Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

kỹ thuật sản xuất giống cá trê vàng lai ( clarias macrocephalus x c. gariepinus)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.81 KB, 38 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







HỒ CHÂU PHƯƠNG QUANG





KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG CÁ TRÊ VÀNG LAI
( Clarias macrocephalus x C. gariepinus)










LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN












Cần Thơ, 1.2009

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







HỒ CHÂU PHƯƠNG QUANG






KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG CÁ TRÊ VÀNG LAI
( Clarias macrocephalus x C. gariepinus)








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN





CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ts. PHẠM MINH THÀNH







Cần Thơ, 1.2009


i


TÓM TẮT
Cá trê vàng lai là kết quả lai tạo giữa cá trê vàng cái (Clarias macrocephalus) và
cá trê Phi đực ( Clarias gariepinus). Kể từ khi cá trê Phi được du nhập vào Việt
Nam, các nhà sản xuất giống đã tiến hành lai tạo và xây dựng nên quy trình sản
xuất giống. Các bước trong quy trình này bao gồm: nuôi vỗ, kích thích sinh sản, ấp
trứng, ương cá con.
Cá bố mẹ được tiến hành nuôi vỗ trong 3 ao, trong quá trình nuôi vỗ thu thập các
chỉ tiêu môi trường và đánh giá tỷ lệ thành thục qua từng tháng nuôi vỗ. Sử dụng
HCG, LRH+DOM, LRH+não thùy kích thích sinh sản cá với tỷ lệ cá đẻ lần lượt
đạt được như sau: 52.9-96.9%, 47-97.1%, 17.6-99.2%. Khi sử dụng kết hợp 2mg
não thùy + 100µg LRH cho kết quả sinh sản tối ưu nhất, đạt trên 99% tỷ lệ cá đẻ,
tỷ lệ nở đạt trên 86% và tỷ lệ cá dị hình chỉ dao động trong khoảng 5-6%. Các đợt
kích thích sinh sản cá trê, các chỉ số kỹ thuật đạt được như sau: Tỷ lệ thụ tinh từ
42.1% đến 86.9%, tỷ lệ nở từ 48% đến 90.2%, tỷ lệ dị hình từ 5.8% đến 10.1%. Cá
trê tái thành thục sau khoảng 35-40 ngày nuôi vỗ tái phát. Cá trê bột được ương
sau 30 ngày có: độ gia tăng về chiều dài theo ngày = 0.093(cm/ngày), độ gia tăng
về khối lượng theo ngày = 0.125 (g/ngày). Tỷ lệ sống dao động trong khoảng
20%.
























ii


LỜI CẢM TẠ
Trong khoảng thời gian thực hiện đề tài vừa qua, tuy gặp không ít khó khăn vướng
mắc nhưng với sự giúp đỡ và động viên của gia đình, thầy cô, bạn bè đã giúp tôi
vượt qua tất cả để hoàn thành đề tài.
Do đó, lời đầu tiên tối xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, là chỗ dựa tinh
thần, vật chất trong suốt thời gian thực hiện đề tài và 4 năm học đã qua.
Chân thành cảm ơn thầy Phạm Minh Thành đã hết lòng chỉ dẫn trong việc định
hướng nghiên cứu, bổ trợ kiến thức và đính chính tài liệu. Đồng thời cũng cảm ơn
thầy về những tình cảm tốt đẹp đã dành cho tôi.
Kế đến xin cảm ơn chú Phạm Trọng Sơn - chủ trại giống nơi thực hiện đề tài, bác
Thái Thân – chủ DNTN nuôi trồng thủy sản Phong Linh, bác Đoàn Văn Năm –
chủ trại giống Năm Nu, bác Phan Tòng Thư – chủ trại giống Ba Thư, bác Nguyễn
Minh Hiển – chủ trại giống Mười Lùn, dì Nguyễn Thị Chính đã hổ trợ hết mình về

kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm sản xuất.
Cũng chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy cô khoa thủy sản sản: thầy Bùi Minh
Tâm, cô Nguyễn Bạch Loan,…và toàn thể các bạn lớp NTTS 31 đã tạo những điều
kiện thuận lợi nhất giúp tôi hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!

Hồ Châu Phương Quang












iii


MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Chương I GIỚI THIỆU 1
Chương II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
1. Đặc điểm sinh học 2
1.1. Phân loại 2
1.2. Đặc điểm dinh dưỡng 3

1.3. Đặc điểm sinh trưởng 4
1.4. Đặc điểm sinh sản 5
2. Kỹ thuật nuôi vỗ 5
2.1. Ao nuôi vỗ 6
2.2. Mùa vụ nuôi vỗ 7
2.3. Mật độ thả nuôi cá bố mẹ 7
2.4. Thức ăn trong quá trình nuôi vỗ 8
2.5. Chăm sóc và quản lý ao nuôi vỗ 8
3. Kỹ thuật sinh sản 9
3.1. Phân biệt đực cái và chọn cá bố mẹ thành thục 9
3.2. Kích thích cá sinh sản 10
3.3. Thụ tinh nhân tạo 11
3.4. Ấp trứng 11
4. Kỹ thuật ương cá bột lên cá giống 12
4.1. Ương ao đất 12
4.2. Ương trong bể xi măng bể bạt 13
Chương III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
1. Nuôi cá bố mẹ 15
1.1. Điều kiện ao nuôi cá bố mẹ 15
1.2. Thả nuôi cá 15
1.3. Chăm sóc và quản lý 16

iv
1.3.1. Chế độ cho ăn 16
1.3.2. Quản lý ao cá 16
2. Kích thích cá sinh sản 17
2.1. Lựa chọn cá than thục 17
2.2. Kích dục tố sử dụng 17
2.3. Phương pháp thụ tinh cho cá 17
3. Ấp trứng 18

4. Ương cá bột thành cá giống 18
4.1. Điều kiện ao ương 18
4.2. Thả cá vào ao ương 18
4.3. Chăm sóc và quản lý 18
5. Phương pháp thu và phân tích mẫu 19
5.1. Một số yếu tố môi trường 19
5.2. Sự thành thục của cá bố mẹ 19
5.3. Tỷ lệ cá đẻ 19
5.4. Sức sinh sản 19
5.5. Tỷ lệ thụ tinh 19
5.6. Tỷ lệ nở 19
5.7. Tỷ lệ dị hình 19
5.8. Thời gian tái thành thục 19
5.9. Tốc độ sinh trưởng 19
5.10. Tỷ lệ sống 20
6. Phương pháp xử lý và đánh giá kết quả 20
6.1. Phương pháp xử lý số liệu thu được 20
6.2. Đánh giá kết quả 20
Chương IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 21
1. Điều kiện môi trường ao nuôi vỗ cá bố mẹ 21
2.Sự thành thục của cá bố mẹ 21
3.Ảnh hưởng của hormone tới sinh sản cá 23
3.1. Ảnh hưởng của HCG tới sinh sản cá 23
3.2. Ảnh hưởng của LRH 24

v

3.3. Ảnh hưởng kết hợp não thùy và LRH 25
3.4. Ảnh hưởng của loại hormone tới sinh sản cá 26
3.5. Ảnh hưởng của hormone đến tỷ lệ cá dị hình 27

4. Sinh trưởng của cá tại ao ương 27
4.1. Tốc độ sinh trưởng của cá 27
4.2. Tỷ lệ sống 27
Chương V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 29
5.1. Kết luận 29
5.2. Đề xuất 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30





















vi



DANH SÁCH CÁC BẢNG

Bảng 1 Điều kiện ao nuôi cá bố mẹ 15
Bảng 2 Thả cá bố mẹ vào ao nuôi 16
Bảng 3 Điều kiện ao ương cá bột 18
Bảng 4 Điều kiện môi trường ao nuôi cá bố mẹ 21
Bảng 5 Tỷ lệ thành thục 22
Bảng 6 Ảnh hưởng của HCG tới sinh sản cá 23
Bảng 7 Ảnh hưởng của LRH 24
Bảng 8 Ảnh hưởng của kết hợ não thùy với LRH 25
Bảng 9 Ảnh hưởng của loại hormone tới sinh sản cá 26
Bảng 10 Ảnh hưởng của loại hormone đến tỷ lệ dị hình 27
Bảng 11 Tốc độ sinh trưởng cá 27
Bảng 12 Tỷ lệ sống 28



1

Chương 1
GIỚI THIỆU
Đồng bằng sông Cửu Long gắn liền với tên gọi “vùng sông nước”, nổi tiếng khắp
cả nước và trên thế giới với những sắc thái văn hóa độc đáo đặc trưng của vùng và
tính cách phóng khoáng, hiếu khách của con người Nam Bộ. Bên cạnh sự nổi tiếng
kể trên ĐBSCL cũng được biết đến với sự phát triển mạnh mẻ trong nông nghiệp,
là vựa lúa gạo cung cấp lương thực chính, là nơi nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản
hàng đầu cả nước.
Vùng có diện tích mặt nước nội địa gần 1 triệu ha, chiếm gần 30% diện tích tự
nhiên của vùng. Riêng diện tích nước ngọt khoảng 340.000 ha. ĐBSCL có hệ

thống sông ngòi chằng chịt, đa dạng về loại hình thủy vực, đó chính là những điều
kiện hết sức thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Trong những năm vừa qua ngành
thủy sản ở đây đã phát triển mạnh mẽ gia tăng không ngừng cả về diện tích và sản
lượng, về loại hình canh tác. Cùng với tôm sú, cá tra là mặt hàng thủy xuất khẩu
chủ lực. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu 260.000 tấn cá
tra thành phẩm, với khối lượng xuất khẩu như vậy đã tạo ra lượng phế phụ phẩm
rất lớn và nó chính là nguồn thức ăn chính, rẻ tiền thay thế cá biển cho nghề nuôi
cá trê lai thịt. Chính vì lẽ đó mà sự phát triển của con cá tra đã kéo theo sự phát
triển của con cá trê lai. Cá trê lai có những đặc tính nổi trội như: dễ nuôi, khả năng
chịu đựng tốt với môi trường khi nuôi với mật độ cao, ăn tạp tất cả các loại phế
phụ phẩm đông lạnh và nông nghiệp, mau lớn, chất lượng thịt tương đối
ngon….Nên nó đã trở thành đối tượng nuôi phổ biến, từ nuôi công nghiệp mật độ
cao cho đến tận dụng các mương vườn quanh nhà.
Nghề nuôi cá thịt phát triển đòi hỏi phải có nguồn con giống lớn, chất lượng để
cung ứng. Hơn nữa cá trê là đối tượng truyền thống, đã sinh sản nhân tạo thành
công từ những năm 70-80 của thế kỷ trước, quy trình sinh sản đã cơ bản hoàn
chỉnh nhưng với mỗi tác giả lại có những luận điểm khác nhau trong kỹ thuật sản
xuất. Tuy nhiên, năng suất-chất lượng-hiệu quả kinh tế mới là yếu tố sống còn của
trại giống trong thời buổi kinh tế thị trường.
Đề tài vì vậy được thực hiện.
Mục tiêu: Thu thập them dẫn liệu về sinh học và kỹ thuật sản xuất giống cá trê
vàng lai, góp phần làm cơ sở cho việc cải tiến kỹ thuật đang được áp dụng hiện
nay ở ĐBSCL. Mặt khác thông qua đề tài góp phần rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp
trong NTTS.
Nội dung nghiên cứu:
- Theo dõi nuôi cá bố mẹ: theo dõi các chỉ tiêu môi trường, tỷ lệ thành thục.
- Kích thích cá sinh sản: sử dụng HCG, LRH+DOM, LRH+não thùy.
- Ấp trứng: sử dụng phương pháp khử dính và ấp bằng bình Jazz.
- Ương cá con.


2

Chương II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1. Đặc điểm sinh học
1.1 Phân loại
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), ở ĐBSCL có 2 loài cá trê
là cá trê vàng và cá trê trắng. Trong đó cá trê vàng có những đặc điểm sau:
Đầu rộng dẹp bằng, da đầu ở sọ não mỏng, xương sọ nổi lên rõ rang. Miệng cá
không co duỗi được, rạch miệng thẳng, nằm ngang, răng trên hàm nhỏ, mịn,
cứng…đôi râu khá phát triển: 1 đôi râu mũi, 1 đôi râu mép và 2 đôi râu cằm dưới,
râu mép…hơn các râu khác. Mắt nhỏ, nằm ở mặt lưng của đầu và gần chop mõm
hơn điểm…mang. Phần trán giữa hai mắt rộng. Đầu có hai lỗ thóp, một lỗ nằm
phía sau đường nối hai mắt, còn lỗ kia nằm phía trước gốc mấu xương chẩm. Mấu
xương chẫm tròn rộng gốc mấu xương chẫm tương đương 3 – 5 lần chiều cao của
nó. Lỗ mang hẹp, nằm…bụng của đầu, xương nắp mang kém phát triển (Trương
Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993)
Thân dài phần trước tròn, phần sau mỏng, dẹp bên. Cuống đuôi ngắn.
Đường…toàn chạy từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở điểm giữa gốc vi đuôi.
Cơ gốc vi phát triển, phủ lên gần tới ngọn các tia vi. Gai vi ngực cứng, nhọn đầu
đều có răng cưa hướng xuống gốc, xương đai vi ngực lộ hẳn ra ngoài. Vi đuôi tròn
chẻ hai (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Mặt lưng của thân của đầu có màu xám đến nâu đen và nhạt dần xuống mặt bụng
và mặt dưới của đầu có màu vàng. Trên thân mỗi bên có 10 hàng chấm nhỏ
màu…nằm vắt ngang thân (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993)
Cá trê vàng sống ở nước ngọt. Phân bố ở Philipin, Thái Lan, Lào, Campuchia và
ĐBSCL Việt Nam (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Trong tự nhiên cá sống ở các vùng đất trũng ngập nước và các con sông
(Vidthayanon, C., 2002). Cá cũng được tìm thấy ở các thủy vực nước nông, có thể
vùi mình một thời gian dài trong mùa khô khi thủy vực cạn nước (Frimodt, C.,

1995). Ngoài ra cá trê vàng cũng được tìm thấy trong các con sông lớn và vừa, các
thủy vực nước chảy chậm như: kinh rạch, cánh đồng ngập nước ở sông Mêkong
(Taki, Y., 1978).
Cá trê Phi ( Clarias gariepinus), có nguồn gốc từ châu Phi, được De Krimpe,một
nhà nghiên cứu nuôi cá người Pháp nhập vào Việt Nam vào đầu năm 1975
(Nguyễn Tường Anh, 2004).
TheoTrương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) loài có thể nhận diện bằng
các đặc điểm sau: mấu xương chẩm có dạng tam giác, chiều rộng của mấu xương
chẩm tương đương với chiều cao của nó. Các xương hai bên mấu xương chẩm kéo
dài ra phía sau làm sau mép sau của xương sọ có dạng M, trong khi ở cá trê vàng

3

hai bên xương chẫm không phát triển. Gốc vi đuôi có một vạch màu trắng nằm vắt
ngang.
Cá có râu mũi dài đến tận gốc vây lưng, có 4 đôi râu. Phân bố tự nhiên rộng khắp
châu Phi, từ sông Nile cho đến Tây Phi, từ Angieri cho đến Nam Phi, nó cũng
được tìm thấy ở ở châu Á như: bắc Thỗ Nhĩ Kỳ, Syria, Israel (Gertjan de Graaf and
Hans Janssen,1996).
Sống ở các sông, đầm, hồ lớn ở châu Phi. Đến mùa mưa ngược lên thượng lưu các
vùng ngập nước ở ven sông để sinh sản.
Dựa vào các đặc tính nổi trội về tăng trưởng trên năm 1983 người ta đã tiến hành
lai tạo giữa cá trê Phi đực và cá trê vàng cái tạo ra loài cá trê lai lớn nhanh, thịt
ngon màu sắc hấp dẫn, có thể nuôi 2-3 vụ/năm (Ngô Trọng Lư và Lê Đăng
Khuyến, 2000).
Thừa kế những đặc điềm di truyền của cả bố mẹ nên cá trê vàng lai F1
(C.macrocephalus x C.gariepinus) có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, da trơn
nhẵn. Đầu dẹp, thân tròn và dẹp về phía đuôi. Bụng có màu vàng nhạt. Cơ thể lốm
đốm nhiều bong cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều thẳng đứng với
thân cá. U lồi xương chẫm có hình dạng tương tự như chữ M với các cạnh tròn

trong khi ở cá trê vàng là hình dạng chữ V còn ở cá trê phi là hình chữ M rất nhọn
và rõ nét.
Đầu cá nhỏ, tỷ lệ đầu trên chiều dài thân gần tương tự như cá trê vàng khi cá còn
nhỏ, kích thước từ 100-300g. Khi cá đã lớn, trọng lượng đạt 500g/con thì có thể rõ
ràng phân biệt với cá trê vàng do thân cá mập, ngắn ( Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004).
1.2. Đặc điểm dinh dưỡng:
Đặc trưng dinh dưỡng của cá khác nhau theo loài, trạng thái sinh lý cơ thể và theo
điều kiện sống (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Giống cá trê ăn tạp, thiên về chất hữu cơ là xác chết động vật. Khi còn ở giai đoạn
cá bột và cá hương, cá trê cũng thể hiện tính hung dữ như cá tra (Phạm Minh
Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Cá trê vàng lai có tính ăn tương tự như cá trê
vàng, ăn tạp và rất háu ăn ( Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004).
Cá mới nở từ trứng do có túi noãn hoàng nên không ăn thức ăn bên ngoài. Sauk hi
nở 48 giờ cá mới tiêu thụ hết noãn hoàng. Do đó trong giai đoạn này không cần
cho cá ăn bất cứ thức ăn gì ( Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004).
Cá bột từ ngày thứ 3 trở đi ăn được bo bo hay còn gọi là trứng nước (moina), nếu
thả nuôi trong ao chúng cũng ăn được các loại giáp xác nhỏ sống trong nước. Sau
vài ngày chúng đã ăn được trùng chỉ. Thông thường nếu ương cá bột trên bể
ximăng hay bể bạt thì trùng chỉ sẽ là thức ăn chủ yếu trong quá trình ương đến khi
cá bột đạt cỡ 4-6cm. Từ cỡ này trở đi cá có thể ăn được ruốc, tép, côn trùng, các
phụ phẩm như đầu vỏ tôm, ruột sò điệp và các thức ăn tinh khác như: cám, bắp,
bột cá, cá phân (xay). Thức ăn viên công nghiệp cũng được sử dụng trong quá

4

trình ương nuôi và nuôi cá thịt, nhưng với cá thịt rất hạn chế vì giá cả cao chi phí
đầu tư lớn (Đoàn Khắc Độ,2008). Cá trê vàng lai ăn mạnh vào buổi tối, trời mờ
sáng (Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004).
Trong quá trình ương và nuôi thịt để cá tăng trọng nhanh và cho năng suất cao đòi
hỏi thức ăn phải đầy đủ về chất và lượng. Đối với cá giống đòi hỏi hàm lượng đạm

trong thức ăn từ 20-30%, còn đối với cá thịt từ 10-15% (Đoàn Khắc Độ,2008).
Cá trê có tập tính hay trú ở men bờ và bốn góc ao. Do đó phải rải đều thức ăn ở
bốn mé ao, góc ao và ở giữa ao để cá được ăn đồng đều, tránh hiện tượng chúng
tranh giành thức ăn (Đoàn Khắc Độ,2008).
Khi nuôi thịt có thể nuôi ghép cá trê ( cá trê Phi, cá trê vàng lai, cá trê vàng) với
các loài cá khác như: cá rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Các loài cá này sẽ ăn hết thức
ăn dư thừa trong ao giúp cải thiện môi trường nước (Đoàn Khắc Độ,2008).
1. 3. Đặc điểm sinh trưởng:
Sinh trưởng là sự gia tăng về kích thước, về khối lượng cơ thể sinh vật theo thời
gian, là kết quả của trao đổi chất. Cơ sở vật chất cho sinh trưởng là các chất dinh
dưỡng trong thức ăn mà cá tiếp nhận từ môi trường nước (Phạm Minh Thành và
Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Những loài cá khác nhau thì có tốc độ sinh trưởng khác
nhau. Cá có kích thước lớn thì tuổi thọ cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, thời gian
sinh trưởng kéo dài hơn những loài có kích thước nhỏ. Trong cùng một loài thì tốc
độ sinh trưởng của cá thay đổi qua các giai đoạn trong một chu kỳ sống.
Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến (2000), cá trê vàng lớn 1 tuổi, thân dài
20,5cm, nặng 70g. Cỡ cá lớn 2 tuổi, thân dài 35cm, nặng 250g. Cỡ cá lớn nhất đợt
điều tra ở ĐBSCL dài 45cm, nặng 495g. Cá trê vàng chậm lớn, thịt thơm ngon,
hay phá bờ và trèo đi lúc trời mưa.
Tốc độ tăng trưởng của cá trê vàng ở mức trung bình. Ở giai đoạn cá bột lên cá
giống, cá tăng nhanh về chiều dài. Khi đạt kích cỡ từ 15cm trở lên thì trọng lượng
của cá tăng nhanh hơn (Đoàn Khắc Độ,2008).
Cá trê Phi có tốc độ lớn nhanh, 6 tháng đạt bình quân 1kg/con, cơ thể to sản lượng
cao. Thân thường dài 35-50cm, nặng 250-2500g, có con 2 tuổi lớn nhất đạt 4,3kg,
thân dài 63cm. Cá đẻ trong năm 3 tháng tuổi có thể đạt thương phẩm. Thịt mềm,
đang được nuôi nhiều ở châu Phi, Hà Lan, CH Czech, ở Trung Quốc nuôi đạt 20-
40kg/m
2
(Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến, 2000).
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) thì cá trê vàng lai tăng trọng rất nhanh, nếu nuôi với

mật độ thích hợp cùng với chế độ cho ăn và chăm sóc tốt thì sau 3-4 tháng nuôi, cá
sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150-200g/con.
Cá trê sống được trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ
(độ mặn < 5%
0
). Cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH khoảng 5.5-8.0
( Bạch Thị Quỳnh Mai, 2004). Nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên cá có thể chịu

5

đựng môi trường khắc nghiệt có nhiệt độ từ 11-39
o
C, pH từ 3.5-10.5, hàm lượng
oxy hòa tan thấp (1-2mg/l) (Đoàn Khắc Độ,2008).
1.4. Đặc điểm sinh sản:
Sinh sản là đặc tính rất quan trọng đối với tất cả các loài vật nhằm tái sản xuất và
bảo vệ loài. Tuổi và kích thước thành thục của cá là đặc điểm thích nghi với điều
kiện sinh sản (Mai Đình Yên,1979). Mỗi loài cá đều có tuổi thành thục sinh dục
riêng và có thể thay đổi theo những điều kiện cụ thể. Tuổi thành thục của cá có thể
thay đổi khi môi trường sống thay đổi. Thông thường những loài cá sống ở vĩ độ
thấp có nhiệt độ trung bình năm cao thì tuổi thành thục thấp hơn so với các cá
cùng loài nhưng sống ở vĩ độ cao nhiệt độ thấp. Đồng thời những nơi có đầy đủ
dinh dưỡng cá thành thục sinh dục nhanh hơn, khối lượng cá lớn hơn và hệ số
thành thục cao hơn ( Nguyễn Văn Kiểm, 2005). Trong cùng vùng địa lý những
loài có kích thước lớn sẽ có tuổi thành thục cao hơn những loài có kích thước nhỏ
(Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Cá trê vàng thành thục sinh dục lần đầu tiên khi đươc 8 tháng tuổi, mùa vụ sinh
sản tập trung từ tháng 5-7 và đẻ trứng dính (Phạm Minh Thành,2005). Thân cá dài
37cm có 35.770 trứng, thân cá dài 19cm có 10.640 trứng (Ngô Trọng Lư và Lê
Đăng Khuyến, 2000).

Cá trê vàng không thể tự sinh sản, phải tiêm kích dục tố để kích thích sự sinh sản
của chúng. Cá trê vàng đẻ trứng tương đối nhiều, trung bình 30.000-50.000
trứng/1kg cá cái (Đoàn Khắc Độ,2008).
Cũng giống như các loài cá khác, cá trê Phi thành thục sinh dục và sinh sản theo
mùa mưa. Quá trình thành thục sinh dục chịu ảnh hưởng của sự thay đổi nhiệt độ
và chu kỳ chiếu sáng hàng năm và cuối cùng là đẻ trứng do sự gia tăng mực nước
theo lượng mưa (Gertjan de Graaf and Hans Janssen, 1996)
Đối với cá trê Phi, sinh sản kéo dài từ tháng 4-10, sinh sản tập trung từ tháng 5-8,
sau tháng 10 cá ít sinh sản. Giới hạn nhiệt độ nước cho quá trình sinh sản từ 20-
36
o
C, cá trê Phi được nuôi vỗ tích cực và có nước chảy kích thích thì chu kỳ đẻ
trứng rút ngắn xuống còn từ 15-20 ngày, mỗi năm cá có thể tham gia sinh sản 8-
11 lần (Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến, 2000).
Trong tự nhiên cá trê chọn nơi có bống tối ở các thủy vực nước nông thuộc sông
hồ, các con suối để làm tổ và đẻ trứng (Gertjan de Graaf and Hans Janssen, 1996).
2. Kỹ thuật nuôi vỗ:
Nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất cá giống.
Chất lượng đàn cá sinh sản có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất vì tỉ lệ cá
thành thục, số lượng trứng thu được, chất lượng cá bột, có liên quan chặt chẽ đến
kỹ thuật nuôi vỗ (Nguyễn Văn Kiểm,2007). Trong quá trình nuôi vỗ, không những
cho cá ăn đầy đủ cả về chất lẫn về lượng, chăm sóc quản lý tốt mà còn phải tạo

6

một môi trường nhân tạo gần giống với môi trường sống của cá ngoài tự nhiên.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004) các yếu tố bên ngoài tạo nên môi trường cho sự
phát triển của tuyến sinh dục.
Sự thành thục và khả năng sinh sản của cá bố mẹ là kết quả tác động của nhiều yếu
tố thuộc về sinh học và sinh lý. Đáng chú ý hơn là những đặc trưng sinh học cơ

bản của đối tượng và sự đòi hỏi về môi trường chất lượng nước phù hợp để tạo
điều kiện tối ưu cho cá trong quá trình nuôi vỗ. Từ đó đáp ứng mục đích của việc
nuôi vỗ cá sinh sản là có được tỉ lệ cá thành thục, hệ số thành thục, chất lượng sản
phẩm sinh dục cao, đáp ứng được yêu cầu sinh sản phục vụ sản xuất theo số lượng
và mùa vụ (Phạm Minh Thành, 2005).
Theo Nguyễn Chung (2006) cá bố mẹ thành thục là những cá có tuyến sinh dục
phát triển đầy đủ, sẵn sang chuyển ngay sang tình trạng sinh sản ngay khi gặp điều
kiện thích hợp hoặc bằng biện pháp sinh lý.
2.1. Ao nuôi vỗ:
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì cá trê có khả năng thích ứng rất cao nên ao
nuôi vỗ không đòi hỏi các điều kiện kỹ thuật một cách nghiêm ngặt. Qua thực tế
sản xuất tại ĐBSCL ao nuôi vỗ có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm mét
vuông cá vẫn thành thục tốt.
Yêu cầu về diện tích và độ sâu của ao khác nhau tùy loài. Việc bố trí ao cá bố mẹ
trên nguyên tắc những loài cá có nguồn gốc từ sông thì thích hợp với ao có diện
tích lớn, độ sâu cao, những loài cá có xuất xú từ đồng ruộng thì không cần độ sâu
cao (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Ao nuôi vỗ cá trê cần phải có bờ chắc chắn, không được rò rỉ, có lỗ mọi, đặc biệt
là ở cửa cống (Dương Nhựt Long,2003). Người ta thường nuôi vỗ cá bố mẹ trong
ao có diện tích nhỏ từ 100-200m
2
, độ sâu mực nước từ 1-1,2m. Ao phải có cống
cấp thoát nước dễ dàng. Nhiệt độ thích hợp từ 28-30
o
C, độ pH từ 6.5-8, hàm lượng
oxy hòa tan khoảng 2-3mg/l (Đoàn Khắc Độ, 2008)
Việc giảm bùn và chất hữu cơ đáy ao là cần thiết ở những ao cũ, nhất là những ao
trong vụ nuôi trước có mầm bệnh. Thông thường chỉ để lại lớp bùn đáy ao dày
không quá 20cm (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Cần xử lý ao kỹ trước khi thả cá bố mẹ, tát cạn ao, bắt hết cá tạp và địch hại, tu bổ

lại bờ ao, sang lấp hang, lỗ mọi. Rải vôi bột xuống đáy ao và bờ ao để diệt trừ
mầm bệnh, liều lượng sử dụng 7-10kg/100m
2
.Phơi nắng đáy ao từ 1-2 ngày. Đối
với những nơi đất có nhiều phèn thì không nên phơi đáy ao nứt nẻ, sẽ dẫn đến xì
phèn. Sau đó dẫn nước vào ao rồi tháo nước ra để lọc ao. Khi ao đã sạch thì cấp
nước vào cho đạt yêu cầu. Lưu ý là nước dẫn vào ao phải qua một lưới chắn để
không cho cá dữ, các loại địch hại và rác rưởi vào ao. Đến đây thì ao đã sẵn sàng
để thả cá bố mẹ.

7

2.2. Mùa vụ nuôi vỗ:
Cơ sở của việc xác định mùa vụ nuôi vỗ, được căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó
mùa vụ sinh sản tự nhiên của đối tượng là quan trọng nhất. Cá có thời gian sinh
sản nhất định trong năm nhằm đảm bảo sự tồn tại, sinh trưởng phát triển của trứng,
phôi, ấu trùng và con non dưới tác động của các yếu tố môi trường.
Các yếu tố sinh thái sinh sản trong tự nhiên có biến đổi có quy luật theo mùa. Đó
là nguyên nhân hình thành đặc điểm sinh học sinh sản theo mùa của cá (Phạm
Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Theo Phạm Minh Thành (2005) thì hầu hết các loài cá nuôi ở khu vực ĐBSCL đều
bắt đầu nuôi vỗ vào tháng 10,11. Do vậy nên mùa vụ nuôi vỗ cá bố mẹ để sản xuất
giống cá trê vàng lai thường bắt đầu từ tháng 11 âm lịch hàng năm (Đoàn Khắc
Độ,2008). Theo Bạch Thị Quỳnh Mai (2004) mùa vụ sản xuất giống nhân tạo cá
trê vàng lai bắt đầu từ tháng 2 âm lịch, khi cá trê vàng (Clarias macrocephalus)
bắt đầu mang trứng và kéo dài đến hết tháng 9 âm lịch.
2.3. Mật độ thả nuôi cá bố mẹ
Mật độ cá thả là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả nuôi. Có rất
nhiều vấn đề chi phối mật độ cá bố mẹ được thả nuôi. Trong số đó, giữ vai trò chủ
đạo là hàm lượng oxy hòa tan (đối với những loài cá không có cơ quan hô hấp

phụ),là khả năng và mức độ tiếp nhận oxy trong môi trường nước và môi trường
không khí (đối với những loài có cơ quan hô hấp phụ). Vấn để thứ hai cũng rất
quan trọng là khả năng loại bỏ sản phẩm thải của cá và thức ăn thừa, vấn đề này
đặc biết quan trọng với cá bố mẹ được nuôi trong ao nước tĩnh (Phạm Minh Thành
và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Mật độ thả nuôi cá bố mẹ cũng là chỉ tiêu kỹ thuật quan trọng ảnh hưởng rất lớn
đến khả năng thành thục và sinh sản của cá bố mẹ. Do nước ao không (hoặc rất ít)
xáo trộn và ít được lưu thông nên mật độ cá thả tính trên đơn vị diện tích (m
2
).
Trên cơ sở khả năng thích ứng của cá bố mẹ với điều kiện môi trường khác nhau
mà xác định mật độ (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Để sản xuất giống cá trê vàng lai, bắt buộc phải chọn cá bố là cá trê Phi đực và cá
mẹ là cá trê vàng Việt Nam. Người ta thường nuôi cá bố và cá mẹ trong hai ao
riêng biệt.
Chọn cá trê Phi đực từ 7 tháng tuổi trở lên, trọng lượng trung bình từ 0.5-
0.7kg/con. Cá phải khỏe mạnh không bị bệnh, dị tật, nhanh nhẹn. Nuôi trong một
ao riêng mật độ từ 1.5-2kg/m
2
(Đoàn Khắc Độ,2008).
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì cá trê vàng cái dùng để nuôi vỗ phải là cá có
đủ 12 tháng tuổi, trọng lượng trung bình từ 150-200g/con. Mật độ thả từ 0.5-
0.8kg/m
2
.


8

2.4. Thức ăn trong quá trình nuôi vỗ:

Thức ăn không chỉ là nguồn vật chất cho sinh trưởng, năng lượng cho sự trao đổi
chất mà còn là nguyên liệu cho sự phát triển của noãn hoàng, tinh sào. Khi môi
trường thiếu thức ăn sự thành thục của cá bị ảnh hưởng xấu như: hệ số thành thục,
tỷ lệ thành thục thấp, đặc biệt mức độ phát triển không đồng đều của noãn bào
cũng như khả năng rối loạn thành thục của cá tăng lên mặc dù các điều kiện sống
của môi trường thuận lợi (Nguyễn Văn Kiểm, 2004). Những cá trong thời kỳ tạo
noãn hoàng nếu bị đói trong thời gian dài thì buồng trứng có thể thoái hóa và tiêu
biến. Chế độ dinh dưỡng tốt có thể làm cho cá phát dục, thành thục và sinh sản
sớm ( Nguyễn Tường Anh, 1999).
Có hai loại thức ăn cho cá đó là thức ăn tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Thức ăn tự chế biến thì chi phí rẻ nhưng hàm lượng dinh dưỡng không ổn định,
khó bảo quản. Thức ăn công nghiệp thì có hàm lượng dinh dưỡng, dễ cho ăn, dễ
bảo quản nhưng giá thành đắt. Hầu hết người nuôi cá trê đều sử dụng thức ăn chế
biến để giảm bớt chi phí.
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) đề nghị công thức tự chế thức ăn là: cám gạo (75%),
bột cá (24%), premix khoáng và vitamin (1%). Tất cả được trộn đều nấu chin để
nguội vò thành viên và để xuống sàn cho cá ăn. Ngoài ra cũng nên cho cá ăn them
các loại phụ phẩm như: đầu tôm, ruột sò, ruột gà, ruột vịt, cá phân xay
nhuyễn…Thức ăn viên công nghiệp chọn loại có hàm lượng đạm từ 20-22%.
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì thành phần thức ăn phải có hàm lượng đạm cao
vì thế lượng bột cá chiếm 30-40%, cám gạo 40%, bột đậu nành 20-30%. Ngoài ra
có thể sử dụng thêm cá phế phẩm lò mổ, nhà máy chế biến thủy sản, cá tạp xay
nhuyễn 1 lần/tuần.
2.5. Chăm sóc và quản lý ao nuôi vỗ
Trong quá trình nuôi vỗ cá trê mỗi ngày cho cá ăn hai lần, khẩu phần ăn đối với
thức ăn tự chế là 5-8% trọng lượng cá trong ao, đối với thức ăn công nghiệp là 2-
3% ( Đoàn Khắc Độ, 2008).
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì cá trê rất háu ăn và thời gian tiêu hóa thức ăn
khá nhanh vì thế nên cho cá ăn nhiều lần trong ngày. Lượng thức ăn hàng ngày là
1.5-3% trọng lượng cá nuôi. Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến (2000) khẩu

phần cho ăn là 5-10%, 1-2 tuần thì bổ sung thức ăn tươi sống một lần.
Cần xác định được mức ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Chỉ
cho cá ăn với lượng vừa đủ, không nên cho quá nhiều thức ăn vào ao, cá ăn không
hết lượng thức ăn thừa sẽ là ô nhiễm nước. Nên định kỳ thay nước ao để cải thiện
môi trường nước, giúp hạn chế bệnh cho cá. Mỗi lần thay khoảng 20-30% lượng
nước ao.
Cá trê là loài có tính thích ứng cao và rộng đối với môi trường sống, hơn nữa cá có
cơ quan hô hấp phụ là “hoa khế” nên khả năng chống chịu tốt với sự khắc nghiệt

9

của môi trường sống. Do vậy trong quá trình nuôi vỗ cá bố mẹ, không đòi hỏi thật
khắt khe về các thông số kỹ thuật về thủy lý, thủy hóa. Theo Ngô Trọng Lư và Lê
Đăng Khuyến (2000) cá có thể sống trong các giới hạn sau:
Nhiệt độ nước: 14-38.5
o
C
Độ pH từ : 4.2-8
Độ muối dưới 6.2%
o

Hàm lượng oxy: >0.5mg/l
Nguồn nước: không bị nhiễm độc, nhiễm phèn.
3. Kỹ thuật sinh sản:
3.1. Phân biệt đực cái và chọn cá bố mẹ thành thục
Hầu hết các loài cá có thể phân biệt đực cái khi đã thành thục nhờ những dấu hiệu
sinh dục phụ. Nhưng cũng có một số loài có thể phân biệt được đực cái ngay từ
khi cá chưa thành thục. Những dấu hiệu sinh dục phục này có thể tồn tại đến suốt
đời nhưng cũng có thể biến mất khi mùa sinh sản kết thúc (Nguyễn Văn Kiểm,
2007).

Theo Nguyễn Tường Anh (2004) thì tất cả các loài cá trê hiện có ở nước ta, cơ
quan sinh dục ngoài của con đực và con cái có sự khác biệt về hình thái tương đối
rõ ràng. Phần cuối của ống niệu sinh dục của cá đực phía ngoài thân giống như gai
nhọn. Ở cá cái lỗ sinh dục hình tròn.
Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến (2000), cá trê cái có mấu sinh dục ngắn
và tròn, phần nhô ra phía sau rất nhỏ, thường có màu đỏ nhạt. Lỗ niệu ở phía sau
gai sinh dục. Con đực có mấu dài hình tam giác phía đầu mấu nhọn và nhỏ, phần
nhô ra phía sau rất dài, thường có màu trắng hay màu vàng nhạt, mùa sinh sản có
màu đỏ nhạt, lỗ tiết niệu ở cuối.
Thông thường cá sẽ thành thục và đủ khả năng sinh sản sau 3-4 tháng nuôi vỗ. Khi
cá đã thành thục ta dễ dàng phân biệt được cá đực cá cái dựa vào hình dạng bên
ngoài. Cá đực có gai sinh dục nhọn. Cá cái do mang trứng nên bụng hơi lớn, lỗ
sinh dục có màu hồng nhạt (Đoàn Khắc Độ, 2008). Cá đực thành thục tốt có gai
sinh dục phát triển nổi bật, có tập tính hung hăng. Mỗi khi chạm vào cá đực quẫy
mạnh và nhiều hơn cá khác. Cá cái thành thục tốt có bụng to, mỏng mềm, phần
ngoài lỗ sinh dục hơi cương, có thể tiết ra trứng khi nặng nhẹ ở vùng bụng gần lỗ
sinh dục ( Nguyễn Tường Anh, 2004).
Nếu chưa thành thạo xác định mức độ thành thục của cá cái, người ta có thể lấy
mẫu trứng để khảo sát. Cá cái đã thành thục tốt phải có những hạt trứng đạt kích
thước tới hạn, rời, các mao mạch trên nang trứng nhỏ hoặc không còn thấy được
và quan trọng nhất là có trên 60% hạt trứng đã lệch tâm, tức là nhân noãn bào
không còn nằm ở giữa nữa ( Nguyễn Tường Anh, 2004). Theo Đoàn Khắc Độ

10
(2008) trứng cá trê vàng thành thục có kích cỡ đồng đều, màu vàng nâu, đường
kính khoảng 1-1.2mm. Trứng có tính dính, có thể bám vào bất kì vật thể nào.
3.2. Kích thích cá sinh sản:
Trong sản xuất cá giống để kích thích cá đẻ đồng loạt, tỷ lệ cá đẻ cao nhằm thu
được số lượng trứng lớn thì việc tiêm hormone kích thích cá sinh sản là cần thiết
(Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).

Khi kích thích cá sinh sản chúng ta có nhiều phương pháp khác nhau, tiêm kích
dục tố với liều lượng và chủng loại khác nhau. Tuy nhiên việc tiêm kích dục tố
dựa vào điều kiện cụ thể như: chất lượng và hoạt tính của từng loại kích dục tố,
tình trạng thành thục của cá bố mẹ, nhiệt độ nước (Phạm Phú Hùng, 2007 được
trích bởi Trần Quang Minh, 2008).
Có nhiều loại hormone có khả năng kích thích sinh sản cá, nhưng 3 loại hormone
sử dụng rộng rãi phổ biến hiện nay: LRH-A (kết hợp với Domperidone), não thùy,
HCG (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008). Mỗi loại kích dục tố có
chỉ định về liều lượng sử dụng khác nhau. Cần phải tiêm đúng liều lượng mới đem
lại kết quả sinh sản tốt nhất (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Theo Đoàn Khắc Độ (2008) thì loài và liều lượng hormone tiêm cho cá như sau:
Não thùy thể: đối với cá cái, liều lượng từ 10-12mg/kg cá. Liều cho cá đực bằng
1/2-1/3 liều cho cá cái.
HCG: Đối với cá cái liều lượng từ 5000-6000 UI/kg cá.Liều dùng cho cá đực bằng
1/3 liều dùng cho cá cái.
LRH-A + DOM: 80-100µg cộng với 4-5mg DOM cho 1 kg cá cái. Liều dùng cho
cá đực bằng 1/3 liều cá cái.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2007) thì có thể dùng một trong hai loại kích thích tố
sau: não thùy họ cá chép 3-4mg/1kg cá cái, hoặc HCG 2000-2500UI/kg cá cái. Cá
đực tiêm 1/2-1/3 liều cho cá cái.
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì dùng HCG kích thích cá sinh sản với liều từ
4000-6000UI/kg cá cái. Có thể dùng riêng hoắc phối hợp với não thùy họ cá chép.
Nhưng cho dù là sử dụng loại thuốc nào cũng vậy điều quan trọng là chúng ta phải
chọn lựa được cá bố mẹ thành thục tốt và thời điểm kích thích sinh sản phải phù
hợp với mùa vụ sinh sản tự nhiên của cá, có như vậy mới đạt được hiệu quả cao
nhất trong quá trình sản xuất.
Để kích thích cá sinh sản tốt nhất, người ta thường tiêm hai liều: liều sơ bộ và liều
quyết định. Lượng thuốc cho liều sơ bộ bằng 1/3 tổng liều lượng sử dụng, 2/3 còn
lại tiêm cho liều quyết định. Giữa lần tiêm liều sơ bộ và liều quyết định phải cách
nhau từ 7-8 giờ. (Đoàn Khắc Độ, 2008). Theo Ngô Trọng Lư và Lê Đăng Khuyến

(2000) thì thời gian hiệu ứng của thuốc phụ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ càng

11
xuống thấp thời gian hiệu ứng càng kéo dài ra, thông thường trứng rụng sau khi
tiêm liều quyết định từ 10-15 giờ ở nhiệt độ 27-31
o
C.
Vị trí tiêm tốt nhất là cơ lưng phía trước, trên đường bên, dưới vây lưng của cá.
Thể tích dung dịch thuốc mỗi lần tiêm không quá 1ml (Ngô Trọng Lư và Lê Đăng
Khuyến, 2000).
Sauk hi tiêm xong giữ cá trong các dụng cụ thau nhựa, bể xi măng…Mực nước
vừa ngập thân cá và đậy kín cẩn thận tránh cá nhảy ra ngoài.
3.3. Thụ tinh nhân tạo:
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2008), thụ tinh nhân tạo là con
người chủ động cho trứng và tinh trùng (tinh dịch) tiếp xúc để tiến hành thụ tinh.
Hình thức này thường thu được tỷ lệ thụ tinh cao do xác suất gặp gỡ của tinh trùng
và trứng cao.
Quá trình thụ tinh nhân tạo được thực hiện theo trình tự: lấy trứng cá cái - mỗ lấy
tinh dịch cá đực - cho trứng thụ tinh - ấp trứng.
Sau khi tiêm cá 16-18 giờ tùy theo nhiệt độ của nước có thể kiểm tra mức độ rụng
trứng của cá để định giờ vuốt trứng. Khi kiểm tra thấy trứng rụng nên chờ 30-45
phút sau (chờ trứng rụng đồng loạt) thì vuốt trứng. Trứng được vuốt vào dụng cụ
khô sạch (Nguyễn Văn Kiểm, 2007).
Đối với cá trê, không thể thu tinh dịch của cá đực bằng phương pháp vuốt bụng
hoặc dùng bơm tiêm, mà phải mổ mới lấy được tinh dịch (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Mỗi cá đực thành thục tốt có thể thụ tinh cho 3-5 cá cái. Bắt cá đực mổ lấy hai
buông tinh cắt nhỏ nghiềm trong cối sứ, thêm nước muối sinh lý (3-5ml tùy theo
lượng trứng vuốt ra), đổ dung dịch này vào trứng, đảo đều 1-2 phút để thụ tinh.Sau
đó trộn trứng với dung dịch thụ tinh đã chuẩn bị trước (4g NaCl + 3g Urea + 1l
nước cất) khoảng 30-40 phút, sau đó đem trứng đi ấp (Nguyễn Văn Kiểm, 2007).

Theo Đoàn Khắc Độ (2008) thì cho thụ tinh theo cách đổ tinh dịch đã nghiền vào
chậu chứa trứng, cho thêm nước sạch vào (300ml/ 1l trứng), sau đó dùng lông
cánh gia cầm khuấy đều từ 2-3 phút. Chắt bỏ nước trong chậu trứng ra và thêm
nước sạch vào, tiếp tục khuấy tiếp để rửa sạch trứng, sau đó lại đổ nước ra. Thực
hiện khoảng 2 lần, khi trứng đã sạch thì đưa vào ấp.
Chuẩn bị bể ấp bằng xi măng, composite, bể lót bằng bạt nilon. Diện tích bể từ 1-
20m
2
, mực nước sâu khoảng 20-30cm. Nhiệt độ nước phải ổn định từ 28-30
o
C, pH
dao động từ 6.5-7.5. Nước phải trong sạch, không bị nhiễm mặn hay phèn. Bể phải
có sục khí để luân chuyển nước và cung cấp oxy, đảm bảo hàm lượng oxy trước và
sau khi nở khoảng 5-6mg/l (Dương Nhựt Long, 2003).
3.4 Ấp trứng
Dùng giá thể là một vỉ lưới được nẹp bằng các thanh gỗ để nó căng ra. Cho vỉ
chìm trong bể ấp. Dùng lông gà quệt trứng và rải trứng thật đều để trứng bám hết

12
lên vỉ lưới (thao tác phải thật nhanh tay). Mật độ ấp từ 20.000-30.000 trứng/m
2

(Dương Nhựt Long, 2003). Sau khoảng 22-26 giờ ấp thì trứng sẽ nở. Cá bột sẽ
chui qua mắt lưới và tập trung dưới đáy bể, thời gian này chúng sống bằng túi
noãn hoàng. Sau 45-48 giờ nở, túi noãn hoàng sẽ cạn kiệt dần và cá bột sẽ ăn thức
ăn từ bên ngoài.
Sau khi trứng nở được 3-4 giờ, lấy vỉ lưới ra khỏi bể để tránh trường hợp trứng
ung còn lại trên vỉ lưới bị phân hủy và làm ô nhiễm nước.
Ngoài phương pháp ấp trứng nêu trên Nguyễn Văn Kiểm (2007) cũng giới thiệu
phương pháp ấp trứng khử dính trong bình Weys. Khử dính dung dịch bằng Tanin

1.5% theo tỉ lệ 1:1 trong thời gian 3-4 giây, sau đó rửa bằng nước thường. Làm
như vậy cho đến khi hết dính. Khi ấp trứng bằng phương pháp này phải bố trí sục
khí hoặc cho nước chảy liên tục để tránh trứng chìm xuống đáy. Một bình Weys
thể tích 8 lít có thể ấp được 0.4-0.6kg trứng tương đương với 800.000 trứng. Khi
cá nở xong phải chuyển cá ra các bồn có diện tích lớn hơn
4. Kỹ thuật ương cá bột lên cá giống:
Khi cá bột tiêu thụ hết nguồn dinh dưỡng dự trữ (noãn hoàng) thì phải tiến hành
ương cá bột lên cá giống. Cá bột có thể được ương trong ao đất, trong bể xi măng
hoặc trong bể bạt. Trong mỗi trường hợp thì mật độ nuôi thả, thức ăn và cách
chăm sóc cũng có phần khác nhau. Việc ương nuôi nếu thực hiện đúng biện pháp
kỹ thuật thì sẽ cho ra con giống có chất lượng tốt.
4.1. Ương trong ao đất:
Theo Bạch Thị Quỳnh Mai (2004) thì để tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch cá
giống, cần phải chuẩn bị ao ương theo tiêu chuẩn như sau:
Ao có diện tích từ vài trăm đến 1000m
2
là tốt nhất. Mực nước trong ao từ 1-1.2m.
Đáy ao phải dốc về phía bọng thoát nước.
Nên đào một cái hố tròn trước bọng thoát nước, đường kính khoảng 2-3m, sâu
khoảng 0.5m. Và từ 2 bờ ao, đào một cái rãnh ( rộng khoảng 1-1.5m, sâu khoảng
0.2 – 0.3m về phía hố tròn).
Phải xử lý ao thật kỹ trước khi thả cá bột. Tùy theo ao cũ, ao mới mà có cách xử lý
khác nhau. Đối với ao mới đào rải vôi bột đáy ao, bờ ao liều lượng sử dụng
khoảng 15kg/100m
2
. Ao cũ thì tát cạn, diệt tạp bằng dây thuốc cá liều từ 3-
5kg/1000m
2
, rải vôi với liều khoảng 30kg/100m
2

. Phơi nắng đáy ao từ 2-3 ngày.
Sau đó lấy nước vào ao và tiến hành gây màu cho nước bằng các loại phân hữu cơ
và vô cơ. Khoảng 2 ngày sau thì có thể thả cá bột.
Có thể ương cá bột trong ao với mật độ từ 250-400 con/m
2
(Đoàn Khắc Độ, 2008),
theo Dương Nhựt Long (2003) thì mật độ ương có thể lên đến 1.000-2.000 con/m
2
.
Khi vận chuyển cá bột đến ao ương, phải ngâm bọc cá trong nước ao khoảng 10
phút để nhiệt độ nước ao cân bằng với nhiệt độ trong bọc cá, sau đó mới thả cá ra

13
từ từ để chúng quen dần với môi trường mới. Thời điểm thả cá bột tốt nhất là sáng
sớm hoặc chiều mát vì lúc này nhiệt độ nước tương đối mát mẻ cá ít bị sốc.
Trong 3 ngày đầu sau khi thả, cá ăn thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao. Cho cá ăn
thêm thức ăn tinh và tươi sống như: moina, lòng đỏ trứng luộc chin bóp nhuyễn, 1
trứng/10.000 cá bột, ngày cho ăn 3-4 lần (Dương Nhật Long, 2003).
Sau 4-5 ngày sử dụng trùng chỉ, thức ăn tổng hợp để thay thế dần dần lòng đỏ
trứng. Hai loại thức ăn này cho ăn xen kẻ mỗi ngày 2 lần. Đặc biệt với thức ăn chế
biến cần điều chỉnh lượng thức ăn sao cho khoảng 1-2 giờ thì cá ăn hết là được.
Thức ăn chế biến có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoăc thức ăn tự chế theo
công thức sau: bột cá (60%), bột đậu nành (10%), cám gạo (25%), bột mì (5%),
vitamin C và premix. Các thành phần trên được trộn đều và ép thành viên cho cá
ăn (Dương Nhật Long, 2003).
Để dễ kiểm soát và điều chỉnh lượng thức ăn cho cá cũng như đều, nên cho thức
ăn vào nhiều sàn rồi đặt ở bốn góc và giữa ao để cá ăn.
Hàng ngày phải thường xuyên theo dõi biểu hiện hoạt động, bơi lội bắt mồi của cá.
Khi thấy cá có biểu hiện bất thường thì phải tiến hành kiểm tra để kịp thời phát
hiện bệnh và điều trị sớm.

Phải định kỳ thay nước ao để cải thiện môi trường nước, giúp cá khỏe mạnh và
phát triển tốt. Ngoài ra cần phải có biện pháp phòng bệnh cho cá, cách đơn giản
được nhất là bổ sung thêm vitamin C, premix vào thức ăn hàng ngày (Đoàn Khắc
Độ, 2008).
Trong điều kiện môi trường ao nuôi thuận lợi, đầy đủ thức ăn thì sau 2 tuần cá đạt
kích cỡ 4-6 cm. Lúc này có thể thu hoạch cá giống.
4.2. Ương trong bể xi măng, bể bạt
Bể có diện tích từ 2-20m
2
, độ sâu mực nước khoảng 40-60 cm. Cần xử lý bể thật
kỹ trước khi thả cá, đối với bể mới xây cần ngâm bể từ 10-12 ngày mới sử dụng
được. Với bể cũ thì phải chà rửa sạch sẽ, tạt nước vôi đều trong bể và thành bể rồi
phơi nằng một ngày để diệt khuẩn. Sau đó bơm xả nước vài lần để làm sạch bể
(Đoàn Khắc Độ, 2008)
Đối với bạt thì chuẩn bị như sau, trên nền đất muốn làm bể ương, tiến hành đào
những cái bể nhỏ (kích cỡ khoảng 3x4, 4x6 hoặc 5x5m). Sang bằng rồi đổ cát vào
trải đều. Thiết kế một cái khung gôc với bốn cái cọc đóng chặt ở bốn góc bể để
làm sườn trải bạt. Dùng một tấm bạt dày, không bị lỗ mọt, kích cỡ vừa với khung.
Trải bạt vào khung và nẹp các thanh gỗ cho chắc chắn (Bạch Thị Quỳnh Mai,
2004).
Sau khi đã chuẩn bị xong thì tiến hành bơm nước vào bể. Mực nước trung bình 30-
40cm. Nguồn nước phải được lắng lọc,xử lý đối với nước sông và nước ao, nước

14
máy thì phải bơm vào bể trước 1 ngày giảm bớt Clo, nước giếng bơm vào bể trước
2 ngày.
Theo Dương Nhựt Long (2003) thì có thể ương cá bột trong bể với mật độ 5.000-
10.000 con/m
2
. Sau đó san thưa ra các bể khác khi cá lớn. Theo Đoàn Khắc Độ

(2008) có thể ương với mật độ 2000-2500 con/m
2
. Khi vận chuyển cá bột đến bể
nên ngâm bọc cá vào nước bể khoảng 10 phút để nhiệt độ bên trong và bên ngoài
cân bằng với nhau, sau đó thả cá ra từ từ để chúng quen dần với môi trường mới.
Những con khỏe mạnh sẽ bơi dọc theo thành bể và tụ họp ở các góc bể. Những
con yếu sẽ nằm một chỗ, có thể dùng ống xi phông hút chúng ra, tránh chúng bị
chết hoặc nhiễm bệnh làm ô nhiễm nước và lây cho cả bể.
Ba ngày đầu cho cá ăn moina để tập cho chúng bắt mồi, cho ăn 1-1,5 lon/ 20.000
cá bột/ngày. Từ ngày thứ 4 trở đi, cho cá ăn trùng chỉ 2lon/20.000 cá bột/ ngày.
Lượng trùng chỉ cho cá ăn sẽ tăng dần trong những giai đoạn tiếp theo. Thông
thường với 10.000 cá bột, ương nuôi đến khi đạt cỡ 4-5cm thì tiêu hao 100-110
lon trùng chỉ (Đoàn Khắc Độ, 2008)
Định kỳ thay nước bể để giữ cho nước trong sạch, giúp cá khỏe mạnh và phát triển
nhanh. Mỗi lần thay khoảng 20-30% lượng nước bể
Sau khi cá ăn xong, phải vớt hết thức ăn thừa ra, nhằm tránh gây ô nhiễm nước.
Thường xuyên dùng ống xi phông hút cặn bã và phân cá dưới đáy bể.
Với môi trường nuôi thích hợp, chế độ dinh dưỡng đầy đủ thì sau 16-18 ngày
ương cá đạt kích cỡ 4-6cm (lồng 7). Tỉ lệ sống thường đạt từ 60-85%. Lúc này có
thể thu hoạch cá giống.















15
Chương III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nuôi cá bố mẹ:
1.1. Điều kiện ao nuôi cá bố mẹ:
Đối với nghề nuôi cá nói chung và sản xuất giống thủy sản nói riêng, việc lựa chọn
địa điểm để đào hay xây dựng trại luôn gắn liền với nhu cầu hằng ngày là nguồn
nước. Tốt nhất là ao được liên hệ gần gũi với nguồn nước sông ( càng gần sông
càng tốt), vấn đề này đặc biệt quan trọng với ao nuôi cá bố mẹ, những loài có xuất
xứ từ sông (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2008).
Bên cạnh nguồn nước tốt phục vụ cho sản xuất thì cảnh quan của ao nuôi vỗ cũng
đóng một vai trò khá quan trọng, bờ ao và mặt ao thông thoáng sẽ giúp cho ao tiếp
nhận tốt nguồn ánh sang mặt trời làm gia tăng hàm lượng oxy hòa tan do quang
hợp, kích thích tuyến nội tiết hoạt động thúc đẩy sự thành thục của cá.
Cá bố mẹ được nuôi tại 3 ao có điều kiện như bảng 1.
Bảng 1: Điều kiện ao nuôi cá bố mẹ
Ao số Hình dạng Diện tích (m
2
)

Độ sâu (m) Bùn đáy (m)
1
Chữ nhật 500 1.1 0.30
2
Chữ nhật 300 1.2 0.25
3

Chữ nhật 300 1.0 0.30
Mặt ao và bờ ao thoáng không có bèo cỏ hoặc cây cối che phủ. Ao được cấp nước
từ mương vườn và nước giêng. Trước khi thả cá, ao được tẩy dọn theo hình thức
tát cạn, bón vôi 100kg/m
2
, sau đó phơi nắng để tăng cường diệt tạp và diệt trừ
mầm bệnh.
1.2 Thả nuôi cá:
Ao dung nuôi cá bố mẹ chỉ thả 1 loài là cá trê vàng theo hình thức nuôi đơn. Việc
thả cá được bắt đầu và kết thúc trong tháng 11 năm 2008. Số lượng cá thả được
trình bày ở Bảng 2


16
Bảng 2: Thả cá bố mẹ vào ao nuôi
Số lượng Mật độ Ao số
Số con Số kg Con/m
2
Kg/m
2
1
3650 900 7.2 1.8
2
1930 480 6.4 1.6
3
1651 410 6.8 1.7
Cá bố mẹ được thả nuôi bao gồm những cá thể đã tham gia sinh sản năm 2008 đạt
kết quả tốt (chiếm 70% tổng số cá) và bổ sung them từ đàn cá hậu bị (đàn cá nuôi
thịt chiếm 30%). Cá bố mẹ có tiêu chuẩn ngoại hình tốt, cơ thể nguyên vẹn đồng
đều, khỏe mạnh không dị hình.

1.3 Chăm sóc và quản lý:
1.3.1 Chế độ cho ăn:
Tại cơ sở sản xuất sử dụng thức ăn nuôi cá bố mẹ hiệu UP 26% đạm. Thức ăn
dạng viên có kích thước 4mm. Hàng ngày cho ăn 1 lần vào 8h-9h sang. Khẩu phần
ăn thay đổi theo tháng nuôi. Cụ thể là:
Tháng 11 cho ăn 5% tổng trọng lượng cá trong ao
Tháng 12 cho ăn 4%
Tháng 1 trở đi 3%
Riêng cá đã sinh sản thì được nuôi riêng, cho ăn 5% tổng trọng lượng cá.
1.3.2. Quản lý ao cá:
Công việc quản lý cá chủ yếu là theo dõi hoạt động của cá. Hàng ngày theo dõi
cường độ ăn, dấu hiệu bệnh lý. Đồng thời định kỳ thay nước ao theo chế độ thủy
triều 2 lần/ tháng vào những kỳ con nước lớn ( nước rằm và nước ba mươi).
Lượng nước thay qua ống bọng chiếm 20-30% tổng lượng nước ao. Đàn cá bố mẹ
được chăm sóc quản lý như trên phát triển tốt, cá không có dấu hiệu bệnh lý.



17
2. Kích thích cá sinh sản
2.1. Lựa chọn cá thành thục:
- Đối với cá cái: bụng to, mềm đều, lỗ sinh dục có màu hồng. Khi vuốt bụng thì
chảy ra ít trứng, trứng phải có màu sắc đặc trưng vàng nâu, kích thước các hạt
trứng đồng đều, rời rạc, nhân đã lệch tâm (phân cực).
- Đối với cá đực: bụng thon, rắn chắc, gai sinh dục dài.
2.2. Kích dục tố sử dụng:
Tại cơ sở sản xuất chỉ sử dụng 1 loại kích thích tố là LRH kết hợp với DOM. Tuy
nhiên, trong quá trình thực tập chúng tôi có xin phép cơ sở cho sử dụng thêm HCG
cho việc bố trí thí nghiệm để so sánh vấn đề sử dụng kích thích tố cụ thể trong báo
cáo này. Các nghiệm thức như sau:

-HCG: sử dụng để kích thích sinh sản với các liều lượng 2000, 2500, 3000, 3500,
4000UI/1kg cá cái.
-LRH (có bổ sung 10mg DOM/kg cá cái): với các liều lượng 50, 75, 100, 125,150
µg/kg cá cái.
-Kết hợp não thùy với LRH theo các hàm lượng sau:
LRH (µg/kg)
50 50 50 50 50 50 75 100
Não thùy
(mg/kg)
0 1 2 3 4 5 2 2
- So sánh hiệu quả của 2 loại hormone là HCG và LRH
*HCG: 3000UI/1kg cá cái
*LRH: 100µg/1kg cá cái
- Tiêm vào cơ lưng của cá và tiêm 1 lần duy nhất.
2.3. Phương pháp thụ tinh cho cá:
Cá trê được thực hiện phương pháp thụ tinh nhân tạo. Cá đực được mổ lấy buồng
tinh, cắt nhỏ, nghiền nát trong cối sứ sau đó hòa vào dung dịch nước muối sinh lý.
Khi cá cái rụng trứng thì vuốt vào thau (đã được lau khô) dùng dung dịch nước
muối sinh lý có chứa tinh trùng trộn với trứng. Dùng long gà đảo điều chứng 1-2

×