là một

ví dụ.
Trung Quốc hiện có 16 trong số 20 đô thị ô nhiễm nhất trên thế giới; 4 đô thị
tệ nhất nằm ở vùng Đông Bắc giàu than đá (70% nhu cầu về năng lượng của
Trung Quốc lấy từ than đá). Ma acid chứa sunphur dioxide từ các nhà máy điện
than đá thải ra rơi trên ¼ lãnh thổ Trung Quốc, làm giảm năng xuất nùa màng và
xói mịn mọi cơng trình xây dựng. Đất đai Trung Quốc cũng tàn lụi vì phát triển.
Phá rừng, song song với khai thác quá mức đồng cỏ để nuôi súc vật và canh tác
đã biến các vùng ở Đông Bắc Trung Quốc thành sa mạc. Sa mạc Gôbi đang dần
xâm chiếm miền Tây và Bắc Trung Quốc, lan rộng mỗi năm khoảng nửa triệu
hecta. ¼ lãnh thổ Trung Quốc nay đã thành sa mạc do mất rừng. Cục Lâm vụ
Trung Quốc ước lượng là hiện tượng sa mạc hoá đã biến 400 triệu dân Trung
Quốc thành người tị nạn môi sinh, phải tìm kiếm nơi ở mới. Báo cáo tiên đốn
lượng nước ở lưu vực 3 con sơng trong 7 lưu vực chính của Trung Quốc, nghĩa
là các vùng xung quanh sơng Hồi, sơng Liêu và sơng Hải sẽ giảm, làm mất đi
37% sản lượng lúa mì, lúa gạo và bắp vào năm 2050. Để sản xuất một đơn vị
hàng hoá, Trung Quốc phải tiêu thụ tài nguyên gấp 7 lần so với Nhật Bản, 6 lần
so với Hoa Kỳ và 3 lần so với Ấn Độ.
Cũng giống như một số nước đang phát triển khác, tình trạng ơ nhiễm môi
trường do trăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là điều không thể tránh khỏi,
đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay. Theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong
những năm qua rất ngoạn mục. Tuy nhiên, cảnh báo của nhiều tổ chức quốc tế
dành cho Việt Nam rằng, chúng ta không thể chạy theo các chỉ số tăng trưởng
kinh tế mà bất chấp tình trạng mơi trường sống đang bị huỷ diệt q nhanh. Nói
cách khác, mơi trường bị huỷ diệt chính là mặt trái của tăng trưởng ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu môi trường ở Việt Nam của Ngân hàng thế giới (WB)
cho thấy: thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong 10 tỉnh thành phố được
điều tra có tỷ lệ ơ nhiễm mơi trường cao nhất, đặc biệt là ở các khu công nghiệp
10



Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

trọng điểm. WB nhận định: ô nhiễm môi trường chính là thách thức chính đối
với tiến trình đơ thị hố, cơng nghiệp hố ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, trong vòng mười năm kể từ Rio-92, mơi trường tồn cầu
tiếp tục bị xuống cấp, tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị hủy hoại, ô nhiễm gia
tăng, nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm. Mỗi năm có từ 11 đến 13 triệu
hecta rừng bị xóa sổ trên bản đồ thế giới, hàng chục triệu hecta đất bị hoang mạc
hóa. Tình trạng đói nghèo trên thế giới ngày càng gia tăng trầm trọng, với 2,4 tỷ
người sống trong nghèo đói, các điều kiện xã hội, y tế không được cải thiện. Các
nước nghèo, các khu vực nghèo ngày càng nghèo hơn. Các nước giàu, những
người giàu ngày càng giàu lên. Khoảng cách Bắc - Nam ngày càng sâu rộng.
Các nước phát triển chỉ huy động 0,22% GNP cho ODA so với 0,7% mà Liên
hợp quốc (LHQ) đã kêu gọi và được nhiều nước cam kết tại Rio-92. Tác động
của tồn cầu hóa và tự do hóa thương mại ngày càng lan rộng, bao gồm cả tác
động tích cực lẫn tiêu cực. Nhất là, gần đây đã xảy ra những diễn biến phức tạp
trong đời sống chính trị thế giới, những cuộc khủng bố lớn, trong đó có sự kiện
11-9-2001 tại Mỹ, tác động trực tiếp và chứa nhiều nguy cơ tiềm ẩn đối với quá
trình phát triển bền vững của toàn thế giới.
II.5. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và
bảo vệ mơi trường
Trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường quan hệ
thương mại song phương với các nước trên thế giới và tiến hành thủ tục đàm
phán để gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới(WTO), tham gia tích cực vào
các định chế kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, ASEM… và đặc biệt là hiệp
định thương mại Việt - Mỹ. Để hàng Việt Nam có chỗ đứng và khả năng cạnh
tranh với các nước khác chúng ta cần:
 Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng
lượng, nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.

 Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng
và vận hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn mơi trường.
 Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển
công nghiệp.
 Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thốt nước, xử lí nước thải công
nghiệp trước khi thải ra môi trường.
 Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công
nghiệp, chất thải y tế và các loại chất thải khác.

11


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

 Thực hiện chủ chương xanh hố đơ thị và khu cơng nghiệp, xây dựng
hành lang xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư.
 Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt
hàng nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên vật liệu,
các giống mới…
 Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự
phát triển bền vững.
 Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho
người sử dụng cũng như cho đất trồng.
Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước, chúng ta cần:
Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khốn rừng.
Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép.
Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật.
Khai thác gỗ hợp lí.
Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để cơng tác kiểm
lâm được chặt chẽ hơn, ngồi ra cán bộ kiểm lâm cần có những chính

sách ưu đãi hơn.
 Khai thác dầu hợp lí.
 Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm.
 Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.






12


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

KẾT LUẬN
Việt Nam đang trên con đường cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục tiêu
cơ bản nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện nâng cao
chất lượng cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền vững. Đây là vấn đề quan
trọng trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước hiện nay cũng
như về lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong quá trình quy
hoạch phát triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để cho quá trình phát
triển của tương lai sao cho tránh được những hậu quả có thể xảy ra và đảm bảo
hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Chúng ta bảo vệ mơi trường
khơng phải nhằm mục đích hạn chế q trình phát triển kinh tế mà nhằm mục
đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá trình phát triển tất yếu này, đồng
thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Do đó, bảo
vệ mơi trường và tăng trưởng kinh tế có sự thống nhất. Có phát triển mới có
kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ mơi trường và có bảo vệ mơi trường mới

đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn định.

13


Nguyễn Hải Thương – MSSV: 2014110232

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mac – Lênin.
2. PGS.TS. Ngơ Dỗn Vịnh, Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển,
Nxb CTQG, H, 2006, tr.89-90.
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 39, ngày 29-9-2007, tr.58-59, Tạp chí ban
tuyên giáo.
4. Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng, Một vài giải pháp môi trường cho
các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, Tạp chí Bảo vệ mơi trường, số 7, 2001.
5. G.s Lê Q An, Du lịch và mơi trường, Tạp chí Du lịch, số 12, 1999.
6. Nguyễn Anh, Hội thảo khoa học về mơi trường chun ngành mỏ, luyện
kim, hóa chất, Tạp chí Cơng nghiệp, số 19, 1999.
7. Lê Minh Đức, Bảo vệ môi trường và vấn đề phát triển bền vững ở Việt
Nam, Con số và sự kiện, số 12, 1999.
8. T.s Nguyễn Đắc Huy, Đinh Đức Tường, Nguyễn Mỹ Hoàng, Một vài suy
nghĩ về quản lý môi trường trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam, Tạp
chí Chuyên đề Môi trường kinh tế, 2001.
9. Th.s Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Đặng Thị Thu Hoài, Hội nhập kinh tế thế
giới và bảo vệ mơi trường ở Việt Nam, Tạp chí Chun đề môi trường
kinh tế, 2001.
10.Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững, Tạp
chí Bảo vệ môi trường, số 6, 2002.

14




×