Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

(SKKN 2022) giải pháp dạy học tích hợp liên môn tiếng việt với hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần nâng cao hiệu quả học tập môn tiếng việt cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 43 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH
HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢI PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MƠN TIẾNG VIỆT
VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGỒI GIỜ LÊN LỚP GĨP
PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP MÔN TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Lê Phương Thảo
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi
SKKN thuộc lĩnh vực (Mơn): Tiếng Việt

THANH HĨA, NĂM 2022
1


MỤC LỤC
1. Mở đầu.......................................................................................................................................
1.1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................................
1.2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................................................
1.3 Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................................
1.4.Phương pháp nghiên cứu........................................................................................................
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm................................................................................................
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm................................................................................
2.1.1.Dạy học tích hợp liên mơn là gì?..........................................................................................
2.1.2.Hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp là gì?.........................................................................


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...............................................
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề......................................................................
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường................................................................................................................................
3. Kết luận, kiến nghị....................................................................................................................
3.1. Kết luận.................................................................................................................................
3.2.Kiến nghị.................................................................................................................................
3.2.1.Đối với Sở, phòng GD&ĐT...................................................................................................
3.2.2.Đối với nhà trường, đồng nghiệp.......................................................................................

2


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được coi là nhiệm vụ ưu
tiên hàng đầu đối với giáo dục trong giai đoạn hiện nay.Việc đổi mới tư duy giáo
dục trong thời đại tri thức nhằm đáp ứng sự thay đổi của cuộc sống phát triển
không ngừng là tất yếu. Những thay đổi của giáo dục đã đặt ra những yêu cầu
mới đối với người đối với người thầy, đòi hỏi người thầy phải có những vai trị
mới trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học
là việc làm quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong đó,
dạy học theo hướng tích hợp liên mơn đáp ứng u cầu của mục tiêu dạy học
phát triển năng lực học sinh và yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn đang được Bộ GD - ĐT đánh giá cao. Tích hợp
liên mơn trong dạy học nói chung và dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học là tất yếu và
rất cần thiết.Trong chương trình giảng dạy mơn Tiếng Việt, giáo viên khơng chỉ
cần có sự tích hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của mơn học mà còn kết hợp nội
dung kiến thức, kĩ năng của các mơn học khác có liên quan, các vấn đề trong
thực tiễn đời sống và đặc biệt là các nội dung giáo dục thái độ tư tưởng cho học

sinh một cách linh hoạt, uyển chuyển. Đó là sự vận dụng nội dung ở các lĩnh
vực, các mơn học có liên quan để làm tăng thêm hiệu quả dạy học.
Chương trình giáo dục Tiểu học, học sinh được học nhiều bộ mơn. Giữa các
bộ mơn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một tiết học Tiếng Việt có thể tích hợp
được nhiều bộ mơn khác nhau như: Âm nhạc, Mĩ thuật, Lịch sử, Địa lí, Khoa
học, Tự nhiên và Xã hội…Trong đó dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được coi là chìa khóa thực hiện việc học đi
đơi với hành, học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống
ngay trong lớp, trong trường. Hoạt động giáo dục ngoài giờ là việc tổ chức các
hoạt động giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh, bao gồm hoạt
động ngoại khóa, hoạt động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lịch, giao
lưu văn hóa; hoạt động bảo vệ mơi trường; lao động cơng ích và các hoạt động xã
hội khác. Thơng qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể liên quan
đến nội dung môn học, học sinh sẽ phát huy vai trị cụ thể, tính tích cực, chủ
động, tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được tham gia vào tất cả các khâu
của quá trình hoạt động từ thiết kế, chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả. Hầu
hết học sinh khi được học tập dưới dạng này đều tỏ ra hào hứng, say mê và tràn
đầy năng lượng, ngay cả một số em rất lười học. Rất nhiều em thể hiện rõ năng
lực của mình qua các hoạt động này và đã u thích môn học hơn, tiếp cận kiến
thức một cách chủ động, tích cực. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng học tập
môn học.
Là giáo viên nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 3 tại trường Tiểu học Nguyễn
Văn Trỗi, với đặc trưng môn học và khối lớp phụ trách giảng dạy, trước những
yêu cầu cao của giáo dục trong thời kì đổi mới và một bộ phận khơng nhỏ học
sinh hiện nay nói riêng, học sinh lớp tơi giảng dạy khơng u thích học mơn
Tiếng Việt, bản thân tơi đã có nhiều băn khoăn, trăn trở. Trong khi đó, đến thời
điểm hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này, đồng
1



nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục. Tơi thiết nghĩ
việc tìm tịi, học hỏi để lựa chọn được một biện pháp giảng dạy phù hợp với bản
thân và phù hợp với học sinh, thực tiễn nhà trường, để góp phần nâng cao hiệu
quả học tập mơn Tiếng Việt cho học sinh đó là một u cầu cấp thiết. Những ưu
điểm của biện pháp dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với hoạt động giáo dục
ngồi giờ lên lớp là lí do tơi đã chọn áp dụng biện pháp này vào quá trình giảng
dạy. Với hy vọng và niềm tin đem đến một luồng gió mới đầy sức sống cho môn
học Tiếng Việt ở chương trình Tiểu học nói chung và Tiếng Việt lớp 3 nói riêng.
Sau một thời gian áp dụng, tơi thấy mình thực sự yêu thích bởi biện pháp này rất
phù hợp với một cô giáo trẻ, năng động, đầy nhiệt huyết như tôi và đặc biệt là sự
hứng thú hưởng ứng của các em học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đề xuất các phương pháp giáo dục giúp học sinh lớp 3 tại trường tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi, phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hố nói riêng, học sinh
tiểu học cả nước học tốt hơn mơn Tiếng Việt, góp phần hình thành và phát triển
những năng lực, phẩm chất tốt đẹp đáp ứng những yêu cầu ngày càng của giáo
dục trong thời kì đổi mới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Biện pháp dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với Hoạt động giáo dục
ngồi giờ lên lớp góp phần nâng cao hiệu quả học tập môn Tiếng Việt cho học
sinh lớp 3.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
-Xây dựng phương pháp thống kê toán học trong nghiên cứu.
-Xây dựng và áp dụng thang đo nhận thức.
-Phương pháp điều tra.
-Phương pháp phỏng vấn.
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1.Dạy học tích hợp liên mơn là gì?
Dạy học tích hợp liên mơn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan

đến hai hay nhiều mơn học. "Tích hợp" là nói đến phương pháp và mục tiêu của
hoạt động dạy học cc̣n "liên môn" là đề cập tới nội dung dạy học. Đă dạy học
"tích hợp" thh́ chắc chắn phải dạy kiến thức "liên môn" và ngược lại, để đảm bảo
hiệu quả của dạy liên môn thh́ phải bằng cách và hướng tới mục tiêu tích hợp. Ở
mức độ thấp thh́ dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục
có liên quan vào quá tŕnh dạy học một môn học như: lồng ghép giáo dục đạo
đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới,
biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ mơi
trường, an tồn giao thơng... Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lí các nội dung
kiến thức trong mối liên quan với nhau, bảo đảm cho học sinh vận dụng được
tổng hợp các kiến thức đó một cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học
tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng
một nội dung kiến thức ở các mơn học khác nhau. Chủ đề tích hợp liên mơn là
những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể
2


hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá tŕnh trong tự
nhiên hay xă hội. Ví dụ: Kiến thức Vật lí và Cơng nghệ trong động cơ, máy phát
điện; kiến thức Vật lí và Hóa học trong nguồn điện hóa học; kiến thức Lịch sử
và Địa lí trong chủ quyền biển, đảo; kiến thức Ngữ văn và Giáo dục Công dân
trong giáo dục đạo đức, lối sống… Ưu điểm của việc dạy học theo chủ đề tích
hợp liên mơn Đối với học sinh, trước hết, các chủ đề liên mơn, tích hợp có tính
thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú
học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên mơn, học sinh được tăng
cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các th́nh huống thực tiễn, ít
phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề
tích hợp, liên mơn giúp cho học sinh khơng phải học lại nhiều lần cùng một nội
dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa
khơng có được sự hiểu biết tổng qt cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức

tổng hợp vào thực tiễn. Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do
việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên
khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lư do: Một là,
trong q tŕnh dạy học mơn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy
những kiến thức có liên quan đến các mơn học khác do vậy đă có sự am hiểu về
những kiến thức liên mơn đó; Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay, vai trị của 2 giáo viên khơng cc̣hỉ là người truyền thụ kiến thức mà là
người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và
ngồi lớp học; giáo viên các bộ mơn liên quan có điều kiện và chủ động hơn
trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề
liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên
môn trong mơn học của mình mà cịn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức
và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ mơn
hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên mơn,
tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên
mơn ngay trong q tŕnh đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
2.1.2.Hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp là gì?
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là các hoạt động giáo dục thực tiễn
được tiến hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường. Hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận của quá trình giáo dục được tổ chức
ngồi giờ học các mơn văn hóa ở trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho
hoạt động dạy học. Ở cấp tiểu học, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tập
trung vào khám phá, rèn luyện bản thân, phát triển quan hệ với bạn bè, thầy cô
và người thân trong gia đh́nh. Các hoạt động xă hội và tìm hiểu một số nghề
nghiệp gần gũi với HS cũng được tổ chức thực hiện với nội dung, hình thức phù
hợp với lứa tuổi. Đây cũng được coi là phương pháp thật sự ưu việt cho sự phát
triển năng lực sáng tạo, giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ
năng, giá trị và phẩm chất của bản thân.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, học sinh Tiểu học nói chung và học

sinh lớp 3 ở những lớp tôi đã thực dạy tại Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi
3


bên cạnh những học sinh học tốt môn Tiếng Việt cũng cịn khơng ít em chưa
thực sự hào hứng, chưa xem việc học Tiếng Việt trở thành niềm vui và là mơn
học u thích của mình. Thậm chí một số em tỏ ra khá uể oải, chán nản, thụ
động trong cách tiếp cận môn học và tiếp thu kiến thức. Qua kiểm tra và theo
dõi quá trình học tập của các em tôi nhận thấy các em thường xuyên chưa chuẩn
bị bài trước ở nhà, trong giờ học không tự tin tương tác với giáo viên, tương tác
với bạn trong các hoạt động học tập nhóm. Chỉ có một số ít bạn là tự giác hoàn
thành các nhiệm vụ học tập. Từ đó dẫn đến khơng đạt được kết quả mong muốn
của mơn học đó là: Nhiều học sinh thiếu vốn từ, năng lực quan sát, tưởng tượng,
so sánh còn hạn chế, chưa mạch lạc trong diễn đạt khi nói và viết, gặp nhiều khó
khăn để hồn thành một bài Tập làm văn theo đúng yêu cầu, chưa nói là vận dụng
các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào bài
văn của mình, nhiều em học thuộc văn mẫu, học vẹt…Bên cạnh đó, vẫn cịn số
lượng khơng nhỏ học sinh cịn đọc kém, viết chậm là một trở ngại lớn khi các em
phải tiếp tục tìm hiểu, khám phá những đơn vị kiến thức mới, rộng và khó hơn.
Trong khi đó, mơn học Tiếng Việt là môn học quan trọng ở bậc Tiểu học. Điều đó
được thể hiện ở thời lượng được giảng dạy trong từng khối lớp và là công cụ để
học tập các mơn học khác. Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân đem lại, ngoài
nguyên nhân chủ quan từ phía người học, cũng có những ngun nhân khơng nhỏ
từ phía người dạy và cả những bất cập về thời lượng, nội dung chương trình của
sách giáo khoa Tiếng Việt…Cụ thể kết quả chất lượng môn Tiếng Việt trước khi
tôi áp dụng biện pháp dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp học sinh lớp 3 như sau:
* Chất lượng bộ môn:
Lớp
Sĩ số

Chất lượng môn Tiếng Việt
Điểm 9,10
Điểm 7,8
Điểm 6,7
Điểm dưới 5
3I
41
13 31,8%
20 48,8% 6 14,6%
2 4,8%
3E
48
18 37,5%
25 52,1% 5 10,4%
0 0%
* Thái độ, tình cảm với mơn Tiếng Việt:
Lớp
3I
3E

Sĩ số
41
48

Thái độ, tình cảm đối với mơn Tiếng Việt
u thích
10 24,4%
15 31,2%

Bình thường

20 48,8%
25 52,1%

Khơng thích
11 26,8%
8 16,7%

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Có nhiều hình thức hoạt tố chức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp mà
giáo viên có thể lựa chọn trong q trình giảng dạy như tổ chức trò chơi, tham
quan dã ngoại, sinh hoạt tập thể, hoạt động nhân đạo, hội thi…Mỗi hình thức
hoạt động đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Tơi đã lựa chọn cho mình
những hình thức đơn giản, khơng tốn kém, mất ít thời gian, chi phí, thu hút được
đông nhất học sinh tham gia, phối hợp, liên kết được nhiều lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường như giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu nhà trường, cha
4


mẹ học sinh…nhưng vẫn đem lại hiệu quả cao (đính kèm phụ lục một số
hình thức tổ chức Hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp mà tơi đã vận dụng khi
dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt cho học sinh lớp 3)
2.3.1. Tổ chức các cuộc thi đọc sách theo chủ điểm.
Khi nhận thấy sách là niềm yêu thích đối với học sinh, ngồi những tiết đọc
sách theo quy định tại thư viện nhà trường, tôi và học sinh đã cùng nhau xây
dựng thư viện sách ngay tại lớp học, với rất nhiều đầu sách theo các nội dung
khác nhau. Nguồn sách do các bạn quyên góp từ sách báo đã đọc, đem góp vào
tủ sách của lớp để đổi cho nhau cùng đọc chung vào những giờ ra chơi, trước
giờ đi ngủ buổi trưa trên lớp. Việc xây dựng thư viện sách mini ngay tại lớp học
đã được học sinh nhiệt tình ủng hộ và hình thành thói quen đọc sách, giúp học
sinh lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả, tăng thêm sự hiểu biết để phát triển

một cách tự nhiên, ươm mầm cho ước mơ, khát vọng của tuổi trẻ.
Với từng chủ điểm của từng tuần học trong chương trình Tiếng Việt lớp 3,
tơi ln định hướng cho học sinh tìm đọc những cuốn sách có nội dung tương
ướng, hướng dẫn các em cách đọc sách hiệu quả đó là xác định được mục tiêu
của việc đọc sách và xây dựng cho mình mục tiêu thật nghiêm túc với quyển
sách mà mình lựa chọn. Vì khi đã bỏ thời gian cho nó thì phải thu được những
kiến thức nhất định. Dần dần các em đã biết ghi lại những hiểu biết lĩnh hội từ
sách bằng chính giọng văn và cách suy nghĩ của mình vì thế các em đã khắc sâu
được kiến thức chứ không phải học vẹt.
Một ví dụ cụ thể về cuộc thi đọc sách theo chủ điểm học tập đã được tôi tổ
chức như sau:
Trước khi chuẩn bị dạy tuần 25, 26 với chủ điểm: “Lễ hội”, tôi phát động
cuộc thi đọc sách cùng chủ điểm.
+ Luật chơi: Cả lớp được chia thành 3 đội chơi, tương ứng với 3 tổ học
tập.Nhiệm vụ của mỗi đội chơi là trong một tuần phải tìm đọc các cuốn sách có
nội dung về các lễ hội ở nước ta và ghi chép vào sổ tay nhật kí. Hết thời gian thi,
đội chơi nào tích lũy được nhiều nhất các kiến thức theo yêu cầu, ghi chép cẩn
thận, sạch sẽ, kể lại những hiểu biết của mình về các lễ hội ở nước ta một cách
rõ ràng, tự tin, thuyết phục trước lớp thì đội đó sẽ giành chiến thắng.
+ Phần thưởng của cuộc thi: Đội chiến thắng sẽ được tích điểm vào bảng
vàng thi đua của lớp và mỗi bạn sẽ được cô giáo chủ nhiệm tặng một cuốn sách
hoặc quyển truyện.
Kết quả của cuộc thi ngồi mong đợi của cơ giáo chủ nhiệm, học sinh lĩnh
hội kiến thức về chủ điểm lễ hội một cách chủ động, tích cực nhờ đó mà nội
dung kiến thức của bài Hội vật, Hội đua voi ở Tây Nguyên, Sự tích lễ hội Chử
Đồng Tử, Đi hội chùa Hương… đã được học sinh tiếp thu nhanh, trong giờ học
tương tác tốt, chủ động xung phong phát biểu xây dựng bài, khơng khí lớp học
trở nên vui vẻ.

5



Hình ảnh học sinh đang đọc sách tại lớp học
2.3.2.Tổ chức hoạt động giao lưu học tập.
Giao lưu học tập là một Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được học
sinh yêu thích đem lại nhiều hiệu quả, hiệu quả dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi
trong ý thức học tập của học sinh. Từ kinh nghiệm của bản thân tôi nhận thấy
việc tham gia những tiết dự giờ của đồng nghiệp hay những tiết học chuyên đề
…bản thân tơi đã học hỏi, tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm từ đồng nghiệp.
Từ đó, tơi mạnh dạn đề xuất và xin ý kiến của BGH nhà trường, tổ bộ môn cho
học sinh được trải nghiệm những tiết học của các lớp khác (cùng khối). Khi
được BGH, tổ bộ môn đồng ý, tôi bắt đầu lên kế hoạch và thực hiện. Có nhiều
cách để tơi lựa chọn học sinh của mình tham gia học tập theo hình thức này, có
thể do bản thân giáo viên chọn theo mục đích hoặc cũng có thể do các bạn trong
lớp đề cử, ứng cử, Ví dụ một số bạn trong lớp chữ viết chưa đẹp, chưa đúng
mẫu, tốc độ viết chậm, tiết học Chính tả tơi cử các em sang lớp một cơ giáo cùng
khối có nhiều kinh nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học sinh để cho các em
học trải nghiệm, rồi tôi chọn một số bạn học tốt Tiếng Việt của lớp sang học trải
nghiệm những tiết Tập làm văn, Tập đọc… của các lớp có thành tích học tập cao
của khối… Những bạn được đi học tập trải nghiệm về phải kể lại cho cô giáo và
các bạn trong lớp mình những điều học tập được từ các bạn lớp khác, cô giáo
6


mới…Mỗi một lần đi chỉ một đến hai bạn, cứ lần lượt thay đổi nhau để bạn nào
trong lớp cũng tham gia. Và như vậy cả bầu trời kiến thức đã được mở ra với
học sinh của tôi, các em được thay đổi môi trường học tập, thay đổi cách tiếp
cận kiến thức mà khơng bị gị bó trong phạm vi một lớp học. Niềm vui bừng
sáng trên đôi mắt hồn nhiên, sự mong ngóng, chờ đợi cho những lần học tiếp
theo là động lực để cơ và trị thực hiện tiếp những “dự án” học tập còn ấp ủ!


Học sinh tham gia giao lưu học tập
2.3.3.Tổ chức hoạt động chiến dịch.
Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức không chỉ tác động đến học sinh
mà tới cả các thành viên cộng đồng. Nhờ hoạt động này, học sinh có cơ hội
khẳng định mình, hình thành và phát triển ý thức “Mình vì mọi người, mọi người
vì minh”. Mỗi chiến dịch mang một mang một chủ đề để định hướng cho hoạt
động như: Chiến dịch giờ trái đất, chiến dịch bảo vệ mơi trường, chiến dịch
ngày thứ 7 tình nguyện...Trong đó, việc bảo vệ mơi trường sống đang là vấn đề
cấp thiết đặt ra với tất cả chúng ta, chính vì vậy mỗi người thầy, người cơ với vai
trị và chức năng của mình cần phải định hướng, giáo dục cho các em ý thức bảo
vệ môi trường và cũng bởi vì lẽ đó mà khơng phải ngẫu nhiên chương trình
7


Tiếng Việt lớp 3, tuần 31, 32 lại mang chủ điểm “ngơi nhà chung”. Để tích hợp
được nội dung kiến thức của tuần học với hoạt động trải nghiệm, tôi đã phát
động học sinh tham gia chiến dịch bảo vệ môi trường bằng cách trồng cây xanh
ở hành lang lớp học. Mỗi buổi sáng, các em thường đến sớm để tưới cây, tỉa
cành, cuối buổi học cũng nán lạn cùng cơ và các bạn chăm sóc cây. Bạn nào
cũng vui mừng khi ngắm nhìn thành quả lao động của mình, trân trọng, nâng niu
từng nụ hoa, giọt sương còn đọng trên lá. Việc các em được trực tiếp tham gia
vào các quá trình thực hiện chiến dịch sẽ giúp những bài Tập làm văn kể về việc
tốt em đã làm để góp phần bảo vệ mơi trường trở nên cụ thể, thiết thực và đầy
sống động.
Khi dạy Tiếng Việt tuần 28, 29 với chủ điểm: “Thể thao”, để giúp học sinh
hiểu được nội dung bài Tập đọc: “Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Bác
Hồ”,“Bản tin”, “Buổi học thể dục”, và đặc biệt làm tốt bài Tập làm văn kể viết
về một tin thể thao trên báo đài, viết về một trận thi đấu thể thao, thay vì việc
học trên sách vở, tôi tổ chức cho học sinh tham gia: “Chiến dịch thể thao”. Phát

động phong trào mỗi ngày dành ít nhất 30 phút để chơi một mơn thể thao mình
u thích, phong trào mặc đồng phục đến lớp, và tổ chức cho học sinh cả lớp
được xem một video về một trận thi đấu bóng đá ngay trên lớp học. Khơng khí
lớp học trở nên sơi nổi, hào hứng chẳng khác gì ngồi sân cỏ. Từ đó các em sẽ
hiểu được một trận thi đấu thế thao như thế nào (thời gian, địa điểm, khán giả,
cầu thủ thi đấu, trọng tài…). Kiến thức bài học được khắc sâu và ghi nhớ, điều
quan trọng là qua những tiết học mới lạ, sáng tạo như vậy các em sẽ tự nâng cao
ý thức rèn luyện thể thao để nâng cao sức khỏe. Khi có một cơ thể khỏe mạnh
chắc chắn sẽ đem lại một trí tuệ tốt. Tơi thiết nghĩ đây mới chính là mục đích
cần hướng đến của chương trình giáo dục đổi mới, học phải gắn liền với thực
tiễn, có tính vận dụng cao, lý thuyết phải gắn liền với thực hành.

8


Hình ảnh học sinh tham gia chiến dịch
2.3.4. Tổ chức tham quan, dã ngoại.
Đây là hình thức học tập thực tế hấp dẫn đối với học sinh. Mục đích của
tham quan, dã ngoại là để học sinh được đi tham quan, tìm hiểu và học hỏi kiến
thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa…giúp các em có được những kinh
nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào thực tế cuộc sống của các em. Những
chuyến tham quan, du lịch sẽ đem lại rất nhiều điều bổ ích cho học sinh. Đầu
tiên, đó là một mơi trường học tập thoải mái và năng động. Khi đi tham quan, dã
ngoại học sinh được nhìn thấy tận mắt những gì mình đã được học trong sách
9


vở. Trải nghiệm thực tế giúp học sinh cảm nhận sự vật sống động, cuộc sống
muôn màu với những cái hay, cái đẹp mà sách vở đề cập. Đồng thời, với các
hoạt động tham quan dã ngoại, học sinh dễ dàng tiếp thu được kiến thức hơn.

Cũng là học, nhưng tâm trạng lại thoải mái hơn rất nhiều. Tiếp theo, các chuyến
tham quan du lịch sẽ góp phần tích cực vào việc cải thiện sức khỏe. Sau một
khoảng thời gian học tập căng thẳng, các hoạt động vui chơi sẽ khiến học sinh
được thư giãn hơn. Các hoạt động ngoài trời cũng giúp bản thân trở nên năng
động và khỏe khoắn. Đồng thời, kết hợp với khơng khí thiên nhiên trong lành,
mát mẻ, tinh thần học sinh sẽ thoải mái và tràn đầy năng lượng. Đây là cách rèn
luyện sức khỏe đơn giản mà hữu hiệu.
Các hình thức tham quan, dã ngoại mà tôi lựa chọ là: Dã ngoại theo chủ đề
học tập “ dã ngoại từ thiện”…Để tổ chức thành công hoạt động này, tôi phải lên
kế hoạch, chương trình thật cụ thể, chi tiết từ thời gian, địa điểm, phương tiện di
chuyển, thành phần tham gia, có sự bàn bạc thống nhất với Ban chi hội lớp và
quan trọng nhất là phải được sự đồng ý của BGH nhà trường. Với kinh nghiệm
nhiều lần đã tố chức cho học sinh đi tham quan, dã ngoại và với đặc trưng của
học sinh Tiểu học tôi luôn chọn những địa điểm gần, an tồn, tiết kiệm chi phí,
mang tính thực tế nhất để phụ huynh yên tâm cho con tham gia. Sau mỗi chuyến
tham quan, học sinh phải viết lại những gì mà mình đã trải nghiệm được. Bài thu
hoạch của các em, được tôi chấm chữa cẩn thận, và tơi ln dành những lời khen
ngợi, phần thưởng khích lệ cho những cá nhân hoàn thành xuất sắc. Những
chuyến tham quan dã ngoại đã giáo dục được cho học sinh lịng u nước, tình
u thiên nhiên, q hương đất nước và lòng tự hào dân tộc, rèn luyện kĩ năng
quan sát, trí tưởng tưởng… đây cũng chính là mục tiêu hướng đến của chương
trình Tiếng Việt lớp 3, khơng chỉ thế cịn để lại những kỉ niệm đẹp khó qn, là
dịp để tình cảm cơ trị thêm gắn bó, chia sẻ yêu thương cho các bạn gặp khó
khăn, thức tỉnh lòng nhân ái trong mỗi con người.

10


11



Hình ảnh học sinh tham quan, dã ngoại
2.3.5. Tổ chức sự kiện.
Đây là hoạt động tạo cơ hội cho học sinh được thể hiện những ý tưởng,
khả năng sáng tạo của mình, thể hiện năng lực tổ chức hoạt động. Thông qua
hoạt động tổ chức sự kiện học sinh được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi tiết, tính năng
động, nhanh nhẹn, có khả năng hoạt động theo nhóm. Một sự kiện quan trọng,
thường niên tổ chức theo quy định của các trường học đó là: Hội nghị phụ huynh
học sinh. Ý thức được đây là sự kiện rất quan trọng nhận được nhiều sự quan
tâm của phụ huynh và học sinh. Tôi đã mạnh dạn thay đổi cách thức tổ chức và
nội dung của cuộc họp để đây không chỉ là nơi phụ huynh và giáo viên trao đổi
12


về quá trình học tập, rèn luyện của học sinh, thảo luận phương hướng hoạt động
năm học… mà còn là cơ hội học tập lý tưởng, thú vị, mới lạ nhất đối với học
sinh, đặc biệt là học sinh Tiểu học.. Sau mỗi cuộc họp, tôi nghĩ điều mà phụ
huynh quan tâm nhất chính là kết quả học tập và rèn luyện của con em mình.
Giáo viên chủ nhiệm chính là người thơng báo kết quả đó qua điểm số của các
bài kiểm tra định kì, qua lời nhận xét…Tơi thiết nghĩ vậy tại sao, khơng để
chính học sinh, những chủ nhân đích thực trường học, đối tượng cần hướng đến
của mọi hoạt động giáo dục có cơ hội được tham gia vào q trình đó. Khi đó
các em sẽ thấy được thầy cô và bố mẹ tôn trọng và chắc chắn sẽ cảm thấy hạnh
phúc và tự hào. Các em tự tin khi đọc một bài thơ, thuyết trình một món ăn mình
u thích, hay đọc lại một bài văn mà mình đạt được điểm 10, giới thiệu bản
thân bằng Tiếng Anh, song ca cùng bạn một bài hát, nói lên những điều mà mình
muốn bố mẹ sẽ làm cho mình, thay cơ giáo nhận xét về tổ mình, bạn mình, cùng
nhau đưa ra kế hoạch hoạt động cho học kì tiếp theo…Đây chính là minh chứng
rõ nét nhất cho sự tiến bộ của các em mà phụ huynh có thể trực tiếp thấy được
và cũng là cách giáo dục học sinh toàn diện nhất. Học sinh sẽ học được cách

trình bày, diễn đạt trước đơng người, học cách có trách nhiệm với lời nói và việc
làm của mình.Từ đó, việc đặt câu, viết văn các em cũng tốt hơn. Đối với mơn
Tiếng Việt các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết đều rất quan trọng, có mối quan hệ
mật thiết và tác động qua lại với nhau. Đọc văn bản to, rõ ràng, phát âm chuẩn,
ngắt nghỉ hơi đúng, đảm bảo đúng tốc độ… đã là rất tốt, tuy nhiên để diễn đạt lại
một nội dung trước đông người, tự tin, thuyết phục, hấp dẫn được người nghe lại
là một yêu cầu cao hơn. Tương tự như vậy, kĩ năng viết cũng thế. Để giúp các
em học tốt Tiếng Việt chính là học tốt các kĩ năng đó. Các kĩ năng khơng thể
hồn thiện trong ngày một, ngày hai mà đó là cả một q trình.

13


14


15


Hình ảnh học sinh tham gia các sự kiện trong năm học
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Giải pháp dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với các Hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp góp phần nâng cao hiệu quả học tập mơn Tiếng Việt
cho học sinh lớp 3 đã đáp ứng được những u cầu của đổi mới giáo dục,
khơng những thế cịn rất phù hợp với đối tượng học sinh, thực tiễn nhà
trường, địa phương nơi tôi đang giảng dạy. Trường Tiểu học Nguyễn Văn
Trỗi nằm trên địa bàn phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa. Đây là một
ngơi trường có truyền thống học tập, với 1735 học sinh, trường Tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi có số lượng học sinh đơng nhất bậc tiểu học thành phố

Thanh Hóa nói riêng, tỉnh Thanh Hóa nói chung. Chính quyền địa phương
và phụ huynh học sinh ln dành nhiều tình cảm và sự quan tâm cho giáo
dục, đồng hành và sẻ chia với những chủ trương, kế hoạch của nhà trường
cũng như những khó khăn, thách thức chung của ngành. Nhiều năm liền nhà
trường luôn là lá cờ đầu của thành phố Thanh Hóa và của tỉnh về chất lượng
giáo dục và đào tạo. Mục tiêu của nhà trường là hướng tới giáo dục học sinh
toàn diện học sinh, đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của đổi mới giáo dục
trong thời đại mới theo hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh. Chính
vì vậy BGH nhà trường luôn chú trọng và động viên, khuyến khích giáo viên
đổi mới phương pháp dạy học và tạo mọi điều kiện để giáo viên hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ. Đây chính mơi trường làm việc tốt nhất và là tiền đề thuận
lợi cho cán bộ giáo viên nhà trường nói chung và bản thân tơi nói chung.
Trong hai năm học ( 2018 - 2019, 2019 – 2020), vì tơi là một giáo viên trẻ
nên được BGH nhà trường tin tưởng phân công chủ nhiệm và giảng dạy hai
lớp 3I và 3E. Khi nhận bàn giao chất lượng đầu năm học, thì đây là hai lớp có
chất lượng học tập mũi nhọn và đại trà các môn học nói chung, chất lượng
mơn Tiếng Việt nói riêng thấp nhất trong 7 lớp của khối. Song tôi không cảm
thấy chán nản, hay thất vọng mà ngược lại tôi cảm thấy có động cơ phấn đấu
16


để tự khẳng định mình. Với tinh thần trách nhiệm, quyết tâm cao và sự nỗ
lực, cố gắng, ham học hỏi, luôn đổi mới sáng tạo, nhiệt huyết với nghề, yêu
trò bằng cả trái tim, sự quan tâm, động viên, khích lệ của BGH nhà trường,
đặc biệt là việc thay đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng biện pháp giảng
dạy tích hợp liên mơn Tiếng Việt với Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
cho học sinh lớp 3 đã góp phần nâng cao chất lượng học tập tất cả các môn
học cũng như môn Tiếng Việt. Những giờ học Tiếng Việt khơng cịn khơ
khan, nhàm chán mà trở nên sơi nổi, hào hứng. Học sinh được đóng vai trò
trung tâm của của hoạt động giáo dục, được làm những gì mình u thích và

say mê. Khơng học theo kiểu nhồi nhét mà được học những gì có ý nghĩa,
được khơi gợi niềm yêu thích để tiếp tục tự tìm hiểu. Kiến thức bài học được
biến hóa thú vị qua những trị chơi, trải nghiệm bổ ích và sáng tạo. Nhờ đó
kiến thức của bài học đã được học sinh tiếp thu nhanh, vận dụng tốt. Qua
những hoạt động giáo dục đó, tơi và học sinh của tơi đã hình thành và duy trì
những trạng thái cảm xúc tích cực. Các em trở nên u thích mơn Tiếng Việt,
tích cực chuẩn bị bài ở nhà, tự tin tương tác với cơ giáo và các bạn và ln
hồn thành xuất sắc các bài tập Tiếng Việt trong SGK, trong các kiểm tra định
kì, cũng như các cuộc thi năng lực do nhà trường tổ chức. Kết quả cuối năm
học, điểm kiểm tra cuối kì mơn Tiếng Việt số lượng điểm 9,10 của hai lớp 3I,
3E mà tôi chủ nhiệm đạt tỉ lệ rất cao. Trong các lần kiểm tra năng lực hai
mơn Tốn, Tiếng Việt, thủ khoa đều là học sinh lớp tôi chủ nhiệm, lớp tối
đứng thứ 2 của cả khối về số lượng học sinh nằm trong Top một của khối.
Tính tỉ lệ phần trăm thì điểm Tiếng Việt, học sinh lớp tôi cao nhất khối.
Những tiết thao giảng Tiếng Việt, lớp tôi luôn được BGH nhà trường và tổ bộ
môn đánh giá cao và đều được xếp loại giỏi… Tôi nhận thấy, việc vận dụng
biện dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với các Hoạt động giáo dục ngồi
giờ lên lớp đã tạo nên một mơi trường học tập tích cực. Ở trong mơi trường
đó, trẻ được học sinh được tiếp thu tri thức trong một bầu khơng khí thân
thiện, gần gũi như ở gia đình, điều đó góp phần giúp các em hứng thú trong
học tập và đem lại hiệu quả cao trong giáo dục. Lớp học được coi như ngôi
nhà chung, ngôi nhà thứ hai của mình và các em thấy được mỗi ngày đến
trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em thêm u trường u lớp, gắn
bó với ngơi nhà chung đó. Hiệu quả của giải pháp dạy học tích hợp liên mơn
Tiếng Việt với Hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp cho học sinh lớp lớp 3 mà
tôi đã và đang vận dụng vào quá trình giảng dạy của mình đã được nhà BGH
nhà trường, tổ bộ mơn, đồng nghiệp cũng như phụ huynh ghi nhận. Đây là niềm
vui lớn và cũng là động lực để tôi cố gắng nhiều hơn nữa để hoàn thiện bản thân
cũng như phương pháp dạy học.
Các kết quả, minh chứng đạt được khi áp dụng giải pháp.

* Đối với học sinh:
- Học sinh nắm được kiến thức, kỹ năng; vận dụng tốt và hoàn thành
nội dung yêu cầu.
- Chất lượng điểm kiểm tra Tiếng Việt cuối học kì 2:
17


Lớp

Sĩ số

Chất lượng mơn Tiếng Việt cuối học kì 2
Điểm 9,10 Điểm 7,8
Điểm 6,7
Điểm dưới 5
3I
41
20 48,8% 15 36,6% 6 14,6%
0 0%
3E
48
32 66,6% 15 31,3% 1 2,1%
0 0%
- Thái độ, tình cảm với mơn Tiếng Việt
Lớp
Sĩ số
Thái độ, tình cảm đối với mơn Tiếng Việt
u thích
Bình thường
Khơng thích

3I
41
35 85,4%
6 14,6%
0 0%
3E
48
45 93,8%
0 0%
3
6,2%
- Kết quả thì thi kiểm tra năng lực cuối năm học:
- Năm học 2018-2019:
STT
Lớp
Thủ khoa
Top 50
1
3A
3
2
3B
5
3
3C
7
4
3D
5
5

3E
10
6
3H
12
7
3I
Nguyễn Lê Gia Huy
8
- Năm học 2019-2020:
STT
Lớp
Thủ khoa
Top 50
1
3A
3
2
3B
2
3
3C
4
4
3D
4
5
3E
Nguyễn Ngọc Linh Chi
12

6
3H
20
7
3I
10
- Bàn giao chất lượng năm học 2019-2020:
STT Lớp
Chất lượng
GVCN
1
3A
6
Doãn Thị Huyền.
2
3B
6
Nguyễn Thị Phương.
3
3C
4
Nguyễn Thị Hiến.
4
3D
5
Phạm Thị Thuần.
5
3E
2
Lê Phương Thảo.

6
3H
1
Nguyễn Thị Thoan.
7
3I
3
Ngơ Phương Lê.
- Học sinh hình thành, phát triển được những phẩm chất, nãng lực;
phát triển toàn diện.
+ Năng lực giao tiếp, hợp tác; giải quyết vấn đề sáng tạo; tự chủ, tự học;
thể chất, thẩm mỹ; ngôn ngữ; khoa học.
+ Phẩm chất chăm chỉ, nhân ái, yêu nước, trách nhiệm, trung thực.
18


Một số bài làm của học sinh dưới hình thức học tập trải nghiệm
* Đối với đồng nghiệp trong nhà trường.
Giải pháp dạy học tích hợp liên mơn Tiếng Việt với Hoạt động giáo dục
ngoia góp phần nâng cao hiệu quả học tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 3
mà tơi đã và đang áp dụng trong q trình giảng dạy của mình đã được triển khai
trong các buổi sinh hoạt chun mơn, được đồng nghiệp đón nhận, học tập, trao
đổi kinh nghiệm cùng nhau.Từ đó hiệu quả học tập mơn học Tiếng Việt của học
sinh của tồn trường đã ngày một nâng cao. Tình trạng học sinh thiếu điểm
khơng cịn nhiều như trước đây. Đây là niềm vui lớn để tất cả chúng tơi thêm
gắn bó với nghề!

Hình ảnh giáo viên trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi tham gia các
hoạt động trải nghiệm
19



* Đối với đồng nghiệp ngồi nhà trường
Tơi ln sẵn lịng chia sẻ những kinh nghiệm mà mình có được trong quá
trình áp dụng giải pháp cho đồng nghiệp là bạn bè đang công tác ở các trường
khác trong địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Khơng chỉ vậy, khi nào có thời gian rảnh tơi
cịn trực tiếp tham gia, hướng dẫn, giao lưu cùng các học sinh trường bạn.
Những hoạt động trải nghiệm bổ ích và ý nghĩa mãi là những kỉ niệm đẹp đi
theo tôi suốt những năm tháng của cuộc đời!

20


21


22


23


×