Sáng kiến kinh nghiệm
Một số biện pháp rèn kĩ năng học
tốt môn tập làm văn ở lớp 5
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Sông Đốc, ngày 09 tháng 03
năm 2013
ĐỀ NGHỊ
CƠNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng xét, cơng nhận sáng kiến: Trần Văn Thời
- Họ và Tên: Bùi Mạnh Hùng
- Đơn vị công tác: Trường tiểu học Nông Trường Sông Đốc.
Đề nghị Hội đồng sáng kiến công nhận sáng kiến năm 2013 như sau:
1. Tên sáng kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM
VĂN Ở LỚP 5
2. Sự cần thiết (lí do nghiên cứu):
Phân mơn Tập làm văn là một mơn có tầm quan trong trong tất cả các mơn học vì chúng
quyết định về nhiều mặt. Trong tất cả các môn học đều phải sử dụng đến hành văn để làm: Lịch
sử, Địa lí, Tốn, Khoa học,… và các phân mơn khác của Tiếng việt, …
3. Nội dung cơ bản của sáng kiến:
a) Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh.
Rèn cách nghe và cảm thụ bài văn.
Rèn kĩ năng cho học sinh cảm thụ cái hay của một đoạn văn hay một bài văn.
Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
Viết đoạn văn:
b) Viết cả bài văn.
c) Kết bài:
4. Phạm vi áp dụng:
Trong năm học này tôi đã áp dụng dạy cho lớp tôi là lớp 5C và có triển khai cho khối 5
trong trường cùng tham gia thực hiện.
5. Hiệu quả đạt được:
Lớp
TSHS
5A
5B
5C
27
28
26
THI KHẢO SÁT ĐẦU NĂM HỌC 2012 – 2013
Giỏi
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%
SL
%
3
11
4
14.8
18
66,6
4
14.2
5
17,8
16
57.1
3
11,5
4
15,3
16
61.5
Yếu
SL
2
3
3
%
7.6
10,9
11,9
THI KHẢO SÁT CUỐI NĂM HỌC 2012 – 2013
Lớp
TSHS
5A
27
Giỏi
SL
10
Khá
%
37
SL
8
%
29,6
Trung bình
SL
%
9
33,4
Yếu
SL
%
T 5B
5C
28
26
11
9
39,2
34,6
9
9
32,1
34,6
8
8
28,7
30,8
Người đăng kí
Bùi Mạnh Hùng
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Sông Đốc, ngày 25 tháng 05 năm 2013
BÁO CÁO
TÓM TẮT NỘI DUNG, HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN
- Tên sáng kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM
VĂN Ở LỚP 5
- Tên người thực hiện: Bùi Mạnh Hùng.
- Thời gian đã được triển khai thực hiện: Từ ngày: 27/8/2012 đến thời điểm này.
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
- Phân môn Tập làm văn là một mơn có tầm quan trong trong tất cả các mơn học vì chúng
quyết định về nhiều mặt. Trong tất cả các môn học đều phải sử dụng đến hành văn để làm: Lịch
sử, Địa lí, Tốn, Khoa học,…
2. Phạm vi triển khai thực hiện
- Trong khối 5.
3. Mơ tả sáng kiến:
Sáng kiến có các phần như sau:
I. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Sự cần thiết để chọn đền tài (Lí do nghiên cứu)
2. Khó khăn và thuận lợi
2.1 Thuận lợi :
2.2 / Khó khăn
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
(Nội dung cơ bản của sáng kiến)
1. Cơ sở để cải tiến sáng kiến.
b) Ở lớp tơi đã dạy và đang dạy, học sinh có những điểm yếu làm văn cụ thể như sau:
2. Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh.
2.1. Rèn cách nghe và cảm thụ bài văn.
2.2. Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
3. Dạy thu hút học sinh học văn, làm văn bằng những biện pháp hỗ trợ như cảm thụ văn
học:
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
1. Hiệu quả đạt được:
2. Bài học kinh nghiệm:
3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
4. Kết quản và hiệu quả mang lại:
THI KHẢO SÁT ĐẦU NĂM HỌC 2012 – 2013
Giỏi
Khá
Trung bình
Lớp TSHS
SL
%
SL
%
SL
%
SL
5A
27
3
11
4
14.8
18
66,6
2
5B
28
4
14.2
5
17,8
16
57.1
3
5C
26
3
11,5
4
15,3
16
61.5
3
THI KHẢO SÁT CUỐI NĂM HỌC 2012 – 2013
Lớp
TSHS
Giỏi
Khá
Yếu
Trung bình
SL
%
9
33,4
8
28,7
8
30,8
%
7.6
10,9
11,9
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
5A
27
10
37
8
29,6
5B
28
11
39,2
9
32,1
5C
26
9
34,6
9
34,6
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
- Nhìn chung tơi cũng đã có rất nhiều cố gắng trong q trình sử dụng sáng kiến của mình để
triển khai thực hiện. Nhưng sáng kiến vẫn cịn nhiều hạn chế, chính vì vậy mà sáng kiến chỉ
được áp dụng ở khối 5 trong trường.
6. Kiến nghị đề xuất:
- Nhà trường cũng như ngành có biện pháp để cho giáo viên, phụ huynh chú trọng cho con
em mình vào phân mơn Tập làm văn (Nhất là trong các lớp dưới) .
Ý kiến xác nhận
của Thủ trưởng đơn vị
Ngày 25 tháng 05 năm 2013
Người báo cáo
Bùi Mạnh Hùng
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG HỌC TỐT MÔN
TẬP LÀM VĂN Ở LỚP 5”
Đề tài thuộc lĩnh vực: Dạy học Tập làm văn
Người thực hiện: Bùi Mạnh Hùng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nông trường Sông Đốc huyện Trần Văn Thời
tỉnh Cà Mau.
Sinh hoạt tổ chuyên môn: Khối 4 + 5
Nhiệm vụ được phân công: Dạy lớp 5A3
I. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ SỰ CẦN THIẾT (Lí do nghiên cứu)
Phân mơn Tập làm văn là một mơn có tầm quan trọng trong tất cả các mơn học vì chúng
quyết định về nhiều mặt. Trong tất cả các môn học đều phải sử dụng đến hành văn để làm: Lịch
sử, Địa lí, Tốn, Chính trị và các phân mơn khác của Tiếng việt, … mơn Tập làn văn nó cịn có
tầm quan trọng cho đến cả sau này khi học sinh không cịn học trong mái trường nữa thì mơn
Tập làm văn vẫn theo là hành trang để đi vào đời cho các em như: học sinh có làm văn tốt thì ăn
nói mới lưu lốt được, muốn có một bài “diễn thuyết” giỏi mang tính thuyết phục thì cũng phải
có hành văn tốt. Vậy có thể nói mơn Tập làm văn có tầm ảnh hưởng rất lớn trong cả một thế hệ
con người. Vậy thì ngay trong nhà trường phải dạy như thế nào để các em có thể lĩnh hội môn
nay một cách tốt nhất, làm sao để phát huy khả năng của học sinh, phát huy ngôn ngữ của học
sinh đó là một vấn đề mà mỗi người giáo viên chúng ta cần phải suy nghĩ dạy như thế nào để có
chất lượng.
Qua vài năm được giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy rằng đa số khả năng học môn tập làm văn
của học sinh là quá kém. Học sinh không biết làm một bài văn hồn chỉnh, khơng biết dùng từ
đặt câu, trong q trình làm bài văn khơng biết dùng các biên pháp tu từ so sánh, nhân hóa cả
biện pháp liên tưởng vào làm các bài văn dạng miêu tả.
Trong cách làm bài của học sinh không sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn mặc dù kiến
thức này đã được học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn hay cả bài văn khơng có sự liên kết chặt
chẽ, khơng theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài văn của học sinh thường ln bị lộn
xộn miêu tả lung tung, không theo một thể thống nhất.
- Hiện nay, chúng ta đang có xu hướng nâng cao dần nâng cao mãi kết quả bài làm văn của
học sinh. Nghĩa là chúng ta đang hướng tới những bài văn hay của học sinh trong khi việc dạy
của thầy, cô giáo lại chưa đạt được yêu cầu hướng dẫn, dìu dắt người học từng bước. Chấm bài
thi dễ dàng tìm ra sai sót nhưng làm sao cho học sinh khỏi sai sót thì nhiều khi phần lớn chúng
ta lại không chỉ ra được một cách đầy đủ đúng hướng cho học sinh.
2. Khó khăn và thuận lợi
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tơi thấy có một số thuận lợi và khó khăn như sau :
2.1 Thuận lợi :
- Học sinh lớp 5 lớn hơn hết so với các lớp dưới nên nhận thức tốt hơn, có khả năng
tưởng tượng phơng phú hơn, biết nhìn nhận và thâu tóm những hình ảnh vào tri thức và nhớ có
hệ thống hơn so với các em lớp dưới. Gần như đa số các em đã biết sử dụng dùng từ đặt câu,
viết như thế nào cho chọn vẹn ý, các em lĩnh hội nhanh và biết sử dụng các biện pháp tu từ để
đưa vào bài tập làm văn của mình.
- Giáo viên được học bồi dưỡng thường xuyên về phân môn Tập làm văn qua các đợt học
chuyên môn, được dự giờ thăm lớp để học hỏi qua đồng nghiệp, được Ban giám hiệu trường tổ
chức thao giảng, chuyên đề để rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
Thực tế qua giảng dạy và kinh nghiệm của bản thân, tôi xin trình bày kinh nghiệm về:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn Tập làm văn ở lớp 5”
2.2 / Khó khăn
a.Ngun nhân về phía người học .
- Bản chất của làm văn không phải la sự bắt trước máy móc, bắt trước mãi, khơng cịn gì
là của riêng mình thì sẽ trở thành người máy. Một lớp tồn người máy thì khơng cịn là lớp học.
Lớp mà như vậy thì việc dạy và học đã đi chệch con dường dạy tốt học tốt.
- Được học như vậy, được đọc như vậy, học sinh càng thấy mơn văn nói chung, mơn tập
làm văn nói riêng là lĩnh vực khơng thể nào chiếm lĩnh được. Có chăng, chỉ một tỉ lệ phần trăm
ít ỏi là có may mắn học giỏi mơn này mà thơi .
b. Ngun nhân về phía cha mẹ học sinh:
- Một nét tâm lý khá phổ biến của cha mẹ học sinh là muốn cho con học thêm về tốn, về
các mơn tự nhiên, rất ít cha mẹ muốn cho con học làm văn nếu khơng có yêu cầu của giáo viên.
- Cha mẹ học sinh cũng cịn nhược điểm là ít mua sách mơn tập làm văn cho các em đọc,
thường chiều theo ý thích của con. Hiếm thấy nhữ gia đình xây dựng cho con tủ sách phục vụ
tốt cho việc học môn văn ở tiểu học.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Nội dung cơ bản của sáng kiến:
1. Cơ sở để cải tiến sáng kiến.
a) Thực ra điều này không mới. Giáo viên nào cũng phải làm. Riêng tơi nghĩ, sau ít nhất
một tháng tơi phải xác định được học sinh tơi dạy có những điều tốt, những điều chưa tốt như
thế nào về làm văn.
Tất nhiên nhận xét kết luận ấy còn phải được bổ xung thường xuyên trong suốt học kỳ,
suốt năm học.
Yêu cầu đặt ra là giáo viên phải hiểu thực sự trình độ người học: Em nào loại giỏi, loại
khá, loại trung bình, loại yếu kém về làm văn của lớp mình (chứ khơng phải lớp khác).
Điều đó làm cơ sở, làm điểm xuất phát cho bài soạn, cho lượng kiến thức, cho phương
pháp dạy mỗi bài.
b) Ở lớp tôi đã dạy và đang dạy, học sinh có những điểm yếu làm văn cụ thể như sau:
- Các em đều biết một bài văn có ba phần:
Mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng viết từng phần như thế nào thì lại lúng túng, tôi giúp các em
bằng cách mỗi dạng bài, chọn một bài văn chuẩn để tập phân tích. Từ đó xác định cho mình có
ý từng phần, diễn đạt từng phần.
Trên đây tơi đã nói ở phần ngun nhân về nhược điểm của sách tham khảo. Hiện nay rất
may mắn, chúng ta đã có cuốn “Tiếng Việt nâng cao lớp 4, lớp 5. Riêng tôi, tôi thấy 2 cuốn
sách đó đúng là sách tốt cho mơn tập làm văn, dạy Tiếng Việt về nội dung, cịn có những điều
bàn bạc nhưng các tác giả đã nêu ra quan điểm đúng đắn.
2. Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh.
2.1. Rèn cách nghe và cảm thụ bài văn.
* Rèn kĩ năng cho học sinh cảm thụ cái hay của một đoạn văn hay một bài văn.
- Trước tiên tôi đọc bài văn thật hay.
- Cho một vài em đọc thật tốt đọc lại tồn bộ đoạn văn. Ví dụ bài văn “Hồng hơn trên
sơng Hương” hay bài “Nắng trưa”
- Tơi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để khai thác bài.
* Tìm câu mở bài:
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của tác giả?
- Tác quan sát cảnh vật ở vị trí nào?
- Tác giả quan sát cảnh vật và tả vào thời điểm nào trong ngày?
- Từ đó tơi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị trí quan
sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu được nơi mà mình định tả
vào thời điểm nào đó trong ngày.
* Tìm thân bài có mấy ý lớn?
- Xác định trong phần thân bài gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả những gì.
- 2 ý lớn: + Cảnh sắc lúc hồng hơn bng xuống.
+ Cảnh sắc lúc con người hoạt động lúc trời tối hẳn trên bờ và dưỡi mặt nước
của dịng sơng.
+ Xác định câu mở đoạn của từng đoạn
+ Cho học sinh tìm hiểu sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn, sự chuyển ý của các câu,
q trình miêu tả về khơng gian, thời gian trong bài văn.
* Tìm câu kết thúc bài văn:
Tôi kết luận: Kết thúc vừa tả cảm xúc của mình vừa gây ra truyền cảm cho người đọc, và
kết bài theo kiểu mở rộng khiến người đọc cần phải suy nghĩ về cảnh mình tả, nơi mình tả.
2.2. Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
a. Viết đoạn văn:
- Muốn viết được một bài văn hay thì người giáo viên cần hướng và rèn luyện cho học
sinh viết câu, đoạn cho tốt sau đó mới có thể viết được bài văn. Ở đây học sinh đã được rèn
luyện viết câu rất kĩ, kế đó là viết đoạn văn. Chính vì vậy trong lớp 5 giáo viên chú trọng vào
viết đoạn văn cho học sinh.
- Khi viết giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng viết được câu mở đoạn cho học sinh, từ câu mở
đoạn mới có thể triển khai viết thành một đoạn văn. Trong đoạn văn cần chú ý cho học sinh
cách tả theo trình tự lơ gic nhất định, tránh tình trạng tả đi tả lại chỉ một vấn đề.
- Khi viết đoạn văn cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, nhiều học sinh đã mắc rất
nhiều lỗi đó là lỗi lặp từ, lặp ý trong cùng một đoạn văn. Cần nhắc học sinh khi miêu tả chúng
ta cần tả kĩ các chi tiết để tránh tình trạng học sinh mới viết được 5 đến 7 câu là đã tả xong cảnh
vật đó mà khơng cịn biết tả gì nữa. Tức là học sinh miêu tả một cách rất chung chung đại khái
không đi sâu vào nội dung chi tiết cảnh vật tả.
- Học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu của giáo viên:
- Học sinh viết bài, sau đó cho học sinh đọc bài của mình giáo viên cùng cả lớp nhận xét
về bài làm đó.
- Mỗi lần học sinh viết giáo viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn trong
đoạn văn. Từ câu mở đoạn đó triển khai viết từ câu mở đoạn đó. Ví dụ: Câu mở đoạn là: “Q
hương em rất đẹp.” Vậy quê em đẹp như thế nào thì phân tích và miêu tả ra trong các câu tiếp
theo. Khi hết đoạn cần có câu kết đoạn.
b. Viết cả bài văn.
- Dựa trên quá trình viết đoạn văn thì học sinh có thể viết được cả bài văn, giáo viên lưu ý
cho học sinh viết bài văn có đủ ba phần. Mở bài, thân bài, kết bài.
* Phần mở bài:
- Để viết một bài văn hồn chỉnh có ý văn tốt giáo viên rèn cho học sinh cách mở bài.
Cũng có thể rèn cho học sinh cách mở bài theo kiểu dán tiếp, hay trực tiếp tùy theo khả năng
tiếp thu làm việc của học sinh. Nhưng tốt nhất giáo viên nên rèn cho học sinh viết mở bài theo
kiểu dán tiếp tức là tả vòng vo loanh quanh sau đó đi vào ý chính cần tả.
- Giáo viên cho học sinh tập viết phần mở bài sau đó cho học sinh đọc và các bạn khác
nhận xét bài viết của học sinh xem đã đúng theo chủ đề chưa, mở bài vậy đã hay chưa. Nếu học
sinh viết chưa được giáo viên nên cho học sinh viết lại, lúc này các bạn viết tốt hơn làm tư vấn
cho bạn mình hồn thiện bài viết. Giáo viên là người cuối cùng đưa ra nhận xét và kết luận.
* Thân bài:
Phần thân bài cũng có thể hướng cho học sinh viết thành nhiều đoạn, mỗi đoạn là một ý
khác nhau, tả một cảnh vật và đi chi tiết của canh vật đó.
- Trong mỗi đoạn khi miêu tả cần chú ý chi học sinh về sử dụng các hình ảnh so sánh,
nhân hóa trong văn miêu tả. Hướng cho học sinh vận dụng các giác quan tham gia vào việc
miêu tả như mắt, mũi, tai, xúc giác, …
- Giáo viên cho học sinh viết phần thân bài sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe rồi nhận xét,
đánh giá các ý mà học sinh viết. Những bài đạt chất lượng là những bài có cách viết trơi chơi
chảy, các ý diễn ra một cách tư nhiên. Học sinh biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa,
liên tưởng một cách phù hợp. Bài viết có vận dụng các giác quan vào việc miêu tả một cách linh
hoạt và khoa học. Bài viết phải có hồn khi đọc bài lên thì hình ảnh phải được hiện lên trước mắt
người đọc. Nếu đạt được như thế thì đó là bài văn thành công.
- Nếu bài viết chưa đạt đạt các ý trên, thì giáo viên phải động viên các em đó viết lại, có
thể tham khảo những bạn có bài văn thành công. Nếu như học sinh viết vẫn chưa được thành
công lắm thì giáo viên nên đưa ra các hình ảnh, tranh ảnh minh họa hay một đoạn video về
phong cảnh và chỉ dẫn cho học sinh miêu tả từng bước một. (Về hình ảnh, video giáo viên có
thể sử dụng trình chiếu).
* Kết bài:
- Đây cũng là một phần rất quan trọng trong bài văn, nó đóng một phần thành công hay
thất bại của bài văn mà minh đã làm.
- Giáo viên nên hướng cho học sinh cách kết bài mở rộng, cũng tập cho học sinh cách kết
bài mở rộng. Cũng tương tự như phần trên giáo viên nên cố gắng rèn cho học sinh viết bằng
được phần này. Khi học sinh viết tốt thì giáo viên nên động viên khích lệ tinh thần học sinh.
3. Dạy thu hút học sinh học văn, làm văn bằng những biện pháp hỗ trợ như cảm thụ
văn học:
a. Học sinh tiểu học có đặc điểm tâm lý là thích học say sưa và ngược lại.
Những bài văn được chọn lọc trong SGK hiện nay có nhiều ưu điểm nhưng nhìn chung
cịn người lớn q, chất trẻ con trong bài cịn q ít, mặt khác chất văn chương trong nhiều bài
cũng cịn ít, chúng ta vẫn đang nặng nề nội dung mà còn coi nhẹ văn chương. Cho nên học
những bài đó có thể đạt kết quả cao về tinh thần, tư tưởng nhưng sẽ khơng cao về tâm hồn nghệ
thuật, càng ít kết quả về sáng tạo, thông minh hồn nhiên ngây thơ.
b. Như vậy bài văn thiếu tính hấp dẫn. Học sinh tiểu học khơng thích những bài đó. Đó
cũng là nguyên nhân dạy làm văn khó đạt kết quả cao.
c. Tôi chọn dạy thêm những bài văn như trên đây. Đặc biệt chọn những bài thơ phù hợp
với tuổi các em để dạy cảm thụ, dạng viết từ cảm thụ cái đẹp, cái hay, cái lạ của thơ văn.
* Hoặc cho học sinh cảm thụ thấy được cái hay, sự xúc động và những nét giản dị của
Bác.
Học sinh xẽ cảm thụ, phân tích được cái hay cái đẹp về nghệ thuật miêu tả của tác giả
trong thơ hoặc trong văn.
Qua đó, dần dần các em khơng sợ làm văn nữa, yêu thích và viết văn được.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
1. Hiệu quả đạt được:
- Từ khi áp dụng sáng kiến thì thấy rằng chất lượng vượt lên hẳn, học sinh nhớ bài chắc
chắn hơn, hệ thống hơn; ln thích học mỗi khi đến bộ mơn này. Chính vì vậy mà sau một năm
thực hiện sáng kiến kết quả đạt được như sau:
THI KHẢO SÁT ĐẦU NĂM HỌC 2012 – 2013
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp
TSHS
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A
27
3
11
4
14.8
18
66,6
2
7.6
5B
28
4
14.2
5
17,8
16
57.1
3
10,9
5C
26
3
11,5
4
15,3
16
61.5
3
11,9
THI KHẢO SÁT CUỐI NĂM HỌC 2012 – 2013
Lớp
TSHS
Giỏi
SL
Khá
%
SL
%
Trung bình
SL
%
Yếu
SL
%
T 5A
5B
5C
27
28
26
10
11
9
37
39,2
34,6
8
9
9
29,6
32,1
34,6
9
8
8
33,4
28,7
30,8
2. Bài học kinh nghiệm:
-Việc tạo hứng thú học tập, u thích mơn học Tập làm văn, và rèn kĩ năng học tốt môn
này là một việc tất cả giáo viên khối 4 + 5 cần phải kiên trì, bền bỉ, khơng được nóng vội. Bởi vì
có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn
ra rất chậm, khơng phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không
biết chờ đợi, nơn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
- Giáo viên cần thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng, đọc sách báo, truy cập
Internet để nắm vững, để tìm hiểu thêm về môn Tập làm văn, các phương pháp dạy học để rút
kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân từ đó có những kinh nghiệm hay áp dụng tốt cho việc dạy
phân mơn Tập làm văn nói riêng và các mơn học khác nói chung.
- Nhìn chung trong q trình thực hiện, tuy đã đạt hiệu quả đáng kể song vẫn khơng tránh
khỏi một vài hạn chế. Cũng chính vì vậy bản thân tơi rất mong sự đóng góp của các cấp lãnh
đạo và đồng nghiệp để trong mỗi tiết dạy môn Tập làm văn đạt hiệu quả hơn, lí thú hơn nữa đối
với cả giáo viên và học sinh. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn.
3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Đề tài này đã được áp dụng từ đầu năm học 2012-2013 cho học sinh lớp 5. Qua kiểm tra
đánh giá, lãnh đạo nhà trường đồng ý cho triển khai áp dụng trong toàn khối 5 cho đến nay, đạt
kết quả tốt trong năm học 2012 - 2013.
Mặc dù đã cố gắng nhưng do điều kiện công tác ở vùng sâu, vùng xa, trong quá trình
nghiên cứu và thực hiện khơng tránh khỏi thiếu sót, mong sự góp ý của các cấp lãnh đạo và
đồng nghiệp để đề tài này hoàn thiện hơn, được áp dụng rộng rãi hơn, góp phần vào việc nâng
cao hiệu quả giờ dạy môn này ở tiểu học, giúp các em học sinh học tốt phân môn Tập làm văn.
Sông Đốc, ngày 25 tháng 5 năm
2013
Người thực hiện
Bùi Mạnh Hùng