Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

(SKKN 2022) một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt phân môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.84 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
STT
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.3.7
2.3.8
2.3.9
2.4
3.1
3.2

NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các biện pháp rèn kĩ năng học tốt phân môn Tập làm văn
Nêu vị trí, vai trị, nội dung, chương trình của phân môn
Xác định yêu cầu trọng tâm đề
Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh
Rèn cách nghe và cảm thụ bài văn
Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh
Rèn kĩ năng diễn đạt câu văn có hình ảnh nghệ thuật
Rèn kĩ năng về việc bộc lộ cảm xúc trong bài văn
Dạy thu hút học sinh học văn, làm văn
Dạy học thơng qua tích hợp các phân mơn
Hiệu quả đạt được
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị

TRANG
2
3
3
3
4
5
6
9
9
12
13
13

14
15
16
17
17
17
18
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, môn Tiếng Việt là một trong các môn học bắt buộc
đối với các em học sinh Tiểu học. Là một môn học rất quan trọng đối với các
em. Nếu các em học tốt mơn Tiếng Việt thì khơng những các em được bổ trợ cho
các môn học khác mà cịn nói năng, giao tiếp rất thành thạo tiếng mẹ đẻ. Nó sẽ
giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống. Và ngược lại, nếu các em học chưa tốt
mơn Tiếng Việt thì khơng những làm cho các em mất tự tin trong giao tiếp mà
còn làm cho các em học khơng tốt các mơn khác như: Tốn, Đạo đức, Tự nhiên
và Xã hội…Các em có đọc thạo thì mới nắm được u cầu các bài đó nói gì? Có
viết được thì mới trình bày được nội dung cần thiết… Từ đó sẽ tạo tiền đề cho
các bậc học phổ thông. Những năm gần đây, Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã rất
chú trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học đối với các mơn học nói
chung và mơn Tiếng Việt nói riêng. Sở giáo dục và Đào tạo, Phòng giáo dục và
Đào tạo cũng đã tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học các mơn
học trong đó có mơn Tiếng Việt. Trong nhà trường cũng đã áp dụng các chuyên
đề đó trong giảng dạy, hàng năm vẫn tổ chức, đánh giá, rút kinh nghiệm. Song
chất lượng dạy và học của môn Tiếng Việt vẫn chưa được nâng cao một cách rõ
rệt. Vì thế người giáo viên cần phải linh hoạt, nhạy bén trong các hoạt động dạy
học. Nghị quyết TƯ 8 khóa XI của Đảng“Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

và đào tạo, đáp ứng u cầu Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế” đã khẳng định: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.[7]
Phân mơn Tập làm văn là một phân mơn có tầm quan trọng trong tất cả
các mơn học vì chúng quyết định về nhiều mặt. Trong tất cả các môn học đều
phải sử dụng đến hành văn để làm: Tự nhiên xã hội, Đạo đức, Tốn,... và các
phân mơn khác của Tiếng Việt, … phân mơn Tập làm văn cịn có tầm quan trọng
cho đến cả sau này khi học sinh khơng cịn học trong mái trường nữa thì nó vẫn
luôn theo các em là hành trang để đi vào đời cho các em như: học sinh có làm
văn tốt thì ăn nói mới lưu lốt được, muốn có một bài “diễn thuyết” giỏi mang
tính thuyết phục thì cũng phải có hành văn tốt. Vậy có thể nói rằng phân mơn
Tập làm văn có tầm ảnh hưởng rất lớn đến cả một thế hệ con người. Vậy thì
ngay trong nhà trường phải dạy như thế nào để các em có thể lĩnh hội môn này
một cách tốt nhất, làm sao để phát huy khả năng của học sinh, phát huy ngơn
ngữ của học sinh đó là một vấn đề mà mỗi người giáo viên chúng ta cần phải
suy nghĩ dạy như thế nào để có chất lượng.
Là một người giáo viên trực tiếp đứng lớp, là một học sinh - đã từng học
chuyên văn, tôi rất trăn trở và về việc nâng cao chất lượng dạy và học môn
Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng. Với một phường
thuộc trung tâm thành phố Thanh Hóa, trình độ dân trí rất cao, đời sống nhân
dân phát triển, một nơi mà giáo viên và học sinh phần lớn nói chuẩn tiếng phổ
2


thơng, nhưng một phần khơng nhỏ cịn nói tiếng địa phương như : thanh hỏi(?),
thanh ngã còn lẫn lộn, khả năng dùng từ, đặt câu chưa chính xác, diễn đạt chưa
trơi chảy. Vì thế, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy và học môn Tiếng

Việt đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Hằng năm, tỉ lệ điểm (học sinh hồn
thành tốt) khơng cao trong các lần kiểm tra định kì đều rơi nhiều vào mơn Tiếng
Việt. Vì thế bản thân tơi đã trăn trở, tìm hiểu và thiết nghĩ: Đổi mới phương pháp
dạy học không chỉ là sử dụng các phương pháp dạy học hợp lí và vận dụng các
hình thức dạy học linh hoạt.v.v… mà cần phải đổi mới từ bản thân giáo viên về
cách nghĩ, cách làm, luôn trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ…, từ đó mới
hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh được kiến thức một cách toàn diện. Một giáo
viên mà đọc sai chính tả ( tr, ch, s, x), nói và viết tiếng địa phương, đọc mẫu bài
tập đọc chưa đúng, cảm thụ bài văn chưa tốt, viết một đoạn văn chưa phong phú,
sáng tạo, kể câu chuyện chưa hay, chưa hấp dẫn… thì làm sao mà thu hút được
học sinh trong học tập. Bản thân học sinh đã đọc sai, viết sai rồi nay lại nghe cô
hướng dẫn như thế thì chắc chắn các em sẽ khơng thấy được lỗi của mình.
Những tồn tại này lâu nay trong trường khơng mấy ai để ý đến vì cho là chuyện
nhỏ, nếu có sửa chữa thì cũng khơng triệt để được, hơn nữa trên địa bàn cũng
chưa có giáo viên nào nghiên cứu về vấn đề này. Để góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học, cũng như góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập
môn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng trong nhà trường.
Chính vì những lí do trên mà tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng
học tốt phân môn Tập làm văn lớp 3” để nghiên cứu. Và tôi mong rằng đây sẽ
là một sự khởi sắc để tiếp tục nghiên cứu đề tài rộng hơn nữa.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Để giúp cho chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của phân mơn Tập làm văn
trong môn Tiếng Việt. Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng,
khắc sâu kiến thức về phân môn Tập làm văn và viết được bài văn hay, hấp dẫn.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học ở trường Tiểu học tìm ra
những khó khăn, thiếu sót khi học Tập làm văn của học sinh để đề ra một số
biện pháp rèn kĩ năng học tốt phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 3.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài này nghiên cứ về: “Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt phân môn Tập
làm văn lớp 3.”

1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Trong quá trình nghiên cứu
đề tài bản thân tơi đã tìm tịi, nghiên cứu thu thập thơng tin thơng qua đọc sách
báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm cơ bản là cơ sở cho lý
luận của đề tài, hình thành giả thuyết khoa học, dự đốn về những thuộc tính của
đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mơ hình lý thuyết và thực nghiệm ban
đầu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Bản thân tôi đã sử
dụng phương pháp này để điều tra, khảo sát đối tượng học sinh trong lớp 3 trước
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: tìm hiểu đặc điểm, thu thập thơng tin làm
3


chứng cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp thực tiễn. Và điều tra kết quả
làm văn của học sinh, sau khi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp điều tra, quan sát thực tế, tìm hiểu đối tượng: Trong q trình
thực hiện đề tài tơi cho học sinh điều tra, tìm hiểu về các đối tượng định kể và
tiến hành tổ chức quan sát đối tượng theo cá nhân, nhóm, tập thể.
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi thông tin: Sau khi quan sát, tôi tổ chức cho
các em nhận xét, đàm thoại và trao đổi thơng tin để tìm ra những nét tiêu biểu,
nổi bật của đối tượng.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tìm hiểu kết quả các lớp học sinh trước,
phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu để đưa ra giải pháp khắc phục. Sau khi áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi dùng phương pháp tổng kết để đánh giá lại
những hiệu quả mà sáng kiến đem lại.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: dạy thử và đối chứng.

4



2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Môn Tiếng Việt là một môn học rất quan trọng và bao gồm rất nhiều các
phân mơn, vì thế địi hỏi ở người dạy và người học phải hết sức cố gắng. Dạy và
học môn Tiếng Việt trong nhà trường là một hoạt động vô cùng quan trọng. Nó
sẽ quyết định đến chất lượng cũng như quyết định sứ mệnh của nhà trường vậy.
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt là một việc làm thường
xuyên và không thể thiếu được của người giáo viên.
Bên cạnh việc học tập của các em thì vấn đề dạy học của giáo viên cũng
vơ cùng quan trọng. Cô sẽ là người quyết định chất lượng của các tiết học.Tiết
học ấy có thành cơng hay khơng? Vì sao học sinh tiếp thu bài chậm? Vì sao khi
làm văn vẫn dùng tiếng địa phương? Vì sao câu văn dùng từ cịn tối nghĩa chưa
trơi chảy? Vì sao bố cục đoạn văn chưa rõ ràng, chưa có câu mở đoạn và câu kết
thúc đoạn văn? Vì sao học sinh chưa làm bài xong?... Cơ giáo có biết khơng? Cơ
có trăn trở với những gì cịn tồn tại trong tiết học? Hay cơ đã bằng lịng với chất
lượng của lớp mình vì dù sao đã hơn hẳn các lớp bên? Dù sao đã tiến bộ hơn
hôm trước một chút? Cơ có thấy trách nhiệm nặng nề của mình đối với ngành
hay chỉ là hình thức đối phó? Ngồi ra đối với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi Tiểu
học các em rất hiếu động, luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý
nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng (nghĩ cái gì thì
viết và nói cái ấy), nói tiếng địa phương thì cũng viết tiếng địa phương ... Tất cả,
tất cả những vấn đề vừa đặt ra đều là khó khăn cần phải giải quyết.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Mấy năm gần đây, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo, các
nhà trường đã đổi mới phương pháp dạy học rất nhiều và đương nhiên là chất
lượng học tập của học sinh cũng được tăng lên rõ rệt đặc biệt là ở địa bàn Thành
phố và các huyện lân cận. Song một điều mà hiển nhiên ai trong chúng ta cũng
thấy nhưng mà lại chưa có một biện pháp khắc phục nào đó là phương pháp dạy
cho các vùng miền. Đặc biệt là môn Tiếng Việt. Ở mỗi một vùng miền khác
nhau, đối tượng học sinh tiếp thu bài khác nhau, các giáo viên cũng truyền thụ

kiến thức khác nhau tới các em học sinh. Mỗi một người đều có sự nhìn nhận
khác nhau và đánh giá cũng rất khác nhau. Tất nhiên là tùy thuộc vào từng vùng
miền mà ta có sự du di nhất định. Nhưng khơng phải là xem nhẹ, bng lõng sẽ
thiếu đi tính khách quan, độ chính xác của mặt bằng trong tỉnh. Từ miền xuôi
cho đến miền núi, từ vùng nông thôn cho đến vùng biển… Mỗi một vùng miền
cách dùng tiếng địa phương của mỗi học sinh đều khác nhau, đều mang âm
hưởng của vùng miền đó. Việc dạy cho học sinh nói đúng, viết đúng và sử dụng
từ ngữ, câu văn đúng cũng là điều khó, huống hồ là giáo viên lại còn phát âm
sai. Mặt khác, giáo viên cảm thụ bài văn chưa tốt hay đọc một bài tập đọc chưa
diễn cảm, hoặc kể một câu chuyện chưa hấp dẫn, viết một đoạn, bài văn mẫu
chưa hay… thì sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng học tập của học sinh?
Chưa nói là giáo viên mà phát âm chưa chuẩn thì dẫn đến đánh giá chất lượng
học tập của học sinh cũng thiếu đi sự chính xác. Là một giáo viên thấy những
điều bất cập mà không nghiên cứu, khơng tìm giải pháp khắc phục là một điều
5


sai lầm. Biết đâu từ những giải pháp nho nhỏ mà mình đưa ra lại mang lại một
thành cơng lớn trong việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học
sinh, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường. Với
những gì đang diễn ra trong thực tế ở một số địa phương trong thành phố, trong
tỉnh, và đặc biệt là trong trường tôi đã thực sự đổi mới về phương pháp dạy học
mơn Tiếng Việt.Nhưng vẫn cịn xem nhẹ những lỗi sai về tiếng địa phương, mặc
dù đã nâng cao công tác tự học tự bồi dưỡng, đã coi trọng công tác bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao tay nghề của mình… Nhưng vẫn dẫn đến
chất lượng học mơn Tiếng Việt chưa cao so với điều kiện thuận lợi của nhà
trường. Từ tình hình thực tiễn đó, tơi đã trăn trở, suy nghĩ và nghiên cứu tìm ra
Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn Tập làm văn ở lớp 3. Chính vì thế tơi
mạnh dạn chọn đề tài này là một vấn đề hồn tồn hợp lí. Trong đề tài có đưa ra
một số giải pháp, mặc dù những giải pháp đó chưa được sắc bén, chưa được táo

bạo. Song dù sao cũng đã góp được một phần nào vào việc nâng cao chất lượng
dạy và học trong trường chúng tơi. Mong rằng cũng sẽ góp được một phần nào
cho việc nâng cao chất lượng ở các trường bạn trong địa bàn thành phố nói riêng
và các trường trong địa bàn tỉnh nói chung. Trong những năm tới và cũng là bài
học kinh nghiệm cho những người giáo viên như chúng tơi.
Qua tìm hiểu tài liệu, sách báo, qua dự giờ thăm lớp và trực tiếp giảng dạy
lớp 3, tôi nhận thấy rằng đa số học sinh về khả năng học phân môn tập làm văn
của các em là quá kém. Học sinh không biết làm một bài văn hồn chỉnh, khơng
biết dùng từ đặt câu, trong q trình làm bài văn khơng biết dùng các biện pháp
tu từ so sánh, nhân hóa, cả biện pháp liên tưởng vào làm các bài văn kể.Trong
cách làm bài của học sinh không sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn mặc
dù kiến thức này đã được học ở lớp 2 ( trong phần gợi ý các bài văn). Các câu
trong đoạn văn hay cả bài văn khơng có sự liên kết chặt chẽ, khơng theo một
trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài văn của học sinh thường bị lộn xộn,kể lể
lung tung, không theo một thể thống nhất.
Tìm hiểu trên địa bàn thành phố, nhà trường và lớp chủ nhiệm tôi nhận
thấy một số thuận lợi và khó khăn như sau :
*Thuận lợi
- Hiện nay ngành Giáo dục – Vụ Giáo dục Tiểu học đã phát triển chương trình
dạy học mới – nội dung mới, phương pháp mới phù hợp với mục tiêu giáo dục
và sự phát triển của đất nước.
- Chương trình này đang được các trường Tiểu học trong cả nước triển khai một
cách đồng bộ và thống nhất.
- Giáo viên đã được tập huấn, học chuyên đề một cách tốt nhất. Vì vậy, họ chủ
động tiếp thu chương trình mới, phương pháp dạy học mới, nâng cao việc tổ
chức hướng dẫn cho học sinh tiếp cận và lĩnh hội tri thức mới.
- Còn về học sinh thì đã phát huy được tính tích cực học tập sáng tạo. Học sinh
là người lĩnh hội tri thức dựa trên chỉ đạo của giáo viên. Vì vậy các em rất phấn
khởi, rất chủ động và thấy hấp dẫn trong học tập.
- Phụ huynh học sinh họ vô cùng tin tưởng vào chương trình mới giúp họ tạo

điều kiện cho con cái học tập tốt hơn.
6


- Học sinh lớp 3 lớn hơn so với lớp học sinh lớp 1, lớp 2 nên nhận thức tốt hơn,
có khả năng tưởng tượng phong phú hơn, biết nhìn nhận và thâu tóm những hình
ảnh vào tri thức và nhớ có hệ thống hơn so với các em lớp dưới. Gần như đa số
các em đã biết sử dụng từ đặt câu, viết như thế nào cho trọn vẹn ý, các em lĩnh
hội nhanh và biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào bài tập làm văn của
mình.
- Giáo viên được học bồi dưỡng thường xuyên về phân môn Tập làm văn qua
các đợt học chuyên môn, chuyên đề, được dự giờ thăm lớp để học hỏi qua đồng
nghiệp, được Ban giám hiệu trường tổ chức thao giảng, chuyên đề để rút ra kinh
nghiệm cho bản thân.
* Khó khăn
* Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó chúng ta cũng gặp khơng ít khó
khăn mà chúng ta cần khắc phục đó là:
- Đội ngũ giáo viên về chun mơn khơng đồng đều. Có một số giáo viên đã trải
qua thời kì đào tạo chuẩn. Ở một số trường do thiếu giáo viên nên tuyển dụng
giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn. Vì vậy việc tiếp thu chuyên đề mới này rất
khó khăn, cả về tri thức cũng như kĩ năng thao tác.
Bên cạnh đó là do đã nhiều năm dạy chương trình cũ, kĩ năng, phương
pháp và cách thức dạy đã hằn sâu vào mỗi giáo viên. Thay vào đó là chương
trình mới “Lấy học sinh làm trung tâm” thì khơng ít giáo viên chưa chịu đầu tư
vào nghiên cứu tài liệu, chưa nắm rõ quy trình dạy theo hướng đổi mới mà
thường lẫn lộn giữa cũ và mới. Mặt khác giáo viên còn phụ thuộc quá nhiều vào
tài liệu hướng dẫn như sách giáo viên, thiết kế bài giảng và chỉ cung cấp kiến
thức mới chưa đi sâu vào vấn đề phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh
Tiểu học.
Song bên cạnh đó, có một số giáo viên là dạy theo hướng đổi mới nhưng

thực chất họ vẫn truyền thụ lí thuyết (dạy nói nhiều) giáo viên giảng theo cái có
sẵn và làm việc một cách máy móc. Chưa thực sự chú ý đến phát huy kĩ năng
sáng tạo cho học sinh, làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Chủ yếu
nghe giáo viên giảng và ghi nhớ một cách máy móc (học vẹt) và thực hiện làm
theo mẫu. Chính vì thế nên học sinh ít có hứng thú học tập bởi các hình thức học
tập nghèo nàn, đơn điệu. Năng lực vốn có, kĩ năng tư duy của học sinh ít được
phát huy, ít có cơ hội thể hiện. Từ đó, giáo viên trở thành người duy nhất đánh
giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh khơng có điều kiện để tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau. Tiêu chuẩn để đánh giá của giáo viên là: Là kết quả ghi nhớ
tái hiện những điều mà giáo viên đã giảng. Cách dạy như vậy đã làm hạn chế rất
nhiều đến sự phát triển của học sinh, hạn chế về đào tạo ra những con người có
tính năng động, sáng tạo, tự tin trong cuộc sống. Khó thích ứng với mơi trường
hoạt động thay đổi. Vì vậy ngành Giáo dục đã và đang đổi mới phương pháp dạy
học để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng kịp thời và cách tốt nhất
cùng với đất nước tiến lên “Cơng nghiệp hố – Hiện đại hố đất nước”.
Hiện nay, chúng ta đang có xu hướng nâng cao dần, nâng cao mãi kết quả
bài làm văn của học sinh. Nghĩa là chúng ta đang hướng tới những bài văn hay
của học sinh trong khi việc dạy của thầy, cô giáo lại chưa đạt được yêu cầu
7


hướng dẫn, dìu dắt người học từng bước. Chấm bài thì dễ dàng tìm ra sai sót
nhưng làm sao cho học sinh khỏi sai sót thì nhiều khi phần lớn chúng ta lại
không chỉ ra được một cách đầy đủ đúng hướng cho học sinh.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh
khơng đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 3, tôi nhận thấy học sinh học
yếu Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
+ Nguyên nhân về phía cha mẹ học sinh.
- Một nét tâm lý khá phổ biến của cha mẹ học sinh là muốn cho con học thêm về
tốn, về các mơn tự nhiên, rất ít cha mẹ muốn cho con học làm văn nếu khơng

có u cầu của giáo viên.
- Cha mẹ học sinh cũng còn nhược điểm là ít mua sách phân mơn Tập làm văn
cho các em đọc, thường chiều theo ý thích của con. Hiếm thấy những gia đình
xây dựng cho con tủ sách phục vụ tốt cho việc học phân môn Tập làm văn ở
Tiểu học.
- Một điều đáng nói nữa đó là văn hóa đọc trong xã hội của chúng ta đang bị mai
một đi, phụ huynh ít người quan tâm đến việc đọc sách của bản thân cũng như
của con em mình.
* Thực trạng học của học sinh :
Cân đối với học sinh do quá trình học tập và làm văn dựa theo văn mẫu quá
nhiều vì thế học sinh thường có những lỗi sai cơ bản như:
- Bài viết của học sinh cịn mắc nhiều lỗi chính tả.
- Có những bài văn các em viết y nguyên văn mẫu : Khi kể về một người mà em
yêu quý.
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần kể.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều
em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khn sáo, quan sát người cịn hời hợt.
- Các em đều biết phần gợi ý của một đoạn văn có phần:Mở đoạn, thân đoạn và
kết đoạn. Nhưng viết từng phần như thế nào thì lại lúng túng.
- Một số em viết đoạn văn có đủ nội dung nhưng chưa phân biệt rõ bố cục thành
3 phần cụ thể.
- Bài văn kể nhưng chỉ mang tính chất kể lại theo cảm nhận của các em.
- Chưa biết sáng tạo, chưa nắm được cách dùng các biện pháp so sánh, nhân hóa
trong bài văn của mình.
- Dùng nhiều từ ngữ địa phương trong bài tập làm văn.
+ Nguyên nhân của thực trạng học :
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
- Khi quan sát thì các em khơng được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát

những gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối
tượng cần miêu tả.
- Khơng biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi
quan sát.
8


- Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc,
chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình về một sự vật, cảnh
vật, về một con người cụ thể nào đó.
- Bản chất của làm văn khơng phải là sự bắt chước máy móc, bắt chước mãi,
khơng cịn gì là của riêng mình thì sẽ trở thành người máy. Một lớp tồn người
máy thì khơng cịn là lớp học. Lớp mà như vậy thì việc dạy và học đã đi chệch
con đường “Dạy tốt, học tốt”.
- Được học như vậy, được đọc như vậy, học sinh càng thấy mơn Tiếng Việt nói
chung, phân mơn Tập làm văn nói riêng là lĩnh vực khơng thể nào chiếm lĩnh
được. Có chăng, chỉ một tỉ lệ phần trăm ít ỏi là có may mắn học giỏi mơn này
mà thơi.
* Thực trạng dạy của giáo viên :
- Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở
thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên Tiểu học. Ý nghĩ cho
rằng Tập làm văn là một phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã
là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 3.
+ Nguyên nhân của thực trạng dạy :
- Phân môn Tập làm văn là một mơn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng
lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 2, lớp 3) chưa có cách phát huy tối
đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho
các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận
ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy
hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.

Qua khảo sát thực tế về kĩ năng làm văn của học sinh lớp 3A4 (Trong
môn Tiếng Việt) (đầu năm học 2021 – 2022) kết quả thu được rất thấp:
Điểm
Lớp

3A4

Tổng
số
43

Hồn thành tốt
SL
(Em)
8

TL
(%)
18,6

Hồn thành
SL
(Em)
33

TL
(%)
76,8

Chưa hồn

thành
SL
TL
(Em)
(%)
2
4,6

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tỉ lệ chưa hoàn thành của mơn Tiếng Việt
(phân mơn TLV) tuy cịn ít nhưng số học sinh đạt hồn thành tốt thì khơng cao.
Đây chính là một nỗi lo vơ cùng lớn của một giáo viên đứng lớp như tôi. Trường
đạt chuẩn giai đoạn 2 mà chất lượng môn Tiếng Việt (phân môn TLV) thấp
(không đảm bảo theo quy định của chuẩn II đặc biệt là số lượng đạt hồn thành
tốt thì rất là nan giải trong công tác dạy học.
2.3. Các biện pháp rèn kĩ năng học tốt phân môn Tập làm văn
2.3.1.Xác địng rõ vị trí, vai trị, nội dung, chương trình của phân mơn Tập
làm văn:
* Vị trí, vai trị của phân môn:
9


Tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là rèn kĩ năng sản sinh ngơn bản nói và
viết. Khơng học tốt tập làm văn, khả năng nói và viết ngơn bản của học sinh sẽ
bị hạn chế. Vì tập làm văn được thừa hưởng và cần phải tận dụng vốn từ vựng,
nghệ thuật dùng từ, đặt câu … mà học sinh thu nhận được từ các bài tập đọc, kể
chuyện, …khơng những thế, học sinh cịn được học cách dùng tính từ, động từ,
học được cách dùng các phép so sánh, nhân hóa.., để chắp thêm cánh cho trí
tưởng tượng, liên tưởng… khi làm các bài văn tả cảnh trong chương trình tập
làm văn. Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển, miêu tả là “Lấy nét vẽ hoặc
câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra”. [6] Trong văn miêu tả, người

ta không đưa ra những lời nhận xét chung chung, những lời đánh giá trừu tượng
về sự vật như: cái cặp này cũ, cái bàn này hỏng… Mà văn miêu tả vẽ ra các sự
vật, sự việc, hiện tượng, con người … bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ
thể. Văn miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang xem tận
mắt, sờ tận tay. Tuy nhiên hình ảnh một cánh đồng, một dịng sơng, một con vật,
một con người… do văn miêu tả tạo nên không phải là bức ảnh được chụp lại,
sao chép lại một cách vụng về. Nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế,
những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát cuộc
sống. Vì thế mà văn miêu tả có thể được ví như “hịn đá thử vàng” đối với các
tài năng văn học, tạo nên sức hấp dẫn của các tác phẩm văn học. Những sáng tác
(bài văn) đầu tay sẽ như “tiếng chim gọi đàn” đánh thức niềm hứng thú và năng
khiếu văn chương còn ẩn tàng trong những tâm hồn trẻ thơ, khuyến khích các
em bước thêm một bước từ việc học tập môn Tiếng Việt ở nhà trường: không chỉ
tiếp thu cái hay cái đẹp của tiếng mẹ đẻ, của văn học dân tộc, mà còn bắt đầu từ
chút vốn liếng ấy, các em muốn tự mình “làm ra” những vẻ đẹp của riêng mình.
Nói theo M. Gor-ki thì con người khi sinh ra vốn đã mang phẩm chất nghệ sĩ
trong tâm hồn, chỉ có điều cái vốn ấy có được đánh thức và phát huy hay khơng!
*Nội dung, chương trình của phân mơn: Số lượng bài, tiết theo
dạng
Làm báo cáo thống kê,
luyện tập thuyết trình tranh
Cả năm
Văn kể về
luận, làm đơn, báo cáo
Văn kể chuyện
(Tổng số
người, lễ hội,
hoạt động, lập chương
tiết)
viết thư

trình hoạt động, tập viết
đoạn đối thoại.
35 tiết

27 tiết

4 tiết

4 tiết

Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn kể
sinh động? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương trình,
đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để hướng dẫn cho học
sinh tiếp thu kiến thức. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác
định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với
kiến thức cũ và kiến thức sẽ tìm hiểu tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững
10


những vấn đề sau: Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 3: Cả năm có 35 tiết
trong đó Tập làm văn kể về người, lễ hội, viết thư 27 tiết (chiếm gần 70% số
tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần
cùng với các mơn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm
hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Hướng dẫn học sinh
phân tích ngữ liệu để nắm vững yêu cầu bài tập và làm bài tập thực hành.
Ví dụ về một số dạng bài và cách xác định mục tiêu một số bài văn kể:
- Với bài Hình thành kiến thức mới: Được hướng dẫn theo từng phần nhận
xét một bài văn kể. Đồng thời các em còn được hướng dẫn, nhận xét bài văn kể
khá dài để học sinh rút ra ghi nhớ, rồi tiếp tục vận dụng ghi nhớ để nhận xét cấu
tạo của bài văn kể về người. Đây là một điều rất khó khăn đối với học sinh nói

chung và học sinh địa phương nói riêng vì thời gian ít mà các em phải tìm hiểu
để nắm được nội dung phương pháp kể của các bài văn. Để giải quyết khó khăn
này giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ bài văn, xác định ý chính của từng đoạn.
Khi xác định đúng từng đoạn và ý chính xem như là học sinh đã nắm được cấu
tạo của bài văn đó.
- Với bài Thực hành luyện tập: Được trình bày theo thứ tự hướng dẫn
chuẩn bị, hướng dẫn làm bài, hướng dẫn hoàn chỉnh bài chỉ trong một tiết. Đây
là điều kiện chưa thực sự thuận lợi cho học sinh làm văn kể về người hoặc lễ hội
. Nhưng với học sinh yếu các em lại nhanh quên, không chăm học nên kết quả
làm bài sẽ khó đạt u cầu. Vì học sinh phải hồn thành ngay trong 1 tiết học cả
lý thuyết và thực hành là 35 phút.Giáo viên cần động viên khuyến khích các em
tạo cho mình thói quen tự học kết hợp với sự hỗ trợ của cô và các bạn trong Ban
học tập.
- Với nội dung học kiểu bài tả cảnh đòi hỏi người giáo viên phải nghiên
cứu kĩ phương pháp, mục tiêu từng tiết học sao cho phù hợp với trình độ của học
sinh góp phần phát triển năng lực cho học sinh và tiết học sẽ đạt được kết quả
cao.
Ví dụ về việc xác định mục tiêu (kiến thức và kĩ năng) của văn tả cảnh:
Tiết hình thành kiến thức “Cấu tạo của bài văn tả cảnh”
- Yêu cầu về kiến thức: Nắm được cấu tạo 3 phần (Mở bài, thân bài, kết bài) của
một bài văn tả cảnh.
- Yêu cầu về kĩ năng: Biết phân tích cấu tạo của một bài văn cụ thể.
Tiết dựng đoạn mở bài, kết bài:
-Yêu cầu về kiến thức: Củng cố kiến thức về đoạn mở bài, kết bài trong bài văn.
- Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách viết kiểu mở bài (trực tiếp, gián tiếp) và kết bài
(mở rộng, không mở rộng)
Tiết luyện tập tả cảnh:
- Yêu cầu về kiến thức: Hiểu thế nào là nghệ thuật quan sát và miêu tả?
+ Biết phát hiện những hình ảnh đẹp trong bài văn.
+ Hiểu thêm về cách quan sát và chọn lọc chi tiết trong bài văn, hoàn chỉnh các

đoạn văn dựa theo nội dung chính của mỗi đoạn.
+ Lập dàn ý chi tiết cho bài văn, thông qua các đoạn văn hay học được cách
quan sát khi tả cảnh.
11


+ Biết chuyển một phần của dàn ý thành đoạn.
- Yêu cầu về kĩ năng: Biết lập dàn ý đầy đủ và trình bày dàn ý theo những điều
đã quan sát một cách trôi chảy.
+ Biết chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn miêu tả hoàn chỉnh.
+ Biết ghi lại những quan sát một cách tinh tế thể hiện rõ đối tượng miêu tả,
trình tự miêu tả với những nét nổi bật của người tả.
Tiết kiểm tra viết:
-Yêu cầu về kiến thức: Viết được một đoạn văn, bài văn hồn chỉnh theo đúng
u cầu và hình thức.
- u cầu về kĩ năng: Rèn kĩ năng viết câu văn hay, dùng từ chính xác, giàu hình
ảnh, xác định đúng u cầu đề.
Tiết trả bài:
-Yêu cầu về kiến thức: Học sinh nắm được yêu cầu của bài văn.
- Yêu cầu về kĩ năng: Nhận thức được những ưu, khuyết điểm trong bài của
mình, biết sửa lỗi và viết lại cho hay hơn.
2.3.2. Giúp học sinh xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu
hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết
thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội
dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 3:
“ Kể lại một người hàng xóm mà em yêu quý”
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội

dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
- Yêu cầu về thể loại của đề là: Kể (thể hiện ở từ “Kể”).
- Yêu cầu về nội dung là: Người hàng xóm.
- Yêu cầu về trọng tâm là: Mà em yêu quý.
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu, chỉ có
yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự
xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên
các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
2.3.3. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Kể lại là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy.Tức là lấy câu văn
để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự việc, giúp người đọc như được nhìn tận
mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần
cho học sinh quan sát thiên nhiên, thảo luận nhóm ngồi trời, ghi lại những gì
quan sát được theo trình tự hợp lý :
- Tả theo trình tự khơng gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại).
12


Ví dụ 1: Kể từ xa đến gần:
“ Từ trên bờ sơng nhìn xuống, em thấy ngay một đội thuyền phải đến chục
chiếc, trên thuyền cũng phải đến chục tay đua đang ngồi chờ lệnh xuất phát...”
Ví dụ 2: Tả từ dưới lên trên:
“Dưới lịng sơng có đến chục chiếc thuyền cùng các tay đua đang chờ xuất
phát. Các tay đua mặc những bộ quần áo màu sắc sặc sỡ của đội mình. Hai bên
bờ, khán giả qy kín khúc sơng, tiếng reo hị cổ vũ, tiếng trống nổi lên như

giục giã đồn đua...”
- Tả theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì kể trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì kể
sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn kể về lễ hội hay kể
về người hàng xóm.
Ví dụ 1:
“...Bác Thành năm nay đã ngoài 40 tuổi. Nước da màu bánh mật trông bác
thật khỏe khoắn. Mỗi lần bác cười để lộ đơi hàm răng trắng bóng.Bác hay quan
tâm đến hàng xóm, láng giềng. Ở cơ quan, bác ln tận tụy với cơng việc. Ở gia
đình, bác ln u thương vợ con....”
- Kể theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, kể trước, các bộ phận khác
tả sau. Khi kể về người hoặc hoạt động lễ hội người vận dụng trình tự này nhưng
chỉ nên kể những điểm đặc trưng nhất, không cần phải kể đầy đủ chi tiết như
nhau của đối tượng.
Ngồi ra có thể cho học sinh quan sát qua tranh và thi nói về những điều em
quan sát được từ đó phát huy khả năng quan sát đồng thời luyện kĩ năng nói, kĩ
năng giao tiếp; nói, giao tiếp tốt được thì các em sẽ viết tốt hơn.
2.3.4. Rèn cách nghe và cảm thụ bài văn
* Rèn cho học sinh kĩ năng cảm thụ cái hay của một đoạn văn, một bài văn
- Trước tiên tôi đọc cho học sinh nghe một bài văn thật hay.
- Cho một vài em đọc thật tốt đọc tồn bộ một đoạn thơ hay một bài thơ.
Ví dụ: Đọc bài “ Tiếng ru” hay bài “Vẽ quê hương” [1]
- Tơi lần lượt cho học sinh phân tích bài thơ bằng hệ thống câu hỏi để khai thác
bài.
* Tìm câu mở bài:
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của tác giả?
- Tác giả quan sát cảnh vật ở vị trí nào?
- Tác giả quan sát cảnh vật và kể vào thời điểm nào trong ngày?

- Từ đó tôi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị
trí quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu
được nơi mà mình định kể vào thời điểm nào đó trong ngày.
* Tìm thân bài có mấy ý lớn?
- Xác định trong bài thơ gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn kể những gì?
- Có 2 ý lớn:
+ Kể tên những cảnh vật được tả trong bài thơ.
.
13


+ Cảnh vật quê hương được tả bằng nhiều màu sắc.
+ Xác định câu mở đoạn của từng đoạn
+ Cho học sinh tìm hiểu sự liên kết giữa các câu trong đoạn thơ, sự chuyển ý của
các câu, quá trình miêu tả về khơng gian, thời gian trong bài thơ.
*Tìm câu kết thúc của bài thơ.
Tôi kết luận: Kết thúc vừa tả cảm xúc của mình vừa tạo ra sự truyền cảm cho
người đọc, và kết bài theo kiểu mở rộng khiến người đọc cần phải suy nghĩ về
cảnh mình kể, nơi mình kể.
Giáo viên cần cho học sinh nhận biết được quan trọng là năng lực tư duy
và khả năng cảm thụ văn của các em. Để học sinh được nói lên ý kiến của mình,
được giáo viên ủng hộ các em sẽ tự tin. Nếu thấy suy nghĩ của các chưa đúng,
giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh tranh luận đồng thời giáo viên định hướng để
học sinh tự nhận ra được kết quả đúng cho mình.
2.3.5. Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh.
* Viết đoạn văn:
- Muốn viết được một bài văn hay thì người giáo viên cần hướng và rèn luyện
cho học sinh viết câu, đoạn cho tốt sau đó mới có thể viết được bài văn. Ở đây
học sinh đã được rèn luyện viết câu rất kĩ, kế đó là viết đoạn văn. Chính vì vậy
trong lớp 3 giáo viên chú trọng vào việc viết đoạn văn cho học sinh.

- Khi viết giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng viết được câu mở đoạn cho học sinh,
từcâu mở đoạn mới có thể triển khai viết thành một đoạn văn. Trong đoạn văn
cần chú ý cho học sinh cách tả theo trình tự lo-gic nhất định, tránh tình trạng tả
đi, tả lại một vấn đề.
- Khi viết đoạn văn cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, nhiều học sinh đã
mắc rất nhiều lỗi đó là lỗi lặp từ, lặp ý trong cùng một đoạn văn. Cần nhắc học
sinh khi miêu tả chúng ta cần tả kĩ các chi tiết để tránh tình trạng học sinh mới
viết được 5 đến 7 câu là đã tả xong cảnh vật đó mà khơng cịn biết tả gì nữa. Tức
là học sinh miêu tả một cách rất chung chung đại khái không đi sâu vào nội
dung chi tiết cảnh vật tả.
- Học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu của giáo viên:
- Học sinh viết bài, sau đó cho học sinh đọc bài của mình giáo viên cùng cả lớp
nhận xét về bài làm đó.
- Mỗi lần học sinh viết giáo viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn
trong đoạn văn. Từ câu mở đoạn đó triển khai viết từ câu mở đoạn đó.
Ví dụ: Câu mở đoạn là: “Quê hương em rất đẹp”. Vậy quê em đẹp như thế nào
thì phân tích và miêu tả ra trong các câu tiếp theo. Khi hết đoạn cần có câu kết
đoạn.
* Viết cả bài văn:
- Dựa trên quá trình viết đoạn văn thì học sinh có thể viết được đoạn văn, giáo
viên lưu ý cho học sinh viết đoạn văn có đủ ba phần. Câu mở đoạn bài, thân
đoạn, câu kết đoạn.
+ Phần mở đoạn:
- Để viết một bài văn hoàn chỉnh có ý văn tốt giáo viên rèn cho học sinh cách
mở đoạn. Cũng có thể rèn cho học sinh cách mở bài theo kiểu gián tiếp, hay trực
14


tiếp tùy theo khả năng tiếp thu của học sinh. Nhưng tốt nhất giáo viên nên rèn
cho học sinh viết mở đoạn theo kiểu gián tiếp tức là nói về một việc khác sau đó

đi vào giới thiệu về cảnh vật cần kể.
- Giáo viên cho học sinh tập viết phần mở bài sau đó cho học sinh đọc và các
bạn khác nhận xét bài viết của học sinh xem đã đúng theo chủ đề chưa, mở bài
vậy đã hay chưa. Nếu học sinh viết chưa được giáo viên nên cho học sinh viết
lại, lúc này các bạn viết tốt hơn làm tư vấn cho bạn mình hồn thiện bài viết.
Giáo viên là người cuối cùng đưa ra nhận xét và kết luận.
+ Thân đoạn:
Phần thân đoạn cũng có thể hướng cho học sinh viết thành nhiều đoạn,
mỗi đoạn là một ý khác nhau, kể một cảnh vật và đi kể chi tiết của cảnh vật đó.
- Trong mỗi đoạn khi kể cần chú ý chi học sinh về sử dụng các hình ảnh so sánh,
nhân hóa trong văn kể. Hướng cho học sinh vận dụng các giác quan tham gia
vào việc miêu tả như mắt, mũi, tai, xúc giác,...
- Giáo viên cho học sinh viết phần thân đoạn sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe
rồi nhận xét, đánh giá các ý mà học sinh viết. Những bài đạt chất lượng là những
bài có cách viết trơi chơi chảy, các ý diễn ra một cách tư nhiên. Học sinh biết sử
dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng một cách phù hợp.Giữa các
đoạn cần có câu liên kết tránh làm cho bài văn rời rạc. Bài viết có vận dụng các
giác quan vào việc miêu tả một cách linh hoạt và khoa học. Bài viết phải có hồn
khi đọc bài lên thì hình ảnh phải được hiện lên trước mắt người đọc. Nếuđạt
được như thế thì đó là bài văn thành công.
- Nếu bài viết chưa đạt đạt các ý trên, thì giáo viên phải động viên các em đó
viết lại, có thể tham khảo những bạn có bài văn thành cơng. Nếu như học sinh
viết vẫn chưa được thành cơng lắm thì giáo viên nên đưa ra các hình ảnh, tranh
ảnh minh họa hay một đoạn video về phong cảnh và chỉ dẫn cho học sinh miêu
tả từng bước một. (Về hình ảnh, vidio giáo viên có thể sử dụng dưới dạng trình
chiếu).
+ Kết đoạn:
- Đây cũng là một phần rất quan trọng trong bài văn, nó đóng một phần thành
cơng hay thất bại của bài văn mà mình đã làm.
- Giáo viên nên hướng cho học sinh cách kết đoạn mở rộng, cũng tập cho học

sinh cách kết đoạn mở rộng. Cũng tương tự như phần trên giáo viên nên cố gắng
rèn cho học sinh viết bằng được phần này. Khi học sinh viết tốt thì giáo viên nên
động viên khích lệ tinh thần học sinh.
2.3.6. Rèn kĩ năng diễn đạt, viết câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện
pháp nghệ thuật đã học
Để tiến hành, giáo viên gợi ý cho học sinh trong những khi làm miệng bài
văn, bằng những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
Giáo viên luôn hướng dẫn cho học sinh biết chọn lựa chi tiết, diễn đạt
bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như so sánh,
nhân hóa…trong các thể loại, kiểu bài tập làm văn.
Ví dụ: Dạy bài tập làm văn kể người, tơi hỏi: hình dáng (mái tóc, hàm
răng, nước da,..), tính nết con người có thể tả bằng câu văn có dùng biện pháp so
15


sánh như thế nào? Học sinh diễn đạt thành từng câu văn có sử dụng biện pháp so
sánh như:
- Mái tóc dài mượt mà bng thả, thướt tha như dịng suối.
- Hai hàm răng trắng đều như hai hàng bắp.
- Nước da trắng mịn như trứng gà bóc (nước da ngăm ngăm bánh mật)
- Cô giáo em hiền và dịu dàng như cơ Tấm trong truyện cổ tích.
- Giọng cơ giảng bài ấm áp như vịng tay của mẹ ln che chở cho con (hoặc:
giọng cơ nói êm như lời hát ru của mẹ).
- Mái tóc bà trắng như cước (hoặc: mái tóc ngả sang màu muối tiêu.)
Những câu hỏi gợi ý cách diễn đạt thường được xen vào trong khi học
sinh làm văn miệng. Nếu học sinh chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật thì tơi gợi
ý để các em khác bổ sung, sửa lại bài cho bạn.
Ví dụ: Một em nêu: “Mái tóc đen nhánh ơm lấy khn mặt hồng hào của
cô, thật dễ mến”.
Một học sinh khác sửa lại: “Mái tóc đen nhánh mượt mà như dịng suối

ôm lấy khuôn mặt trái hồng hào của cô, thật dễ mến”.
Trong bài văn tả cảnh sinh hoạt, có em nêu: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa
ra sân trường. Sân trường bỗng trở nên ồn ào, náo nhiệt hẳn lên. Những chiếc áo
trắng, áo màu như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”.
Nội dung như thế là được. Câu văn gọn, đủ ý. Nhưng để sinh động hơn,
học sinh có thể sửa lại: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra như đàn ong vỡ tổ. Sân
trường bỗng trở nên ồn ào. Những chiếc áo trắng, áo hoa, áo màu như những
đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”.
Tương tự trong bài văn kể cảnh đẹp, có em nêu: “Mặt trời nhô lên từ rất
sớm, phương đông lộ rõ ánh hồng, tỏa những tia nắng ấm áp rực rỡ”
Câu văn gọn, đủ ý. Nhưng để làm cho cảnh vật trở nên sống động, có sức
gợi tả, học sinh có thể sửa lại: “Mặt trời lên, phương đơng lộ rõ ánh hồng. Ánh
nắng dịu nhẹ và ấm áp lọt xuống kẽ lá, đánh thức côn trùng đang ngủ say sưa
trong lòng đất. Sương treo trên đầu ngọn cỏ lại càng long lanh hơn và tan dần
theo hơi ấm mặt trời”.
2.3.7. Rèn kĩ năng về bộc lộ cảm xúc trong bài văn:
Bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc
không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu từng đoạn
của bài văn. Vì vậy, tơi đã gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài. Ví
dụ: Sống với bà, em cảm thấy như thế nào? (Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo
như một bà tiên hiền hậu; em muốn mình làm điều gì đó cho bà đỡ vất vả).
- Được bà chăm sóc hằng ngày, em nghĩ gì? (Tình cảm gần gũi thương
yêu của bà như chắp cánh cho tôi vững bước trong cuộc đời).
- Dọn dẹp lớp xong, em có cảm giác gì? (Lớp học sạch sẽ, thật mát mẻ).
- Giờ ra chơi kết thúc, trên khuôn mặt của mọi người thể hiện điều gì?
(Khn mặt ai cũng vui vẻ, rạng rỡ, nhưng nhiều bạn tỏ vẻ luyến tiếc).
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc,
nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kì. Bài văn của học sinh hạn chế
16



được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc, mà thấm đượm cảm xúc của người
viết.
Kết hợp hài hòa cả ba yếu tố: xây dựng nội dung, diễn đạt có sử dụng biện
pháp nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc, bài văn của học sinh sẽ trở nên sinh động,
đạt kết quả cao. Đây là cơ sở, nền móng cho những mầm non văn học trổi dậy
và vươn lên xanh tốt.
2.3.8. Dạy học thu hút học sinh học văn, làm văn bằng những biện pháp hỗ
trợ như cảm thụ văn học:
- Học sinh Tiểu học có đặc điểm tâm lý là thích học say sưa và ngược lại.
Những bài văn được chọn lọc trong SGK hiện nay có nhiều ưu điểm nhưng nhìn
chung cịn người lớn q, chất trẻ con trong bài cịn q ít, mặt khác chất văn
chương trong nhiều bài cũng cịn ít, chúng ta vẫn đang nặng nề nội dung mà còn
coi nhẹ văn chương. Cho nên đọc những bài đó có thể đạt kết quả cao về tinh
thần, tư tưởng nhưng sẽ không cao về tâm hồn nghệ thuật, càng ít kết quả về
sáng tạo, thơng minh, hồn nhiên, ngây thơ.
- Như vậy bài văn thiếu tính hấp dẫn. Học sinh Tiểu học khơng thích
những bài đó. Đó cũng là nguyên nhân dạy tập làm văn khó đạt kết quả cao.
- Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so
sánh hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như
đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
- Tôi chọn dạy thêm những bài văn như trên đây. Đặc biệt chọn những bài
thơ phù hợp với tuổi các em để dạy cảm thụ, dạng viết từ cảm thụ cái đẹp, cái
hay, cái lạ của thơ văn.
* Hoặc cho học sinh cảm thụ thấy được cái hay, sự xúc động và những nét giản
dị của Bác.
Học sinh sẽ cảm thụ, phân tích được cái hay cái đẹp về nghệ thuật miêu tả
của tác giả trong thơ hoặc trong văn.
Qua đó, dần dần các em khơng sợ làm văn nữa mà sẽ yêu thích và viết văn được.
2.3.9. Dạy học thơng qua tích hợp với các phân mơn khác

Trong q trình giảng dạy, việc tích hợp các phân mơn khác chính là sự
hỗ trợ giữa các mơn học ; giữa các phần trong một phân mơn. Ví dụ : tích hợp
đọc, viết, giao tiếp ngơn ngữ nói trong môn Tiếng Việt giúp học sinh phát huy
tốt hơn về kỹ năng làm văn. Tăng cường tích hợp trong nội dung các môn học và
lồng ghép các vấn đề như : mơi trường, biến đổi khí hậu, kỹ năng sống, dân số,
sức khỏe, an tồn giao thơng … mở rộng vốn hiểu biết của học sinh từ đó các
em viết được bài văn sinh động, phong phú, liên hệ mật thiết và gần gũi với đời
sống thực thiễn hơn. Đồng thời qua đó giáo dục cho các em có ý thức với xã hội
và trở thành những cịn người tồn diện hơn.
2.4. Hiệu quả đạt được
Mỗi lần dạy chuyên đề về phân môn Tập làm văn lớp 3, tôi đã nhiều lần
trực tiếp dạy chuyên đề cho khối dự. Khi nhận xét về tiết dạy, được các đồng chí
trong Ban giám hiệu, các đồng chí phụ trách chun mơn, các đồng chí giáo
viên trong khối đánh giá cao về phương pháp giảng dạy, động viên khích lệ tơi
thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên. Đây cũng là nguồn động lực cho tôi nghiên
17


cứu đề tài này. Từ khi áp dụng đề tài tôi thấy rằng chất lượng vượt lên hẳn, học
sinh nhớ bài chắc chắn hơn, hệ thống hơn; ln thích học mỗi khi đến bộ mơn
này. Chính vì vậy mà sau một số năm thực hiện đối với học sinh lớp 3 Trường
Tiểu học Điện Biên 2, tôi đã thấy kĩ năng viết văn của các em học sinh được
nâng lên rõ rệt, kết quả của học sinh rất khả quan và năm sau cao hơn năm
trước, số học sinh đạt hoàn thành tốt tăng lên rõ rệt, cụ thể về kết quả đợt thi
Kiểm tra định kì cuối kì 1 năm học 2021 – 2022 mơn Tiếng Việt như sau:
Điểm
Lớp
3A4

Tổng

số
43

Hồn thành tốt
Sl
35

tl
81, 3

Hoàn thành
sl
13

tl
18,7

Chưa hoàn
thành
Sl
Sl
0
0

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Như chúng ta đã biết, trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã
rất coi trọng sự nghiệp giáo dục. Đảng cho rằng : “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Nền giáo dục có phát triển được hay khơng? Những nhân tài có xuất hiện
được hay khơng chính là nhờ vào sự học tập, rèn luyện của các em học sinh. Mà

chất lượng học tập của các em có tốt hay khơng lại phụ thuộc rất nhiều vào
giảng dạy của các thầy cơ giáo. Vì thế, tơi thiết nghĩ: Nếu khơng có sự sáng tạo,
bứt phá trong cơng tác dạy học, nếu cứ làm việc bình bình như bao người hay
nghĩ thì liệu các giáo viên có phát huy được tính tích cực của mình hay khơng?
Chất lượng học tập của học sinh có được như mong muốn hay không? Trước hết
muốn nâng cao chất lượng dạy và học thì bản thân người giáo viên phải là người
giỏi về chun mơn, là người biết phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo
cơ hội cho học sinh thể hiện mình trong học tập. Vậy người giáo viên cần phải
linh hoạt, tinh tế và nhạy bén, phải biết thay đổi phương thức giảng dạy phải
hiểu được học sinh đang cần mình ở vấn đề gì? Ở phần nào? Và sẵn sàng giúp
đỡ học sinh mọi lúc, mọi nơi.
Với nhận thức đúng đắn và tình yêu văn chương, với lịng nhiệt huyết, say
mê trong nghề nghiệp, tơi đã làm việc theo đúng lương tâm của mình, giúp học
sinh học tập trên lớp: Tìm hiểu học sinh, theo dõi quá trình học tập của các em,
khảo sát chất lượng từng đợt cho các em, tuyên dương khích lệ học sinh trong
học tập, gặp gỡ học sinh trao đổi, kết hợp với các đoàn thể giúp các em học tập.
Qua một thời gian nghiên cứu và thực hiện các biện pháp của mình. Kết quả cho
ta thấy có sự tiến bộ rõ rệt. Chất lượng học sinh ngày một tiến triển. Các em
chăm ngoan, học giỏi, nghe lời thầy cô, ông bà, bố mẹ. Cùng nhau thi đua trong
học tập. Các em khơng cịn ỷ lại như hồi đầu năm nữa…Mặc dù chất lượng đạt
được như vậy nhưng năm nay cũng chỉ là những năm khởi đầu cho đề tài nghiên
cứu của tôi.
18


Năm học 2021 – 2022, tôi đã nhân rộng đề tài này trong nhà trường và đang
được với giáo viên trực tiếp đứng lớp 3 áp dụng vào giảng dạy, kết quả qua các
lần kiểm tra định kì rất khả quan. Hi vọng rằng năm tới đề tài sẽ được thực hiện
ngay từ đầu năm học và sẽ được nhân rộng ra các khối trong nhà trường.Với
những kinh nghiệm ít ỏi của tôi, đề tài mới chỉ là bước đầu nghiên cứu, chắc

chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện đề tài. Rất
mong được sự góp ý chân tình của đồng nghiệp, của cấp trên để đề tài của tơi
được thêm phần hồn thiện.
- Việc tạo hứng thú học tập, u thích phân mơn học Tập làm văn, và rèn kĩ năng
học tốt môn này là một việc tất cả giáo viên khối 3 cần phải kiên trì, bền bỉ,
khơng được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần
nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, khơng phải vài
tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên khơng biết chờ
đợi, nơn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
- Giáo viên cần thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng, đọc sách báo,
truy cập Internet để nắm vững, tìm hiểu thêm về mơn Tập làm văn, các phương
pháp dạy học để rút kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân, từ đó có những kinh
nghiệm hay áp dụng tốt cho việc dạy phân mơn Tập làm văn nói riêng và các
mơn học khác nói chung.
- Nhìn chung trong q trình thực hiện, tuy đã đạt hiệu quả đáng kể song vẫn
khơng tránh khỏi một vài hạn chế. Vì vậy, bản thân tơi rất mong sự góp ý của
các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để trong mỗi tiết dạy phân mơn Tập làm văn
đạt hiệu quả hơn, lí thú hơn nữa đối với cả giáo viên và học sinh.
3.2. Kiến nghị
* Đối với Phòng Giáo dục: Kiến nghị với cấp trên hằng năm mở các lớp
chuyên đề về nghiên cứu, áp dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm để chúng tơi có
cơ hội học hỏi lẫn nhau, tạo điều kiện cho chúng tôi thực hiện tốt các đề tài cho
các năm sau, đặc biệt là môn Tiếng Việt cụ thể là phân mơn Tập làm văn. Mong
muốn phịng Giáo dục mở thêm các lớp tập huấn kinh nghiệm viết và áp dụng
đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
* Đối với nhà trường: Rất mong nhà trường mở nhiều cuộc hội thảo chun
đề dạy và học mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng để
cho các giáo viên được học tập kinh nghiệm lẫn nhau vì giáo viên vẫn cịn nhiều
va vấp trong q trình dạy học. Tổ chức viết và áp dụng SKKN môn Tiếng Việt
(Phân môn Tập làm văn) trong nhà trường. Mở hội thảo về SKKN cấp trường để

cho các giáo viên có cơ hội được học hỏi.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn!

19


XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 23 tháng 3 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT
Luyện Thị Thanh Xuân

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 3 hiện hành của nhà xuất bản
Giáo dục.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
3. Học tốt Tiếng Việt 3 (Tập 1, Tập 2) - Tác giả: Phương Nga
4. Luyện tập cảm thụ văn học ở Tiểu học - của nhà xuất bản Giáo dục. Tác giả:
Trần Mạnh Hưởng.
5. Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 3 – của nhà xuất bản Đại học
Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả: PGS.TS Nguyễn Trí - TS Nguyễn
Trọng Hồn – ThS Giang Khắc Bình – ThS Lê Hồng Mai
6. Hán Việt từ điển – Tác giả: Đào Duy Anh
7. Nghị quyết TW 8 khóa XI của Đảng.

8.Tạp chí thế giới trong ta.
9. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT XẾP TỪ
LOẠI C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Luyện Thị Thanh Xuân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Điện Biên 2

TT

1
2
3

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giáxếp
loại (Phòng, Sở,
Tỉnh …)

Rèn luyện chữ đẹp cho Phịng GD&ĐT
học sinh lớp 3.
Thành phố Thanh
Hóa
Rèn luyện chữ đẹp cho Sở GD& ĐT Tỉnh

học sinh lớp 3.
Thanh Hóa
Rèn cách đọc diễn cảm Sở GD& ĐT Tỉnh
cho học sinh lớp 3
Thanh Hóa

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

A

2015-2016

C

2015– 2016

C

2019-2020

22




×