Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

(SKKN 2022) biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4d trường tiểu học xuân bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng dạy văn miêu tả lớp 4 trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.2.1. Thực trạng học sinh lớp 4D
2.2.2. Thực trạng về chương trình dạy văn miêu tả lớp 4
2.3. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả lớp 4
2.3.1. Giúp học sinh hiểu rõ những đặc trưng cơ bản của văn miêu tả
ngay từ tiết đầu tiên của thể loại này
2.3.2. Quan sát đối tượng miêu tả
2.3.3. Lập dàn ý cho bài văn miêu tả
2.3.4. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài
2.3.5. Cung cấp vốn từ, giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, khi
miêu tả là hết sức cần thiết
2.3.6. Dạy học sinh viết bài
2.3.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1


1
1
2
2
2
2
3
3
3
4
5
5
7
8
10
12
17
17
18
18
19


1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Dạy học Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học nói chung và dạy phân
mơn Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Bởi Tập làm văn
mang tính chất thực hành, tồn diện, tổng hợp và sáng tạo của tất cả các phân
môn (Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu). Đối với học sinh tiểu
học hoạt động chủ đạo của các em thiên về cảm tính, mỗi em có một cách nhìn

riêng về cùng một vấn đề. Với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhỏ các em thích
tìm tịi, học hỏi, khám phá cái mới trong nhận thức và trong đời sống xã hội.
Mục tiêu của người dạy là giúp các em thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngơn ngữ
giàu hình ảnh. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là nhiều học sinh vốn từ
cịn ít, viết câu chưa đúng ngữ pháp, dùng từ chưa phù hợp với ngữ cảnh và đặc
biệt sắp xếp ý trong bài lộn xộn. Do vậy các em viết văn cịn rất khơ khan.
Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn nhiều năm (18 năm) ở lớp 4, tôi
nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang
tính chất thơng báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Bài văn trở thành
một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả. Đứng trước thực tế đó, tơi rất
băn khoăn và trăn trở: “Làm thế nào để giúp các em viết đúng ngữ pháp, diễn
đạt vấn đề trơi chảy, mạch lạc và lơgíc, có cảm xúc khi học văn - viết văn và đặc
biệt là văn miêu tả. Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng
tâm hồn và phát triển nhân cách?”.
Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học 2021 - 2022 nhận nhiệm vụ chủ
nhiệm lớp 4D điểm trường Xuân Hồng. Tôi đã cố gắng vận dụng những kinh
nghiệm và khả năng của bản thân để khơi dậy sự u thích mơn học và thấy vui
khi học Tập làm văn ở các em. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra: “Biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4D Trường Tiểu học Xn
Bình”. Đây chính là những kinh nghiệm mà bản thân đã đúc rút được trong quá
trình dạy học và áp dụng thành công vào thực tiễn giảng dạy.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
* Giúp học sinh lớp 4:
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung
quanh.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
* Giúp giáo viên:

- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tịi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập
làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.


2
- Thể loại văn miêu tả lớp 4.
- Phương pháp dạy học văn miêu tả lớp 4
- Hình thức dạy học văn miêu tả lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Đọc các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu chương trình Tập làm văn lớp 4 mạch kiến thức: Dạy viết văn
miêu tả.
* Phương pháp quan sát sư phạm.
- Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với
giáo viên và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy - học phân môn Tập làm văn
trong trường Tiểu học.
- So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia,
giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng với cả những năm
học trước.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập làm văn của học sinh lớp
mình, học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của
giáo viên khi giảng dạy, cũng như chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng
miêu tả khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất
lượng viết văn miêu tả của học sinh.
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

- Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra và phương pháp tổng hợp
số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của học sinh, tôi mô tả
và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu
đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Dạy tiết Luyện tập miêu tả cây cối.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến
trong đời sống cũng như trong chương trình tiểu học. Đây là thể loại có tác dụng
rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành - phát triển trí tưởng tượng, óc
quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của học sinh. Với đặc trưng riêng của
phân môn những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ các em thêm phong
phú, giúp các em cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu
sắc hơn.
Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế
giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc
cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình u thích, những con vật nuôi trong
nhà. Với học sinh lớp 4, chủ yếu là các em viết được một bài văn miêu tả đúng
bố cục, sắp xếp các ý trong bài lôgic và đặc biệt là bài viết phải sử dụng được
các biện pháp nghệ thuật để bài viết có cảm xúc.


3
2.2. Thực trạng dạy văn miêu tả lớp 4 trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng học sinh lớp 4D.
Năm học 2021-2022 tôi được phân công giảng dạy lớp 4D (27 học sinh
trong đó: Nam 15 em; Nữ 12 em), phần lớn ở thôn Xuân Phú, Xuân Hợp đây là
hai thơn cịn nhiều khó khăn về kinh tế của xã Xuân Bình. Học sinh đều là con

em dân tộc thiểu số (25 em), gia đình hầu hết làm nông nghiệp, phụ huynh phải
đi làm ăn xa để các em ở nhà với ơng bà. Trong tình hình dịch bệnh diễn biến
phức tạp như hiện nay học sinh không có đủ điều kiện và phương tiện cho việc
học tập. Hơn nữa, trong quá trình học tập các em chưa tập trung, khả năng ghi
nhớ thiếu bền vững, khả năng khái quát chưa cao. Điều này làm ảnh hưởng
không nhỏ đến viết văn miêu tả.
2.2.2. Thực trạng về chương trình dạy văn miêu tả lớp 4.
Văn miêu tả được dạy ở lớp 4 với thời lượng là 30 tiết (7 tiết ở học kì I, 23
tiết ở học kì II). Sau bài mở đầu Thế nào là miêu tả ? (tuần 14) mới hình thành
cho học sinh có khái niệm về miêu tả nói chung sau đó các em lần lượt đi sâu
vào từng kiểu bài cụ thể: miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật. Trong
mỗi kiểu bài học sinh đều được rèn luyện các kĩ năng cơ bản: quan sát đối
tượng miêu tả; lựa chọn, sắp xếp ý để miêu tả; xây dựng đoạn văn và bài văn
miêu tả. So với các bài tập về miêu tả đơn giản ở lớp 2, lớp 3 (nói, viết thành
đoạn văn ngắn), học sinh lớp 4 đã bắt đầu được học một cách tương đối có hệ
thống về kĩ năng xây dựng văn bản hoàn chỉnh (gồm 3 phần: mở bài, thân bài và
kết bài). Do đó, để dạy tốt loại văn miêu tả, giáo viên vừa phải giúp học sinh
thực hiện được những yêu cầu làm văn miêu tả nói chung, vừa phải chú ý đến
những đặc điểm riêng biệt của từng loại đối tượng (đồ vật, cây cối, con vật) để
hướng dẫn học sinh miêu tả cho cụ thể và sinh động. Từ thực trạng này tôi nhận
thấy dạy học văn miêu tả lớp 4 có những khó khăn và thuận lợi như sau:
* Thuận lợi:
- Các em học sinh được tiếp cận với thể loại văn miêu tả rất sớm ngay từ
lớp 2.
- Đến lớp 4, các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết đã đạt được ở một mức độ nhất
định.
- Kiến thức về Tiếng Việt và văn học: Được chuẩn bị từ lớp dưới khá nhiều
như luyện tập về các kiểu câu theo mẫu (học ở lớp 2, lớp 3), các biện pháp tu từ
so sánh, nhân hoá; học nhiều ở các bài tập đọc có giá trị văn học. Lên lớp 4, các
em tiếp tục được luyện tập các mảng kiến thức trên theo hướng tích hợp, đồng

thời từ vựng học tăng thêm, từ ngữ được mở rộng theo từng chủ đề, chủ điểm.
Về cấu tạo ngữ pháp các em học các kiểu câu, câu chia theo mục đích nói. Phân
mơn Tập làm văn các em được học kết cấu của văn bản.
- Các mơn học khác như Khoa học, Địa lí cũng giúp các em rất nhiều vốn
hiểu biết về thế giới tự nhiên và thế giới xung quanh.
- Trong quá trình cơng tác bản thân đã 18 năm trực tiếp giảng dạy lớp 4 nên
cũng tích luỹ được những kinh nghiệm từ thực tế trong công tác dạy học.


4
* Khó khăn:
- Với học sinh lớp 4D chủ yếu là con em người dân tộc thiểu số vốn sống
và vốn kiến thức văn học còn hạn chế. Kĩ năng giao tiếp rụt rè, chưa mạnh dạn
và thiếu tự tin.
- Các em chưa có thói quen đọc sách báo, khơng có tài liệu tham khảo dẫn
đến vốn từ cịn nghèo nàn khi viết văn diễn đạt chưa rõ ý, hay lặp từ ngữ, dùng
từ đặt câu thiếu chính xác, trình bày vấn đề chưa mạch lạc, viết đi viết lại một
nội dung khơng tốt lên được trọng tâm vấn đề cần diễn tả.
- Do hạn chế vốn từ nên khả năng tư duy của các em còn dừng lại ở mức độ
tư duy đơn giản trực quan nên việc làm văn cịn gặp nhiều khó khăn. Chưa thể
huy động vốn từ ngữ và khả năng hiểu biết của mình ra để trình bày một bài văn
miêu tả. Hơn nữa cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất
lượng làm văn chưa cao.
Từ những khó khăn và hạn chế nêu trên dẫn đến chất lượng làm văn của
học sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn.
Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng làm văn của học sinh lớp 4B (lớp đối
chứng) và lớp 4D (lớp thực nghiệm), năm học 2021 - 2022 đã thu được kết quả
như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm học 2021 – 2022
Khảo Lớp

sát
Đầu 4B
năm
4D

Sĩ số
h/s

Hoàn thành tốt
SL
TL

Hoàn thành
SL
TL

Chưa hoàn thành
SL
TL

26

1

3,85%

17

65,35%


8

30,8%

27

1

3,7%

18

66,7%

8

29,6%

Đây cũng chính là một thực tế khiến tơi ln băn khoăn, trăn trở về việc
làm văn của học sinh lớp 4 nói chung và lớp tơi nói riêng. Trước thực tế ấy, tơi
ln suy nghĩ, tìm tịi và tham khảo: Làm thế nào để nâng cao được chất lượng
làm văn cho học sinh lớp 4? Cuối cùng tôi cũng tìm được một số biện pháp để
nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Bản thân đã áp dụng
những biện pháp sau vào dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4D Trường Tiểu học
Xuân Bình trong năm học 2021 - 2022 và tiếp tục đưa vào áp dụng trong những
năm học tiếp theo.
2.3. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả lớp 4.
Ngay từ lớp 2, khi tập quan sát để trả lời câu hỏi, các em đã bắt đầu làm
quen với văn miêu tả. Việc cho tiếp xúc với văn miêu tả sớm như vậy đã góp
phần ni dưỡng tình yêu với thế giới xung quanh, với thiên nhiên, góp phần

giáo dục tình cảm thẩm mĩ, góp phần phát triển ngôn ngữ ở các em… Học văn
miêu tả các em có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình
cảm, ngơn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội để gợi ra
những tình cảm, xúc cảm, ý nghĩ cao thượng, đẹp đẽ… Cho các em tiếp xúc với


5
thế giới xung quanh, với thiên nhiên là con đường hiệu quả nhất để phát triển
ngôn ngữ.
Đến lớp 3, văn miêu tả được học khơng nhiều song trong chương trình
phân môn Luyện từ và câu đã chú trọng rèn luyện các kiểu câu theo mẫu nhất
định và chú trọng dạy các biện pháp so sánh, nhân hố. Đó là những bước chuẩn
bị quan trọng cho việc dạy văn miêu tả ở lớp 4.
Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4 đòi hỏi người giáo viên
phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một cơng việc rất khó khăn. Vậy nên tơi đã tiến
hành những biện pháp sau:
2.3.1. Giúp học sinh hiểu rõ những đặc trưng cơ bản của văn miêu tả
ngay từ tiết đầu tiên của thể loại này.
Ngay từ tiết đầu tiên (tiết 28 - tuần 14) Thế nào là miêu tả? Các em đã
nắm được khái niệm “Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của
cảnh, của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối
tượng ấy”. Điều cơ bản là các em phải xác định rõ đề bài yêu cầu “đối tượng
miêu tả là gì?”. Trong đầu các em phải hình dung được đối tượng ấy.
Văn miêu tả mang tính chất thơng báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự
sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả
của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể
hiện được cái riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải
gắn với cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn

cản sự sáng tạo của học sinh nhưng như vậy khơng có nghĩa là cho phép các em
viết một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn
nắn để học sinh khi viết văn không sáo rỗng, hoặc sao chép. Mặt khác giáo viên
cần giúp các em nắm được: Trong văn miêu tả ngôn ngữ sử dụng phải là ngơn
ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh. Từ việc hiểu rõ đặc
điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần đi và đích mình cần
đến, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ
hơn từng lời, từng câu, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm của
các em sẽ tốt hơn.
2.3.2. Quan sát đối tượng miêu tả.
Trong văn miêu tả, quan sát có một vai trị rất quan trọng. Khi quan sát
khơng chỉ sử dụng mắt nhìn mà còn phải dùng tất cả các giác quan: Thị giác,
thính giác, xúc giác, vị giác,... Nếu khơng có quan sát thì vốn hiểu biết và trí
tưởng tượng của học sinh rất khó phát triển. Văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn
cũng như với óc quan sát tinh tế của các em. Chính những kết quả quan sát đã
đem lại những cảm nhận về sự vật hiện tượng cần miêu tả. Chẳng hạn, nếu học
sinh chưa từng nhìn thấy cây hoa mai thì học sinh sẽ khơng thể miêu tả về cây
và cũng khơng có ấn tượng hay nhận thức gì về hoa mai.
Khi dạy học sinh quan sát, giáo viên cần nhấn mạnh rằng bất kì sự tưởng
tượng nào dù phong phú đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tế, gắn với đời


6
sống thực tế và muốn có sự hiểu biết thực tế thì cần phải quan sát. Những câu
văn, bài văn miêu tả hay, có hồn và sinh động là những câu văn, bài văn của em
biết quan sát, có khả năng quan sát và biết tìm tịi khi quan sát. Chỉ cần các em
chịu khó quan sát sẽ thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống mà các em chưa
bao giờ thấy hoặc chưa để ý đến. Những bài văn miêu tả hay cần phải có sự
quan sát, trải nghiệm thực tế thì mới có thể viết được những câu văn hay, sinh
động mà mỗi khi đọc, người đọc dường như tưởng tượng ra được cả sự vật đó.

Từ những hiểu biết về quan sát như vậy, khi dạy văn miêu tả cho học sinh giáo
viên không thể thiếu dạy các em cách quan sát.
Để giúp người đọc, người nghe tái hiện được đối tượng miêu tả một cách
chân thực, sinh động, bài văn miêu tả phải tuân theo một trình tự hợp lí, đảm bảo
tính lơgic. Nên dạy học văn miêu tả giáo viên cần hướng dẫn các em những vấn
đề cơ bản sau:
* Quan sát tỉ mỉ các bộ phận theo một trình tự hợp lí.
Ví dụ:
+ Quan sát theo trình tự khơng gian: Từ xa đến gần, từ trên xuống dưới, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải, … hoặc ngược lại.
+ Quan sát từ bao quát đến các bộ phận, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ
phận thứ yếu, …)
+ Quan sát trình tự tâm lí: Điều gì gây chú ý nhiều (gây hứng thú có tác
động mạnh) thì tả trước, điều gì ít chú ý tả sau.
+ Quan sát bằng nhiều cách khác nhau (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi
ngửi, …)
* Chú ý những yêu cầu riêng khi quan sát từng loại đối tượng miêu tả.
+ Tả đồ vật: Có loại đồ vật tĩnh (như cái bàn, cái ghế, cái bút, …), có loại
đồ vật động (như cái xe, cái quạt máy, búp bê biết khóc, biết cười,…). Cách
quan sát đồ vật tĩnh khác với đồ vật động.
+ Tả cây cối: Cần quan sát theo đặc điểm của từng loại cây (cây bóng mát,
cây hoa, cây ăn quả, luống rau (vườn rau), …) theo từng thời kì phát triển (khi
cây cịn nhỏ, lúc cây lớn, …); theo từng mùa khác nhau; hoặc tả lần lượt từng bộ
phận của cây; kết hợp quan sát khung cảnh thiên nhiên và tác động của người
hay loài vật đối với cây (nếu có).
+ Tả con vật: Cần quan sát đầy đủ những đặc điểm về hình dáng, hoạt
động, thói quen và cả mối quan hệ của con vật đó đối với con người.
- Trong cùng một loại đối tượng, mỗi đối tượng cụ thể cũng có điểm riêng.
Khi quan sát cần chú ý phát hiện những điểm riêng phân biệt đối tượng được tả
với những đối tượng khác cùng loại.

Để giúp HS quan sát đối tượng và miêu tả chân thực về đối tượng ấy, người
giáo viên nên ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy nhằm
cung cấp cho các em những hình ảnh những đoạn phim cụ thể, sinh động của
những đồ vật, loài cây, những con vật mà các em định tả nhưng thực tế lại chưa
được nhìn thấy hoặc chỉ nhìn lướt qua trên truyền hình.


7
Ví dụ: Đề 4 – SGK trang 149, Tiếng Việt 4, tập 2 bài kiểm tra viết “Tả một
con vật lần đầu tiên em thấy trên hoạ báo hay trên truyền hình, phim ảnh”.
Ngồi quan sát vật thật để các em được cầm, sờ vào các bộ phận của đối
tượng miêu tả. Tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy, đưa ra
hình ảnh, hoạt động một số con vật, ... cho học sinh quan sát nhìn thấy tận mắt.
Tôi nhận thấy các em rất hào hướng và thích thú, diễn đạt lại bằng lời ngay khi
quan sát đúng trình tự, trơi chảy và lơgic.
2.3.3. Lập dàn ý cho bài văn miêu tả.
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, ấn tượng về đối
tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thơng qua các giác quan trực tiếp
của mình. Văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang
tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn
ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện
pháp tu từ. Để bài viết của các em đúng bố cục, các ý được sắp xếp lơgic, bài
viết mang tính nghệ thuật cao và khơng có trường hợp tả chưa xong bộ phận này
lại tả sang bộ phận khác hay thích gì tả nấy. Để đảm bảo được điều đó giáo viên
cần hướng dẫn cho các em xây dựng được dàn bài chi tiết. Kết cấu bài văn miêu
tả cũng tuân thủ kết cấu 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
* Tả đồ vật.
a) Mở bài:
- Giới thiệu đồ vật được miêu tả.
- Đồ vật đó của ai? Nó được mua, được tặng hay được làm trong trường

hợp nào?
b) Thân bài:
- Tả khái qt về hình dáng, kích thước, màu sắc, chất liệu và cấu tạo của
đồ vật đó.
- Tả cụ thể từng bộ phận của đồ vật theo thứ tự thích hợp do mình tự
chọn. Từ trên xuống dưới hay từ ngồi vào trong (có thể gồm cả cấu tạo của bộ
phận đó).
- Nêu tác dụng của đồ vật, sự gắn bó với bản thân và những kỉ niệm, cách
bảo quản … (ý này có thể lồng trong khi miêu tả các ý trên).
c) Kết bài: Nêu cảm nghĩ đối với đồ vật đã tả.
* Tả cây cối.
a) Mở bài:
- Giới thiệu cây mình định tả là cây gì? Nó được trồng ở đâu? Do ai trồng?
Trồng từ bao giờ ?...
b) Thân bài:
- Tả bao quát: Về hình dáng của cây, tầm vóc, sức lớn và vẻ đẹp của cây
(trong giai đoạn đang được miêu tả là chính nhưng có thể trong quá trình phát
triển chung của cây).
- Tả chi tiết từng bộ phận của cây: rễ, thân, lá, cành, hoa, quả, … (hoặc có
thể tả chi tiết về thời kì phát triển của cây: Khi cây còn non đến khi cây trưởng


8
thành, ra hoa và kết quả) làm nổi bật đặc điểm chính của cây và ích lợi, vẻ đẹp
của nó.
- Tả mơi trường sống và những điều có liên quan đến cây như nắng, gió,
chim chóc, ong bướm, …
- Ý thức chăm sóc, bảo vệ cây… tác dụng của cây, sự gắn bó và những kỉ
niệm của mình đối với cây.
c) Kết bài: Nêu cảm nghĩ của mình về cây, tình cảm của mình với cây đó.

* Tả con vật.
a) Mở bài:
- Giới thiệu con vật mình định tả (Nó là con gì? Ở đâu? Có từ lúc nào?).
b) Thân bài:
* Tả hình dáng bên ngồi:
- Tả bao qt: Con vật lớn chừng nào? Độ tuổi, màu lông, …
- Tả từng bộ phận con vật: đầu, mình, chân, …
* Tả hoạt động của con vật:
- Tả thói quen sinh hoạt …
- Tả hoạt động tiêu biểu, ích lợi của nó…
c) Kết bài: Nêu tình cảm của em đối với con vật đó (yêu quý, chăm sóc).
2.3.4. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường
thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cảm nghĩ về vấn đề của
người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng đoạn văn
mở bài và kết bài là rất cần thiết.
* Đoạn văn mở bài.
Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp. Giáo viên cần khắc sâu để học sinh nắm vững được thế nào là mở bài
trực tiếp; thế nào là mở bài gián tiếp thì các em mới biết vận dụng vào bài làm.
Khơng nhất thiết phải gị bó học sinh làm mở bài theo cách nào để cho các em tự
chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của từng em.
Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu
bằng những câu thơ, câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không
lan man, xa đề, khơng rườm rà. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đơi
hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nhận xét. Chẳng
hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài: ''Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua
được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, đến
nay đã gần một năm rồi."
- Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy cho biết đây là cách mở bài nào? (mở bài

trực tiếp).
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn.
"Đã từ lâu, nhà em khơng có một chú chuột nào dám bén mảng tới. Bởi
giờ đây đã có một chú lính gác cừ khơi, đó chính là chú Mèo Hung. Chú ta đã
được một năm tuổi, trông rất hiền lành nhưng cũng thật tinh nhanh, chú là
người bạn thân của em."


9
- Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy cho biết đây là cách mở bài nào? (mở bài
gián tiếp).
Hay với đề bài miêu tả cây hoa nở vào dịp Tết, học sinh mở bài như sau:
“Nhà em không phải ở làng hoa nhưng ơng em rất thích trồng hoa. Trong vườn
ơng trồng rất nhiều lồi hoa nhưng khơng thể thiếu được cây hoa đào. Hoa đào
là biểu tượng cho mùa xuân ở miền Bắc quê em, Tết đến là hoa đào nở rộ”.
Học sinh khác lại viết: “Mỗi loài hoa đều có vẻ đẹp riêng, mang một ý
nghĩa riêng. Hoa mai mang đến cho miền Nam một sắc vàng đằm thắm, ấm
nồng. Hoa ban mang một màu trắng giản dị, tinh khiết cho người dân vùng núi
cao Tây Bắc. Với người dân miền Bắc quê em thì hoa đào là biểu tượng của
ngày Tết ấm áp, là hình ảnh của mùa xuân sum họp tràn đầy yêu thương và
hạnh phúc”.
Từ các cách mở bài khác nhau học sinh nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để
mở bài một cách hợp lý nhất.
* Đoạn văn kết bài.
Dạy phần kết bài giáo viên cần dẫn dắt để học sinh nắm được có hai cách
kết bài. Thế nào là kết bài mở rộng và kết bài không mở rộng. Từ một số kết bài
trong sách giáo khoa các em đọc và rút ra cách kết bài nào là kết bài mở rộng,
kết bài nào là kết bài không mở rộng.
Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi
đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng

miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm
phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm
kết bài không mở rộng, kết bài như vậy khơng sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn
người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm
phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thơng qua
những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được
những kết bài hay.
Cũng với đề bài miêu tả cây hoa nở vào dịp Tết, học sinh viết kết bài: “Rồi
chiều 29 Tết cũng đã đến, ông em lấy cưa cắt cẩn thận một cành đào đẹp nhất
cắm vào chiếc bình đặt ở góc bàn thờ để trang trí Tết. Hoa đào ở ngồi vườn đã
đẹp, nhưng cắm trong nhà lại có vẻ đẹp riêng, đó là sự tơn lên của đèn màu,
tranh ảnh và những cặp bánh chưng, hộp mứt, hộp trà. Quả thật, Tết càng làm
cho hoa đào mang đầy ý nghĩa, tượng trưng cho hạnh phúc, mùa xuân”.
Em khác viết: "Mỗi khi đi học về, em thường đến bên cây hoa. Em nhắm
mắt lại, thả mình theo những cánh hoa và có cảm giác thật là khoan khối."
Văn chương khơng phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải
thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm khơng phải thứ gị ép bắt
buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em.
Bài văn sẽ không hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc
lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo
viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn thường xuyên


10
liên tục. Từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn
văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
2.3.5. Cung cấp vốn từ, giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu khi miêu
tả là hết sức cần thiết.
Do vốn từ của học sinh cịn hạn chế (vốn từ rất ít). Vì vậy khi học các bài
tập đọc, đặc biệt là Luyện từ và câu giáo viên cần phải cung cấp, làm giàu vốn

từ cho học sinh. Khi dạy các bài mở rộng vốn từ giáo viên cho học sinh tìm từ
trong chủ điểm theo mẫu, để học sinh nêu theo nhận biết của mình sau đó giáo
viên mới hệ thống và chốt lại. Học sinh tự làm vào vở rồi nêu lên trước lớp.
Giáo viên yêu cầu học sinh nối tiếp đặt câu với từ vừa tìm được, biết đưa từ vào
trong văn cảnh.
Khi học về câu kể Ai là gì? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu
này, nhận biết câu trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ? để
giới thiệu hoặc nêu nhận định về một con người, một vật.
Ví dụ: Chích bơng là lồi chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lơi cuốn được người đọc hay khơng
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngồi của nó, đó chính là chữ
viết. Vì vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho
học sinh trong giờ Chính tả. Vì phân mơn Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết
nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
Nếu như Tập đọc rèn kỹ năng đọc - cảm thụ cho học sinh, Chính tả rèn kỹ
năng viết thì Kể chuyện rèn kỹ năng kể hay nói cách khác là kỹ năng sản sinh
văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp
học sinh biết quý trọng cái tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập cách
miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện. Khuyến khích các em ham đọc
sách, báo và đọc các bài văn mẫu để làm giàu vốn từ.
Tóm lại các phân mơn của Tiếng Việt tuy mỗi phân mơn có nội dung riêng,
nhiệm vụ riêng nhưng chúng khơng hồn tồn độc lập mà ln bổ sung cho
nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn khác.
Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân
môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần phải học tốt các phân môn
nêu trên.
2.3.5.1. Dạy viết câu có kết cấu đơn giản.
Để viết được những câu văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên

học sinh cần nắm được câu ở dạng đơn giản nhất. Đó là những loại câu: Ai làm
gì? Ai thế nào? Ai là gì?... Câu khiến, Câu hỏi, Câu cảm.
Dạy những loại câu này đối với học sinh khơng khó. Ta chỉ cần hướng dẫn
tốt qua tiết Luyện từ và câu. Xác định các yêu cầu cơ bản mà học sinh cần nắm
được và thường xuyên củng cố thật nhiều câu phải có hai bộ phận chính: Chủ
ngữ và vị ngữ.
+ Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì?


11
+ Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? thế nào? là gì?
Đi đơi với việc dạy lý thuyết tơi cho học sinh luyện viết câu, phân tích câu,
lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu:
Ví dụ: Sau khi học xong bài Tập đọc “Sầu riêng” Tiếng việt 4 tập 2.
+ Học sinh cần tích luỹ từ: ngào ngạt, quyến rũ, đam mê.
+ Đặt câu và phân tích:
Mùi thơm hoa dạ hương / tỏa ra ngào ngạt khắp khu vườn.
CN
VN
Hương thơm hoa thiết mộc lan/ dịu ngọt quyến rũ.
CN
VN
Niềm đam mê của ông em / là trồng và chăm sóc hoa.
CN
VN
Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững chắc
về câu.
2.3.5.2. Dạy viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp.
Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, không
hấp dẫn người đọc. Bởi vậy, giáo viên cần trang bị những kiến thức nâng cao về

câu cho học sinh. Tuy nhiên không bắt buộc các em tiếp thu những gì q phức
tạp khơng phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có thể dạy là:
- Câu có trạng ngữ.
- Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.
* Với câu có trạng ngữ.
Đâu tiên tơi nên cho học sinh làm quen với các loại câu này, tập tìm chủ
ngữ, vị ngữ.
Trên vịm cây, chim hót líu lo.
Mặc dù đã học về trạng ngữ nhưng vẫn còn một số học sinh rất dễ nhầm
lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi:
+ Con gì hót líu lo? ( con “chim” vậy “chim” là chủ ngữ).
+ Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ).
Vậy “Trên vịm cây” là bộ phận gì? Học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ
trạng ngữ nói rõ chim hót ở đâu.
Tương tự như vậy tơi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian,
nơi chốn để học sinh có thể đặt câu:
Ví dụ: - Sáng sớm, bà con nơng dân đã nườm nượp ra đồng.
- Ngồi vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
- Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trơng thật xinh.
* Câu có nhiều chủ ngữ, vị ngữ.
Tơi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu.
Ví dụ: Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung.
Bằng cách làm này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc
khô khan kể lể. Học sinh viết câu văn hấp dẫn hơn như:
+ Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc.
+ Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống.
+ Chú mèo cuộn mình, lăn trịn như quả bóng.


12

+ Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi.
Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt.
Bài văn khơng rời rạc, không khô khan như những bài chỉ được viết từ các câu
đơn giản, thiếu hình ảnh so sánh, nhân hóa.
2.3.6. Dạy học sinh viết bài.
Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài viết
hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật, cảm
xúc... Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của học sinh cần có
tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn tơi tập trung giải quyết 3
nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Xây dựng nội dung.
Phong phú về nội dung là yêu cầu đầu tiên của một bài viết tốt. Giải quyết
nhiệm vụ này tương đối khó nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ. Bám sát chuẩn
kiến thức kĩ năng để nắm được yêu cầu cần đạt của từng đối tượng. Đích đầu
tiên học sinh cần đạt là phải hoàn thiện về bố cục của từng dạng (như tôi đã nêu
trên). Khi đã hồn thiện về bố cục, tơi tiếp tục chú ý đến nội dung bài văn. Để
bài viết phong phú học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi câu hỏi
học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ khơng phải một câu cộc lốc. Ví dụ
như câu hỏi:
- Thân cây thế nào? (trong bài quan sát cây hoa hồng). Tôi chưa dừng lại
với câu trả lời kiểu: “Thân cây khẳng khiu, cành đâm ra mọi phía”. Cao hơn, tơi
địi hỏi ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ (màu sắc, độ cao, độ lớn, cách bố trí, cành
non, cành già, gai, …) và trả lời bằng một đoạn văn. “Thân cây thâm thấp, màu
xanh tươi. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào nhau, vươn ra mọi phía. Đôi ba
mầm non mới chồi lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác trên cành lá những chú
gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú lính gác cho nàng công chúa
hoa hồng”.
Bài văn không dàn trải mênh mông mà phải có trọng tâm. Học sinh biết
lựa chọn đâu là chi tiết chính, chi tiết phụ thì mới làm tốt lên được nội dung
chính của bài. Ví dụ đề bài: “Tả cây hoa hồng” học sinh phải quan sát và tả thật

chi tiết. Nhìn tổng thể hoa trên cây, nhìn chi tiết từng bơng: Bơng nở to, bơng
chúm chím, nụ. Phát hiện vẻ đẹp riêng của chúng, so sánh chúng. Quan sát kĩ
từng cánh hoa, cách cấu tạo và điều quan trọng nhất là phải làm nổi bật hình ảnh
lồi hoa, cây hoa mình tả.
Nhiệm vụ 2: Đưa nghệ thuật vào bài văn.
Nói đến nghệ thuật ta có cảm giác nó trừu tượng và khó hiểu với học sinh
Tiểu học. Nhưng cái “nghệ thuật” ở các em chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ
ngữ, hình ảnh và sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa. Bởi vậy nó cũng rất
gần gũi quen thuộc với các em vì các em đã có được cả một q trình học tập và
rèn luyện (Trong chương trình Luyện từ và câu lớp 3). Q trình đưa nghệ thuật
vào bài làm, có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
- Ta có thể tả màu sắc hoa hồng nhung bằng từ nào? (đỏ thẫm, đỏ thắm).
Gốc hồng có màu gì? (màu nâu) chạm tay vào em có cảm giác gì? (sần sùi và
rất cứng). Tuy gốc cây có màu nâu, sần sùi và rất cứng. Em có thể dùng biện


13
pháp so sánh hay nhân hoá để làm nổi bật nét đẹp với hình thức của nó được
khơng? (gốc cây như người mẹ giản dị trong bộ áo nâu xám. Nhường sắc xanh
tươi cho lá, cho hoa). Những chiếc gai có thể nhân hóa được khơng? (Nhân hố
như những người lính).
Hay với đề bài tả cây chuối giáo viên gợi ý bằng các câu hỏi:
+ Tàu lá chuối có thể so sánh với cái gì? (Cái quạt khổng lồ, tấm lụa màu
xanh lục).
+ Những quả chuối cong cong giống cái gì? (Vầng trăng khuyết).
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của
mình. Sau khi nghe phần trình bày của các em, tơi sẽ rút ra một số từ ngữ, hình
ảnh, câu văn hay để cả lớp có thể học tập và đưa vào bài làm của mình.
Nhiệm vụ 3: Đưa cảm xúc vào bài văn.
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm

xúc” của người viết. Cảm xúc khơng chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm
đậm trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh lớp 4 điều này còn
trừu tượng. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn một cách cụ thể khơng nên nói một
cách chung chung. Để các em lồng được tình cảm của mình vào từng ý văn,
giáo viên nên gợi ý cụ thể như sau:
+ Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế
nào? (Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lịng người).
+ Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm
được ăn ghê ).
+ Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn người
trồng).
Tương tự như vậy ta cần “hướng” học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận
xét, cảm xúc của mình trước một vật, sự việc thì bài văn sẽ khơng cịn là sự liệt
kê. Mà nó thấm đẫm suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
Kết hợp được ba nhiệm vụ trên: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc thì bài văn
của học sinh cũng đạt tới một thành cơng lớn. Nó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho ta
vun trồng những năm học tới.
* Kết quả.
Sau một năm nghiên cứu và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào dạy - học
văn miêu tả lớp 4. Bằng cả sự lao động nỗ lực của cô và sự rèn luyện chăm chỉ
của trị. Chất lượng học văn của lớp tơi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa
viết được bài văn đúng bố cục, gãy gọn, mạch lạc. Giờ các em đã viết được
những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh, hầu như cả lớp đều hứng thú trong
giờ Tập làm văn. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn điển hình của các em học
sinh lớp tơi.
* Bài số 1: Miêu tả đồ vật (Cuối học kì I).
Đề bài: Tả một đồ dùng học tập hoặc đồ chơi mà em yêu thích.
Bài làm



14

* Bài số 2: Miêu tả cây cối (Giữa học kì II).
Đề bài: Tả một cây bóng mát (cây hoa hoặc cây ăn quả) mà em yêu thích.
Bài làm


15

* Bài số 3: Miêu tả con vật (Cuối học kì II).
Đề bài: Tả một con vật ni trong nhà.
Bài làm


16

2.3.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài.
Dạy Tập làm văn phải thực hiện tất cả các biện pháp trên. Mỗi loại bài
thường dành một tiết (kiểm tra) để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực


17
hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, thực hiện
nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh. Từ tháng
10/2014 thực hiện Thông tư 30 Ban hành Quy định đánh giá học sinh tiểu học.
Đến tháng 9/2016 Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành Thông tư 22 sửa đổi, bổ
sung một số điều của quy định đánh giá học sinh Tiểu học. Giáo viên chấm bài
cho học sinh không cho điểm mà ghi nhận xét. Nên tiết trả bài phải càng thực
hiện nghiêm túc hơn. Tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực
hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá" nhằm mục đích giúp học sinh hiểu

được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên
hệ với bài làm của mình. Giúp học sinh biết sửa lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp,
diễn đạt, bố cục bài của mình và của bạn, từ đó học sinh có thể học hỏi những
câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể
làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Để tiết trả bài đạt hiệu quả giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để
học sinh đỡ nhàm chán. Sau phần nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho
học sinh theo từng lỗi đã thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn
hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh
thảo luận theo nhóm bốn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình,
đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học
sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa,
viết lại đoạn văn của mình đúng và hay hơn. Sau những trao đổi như vậy sẽ giúp
học sinh tránh được những lỗi khơng đáng có khi làm văn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Mặc dù trong 3 năm gần đây tình hình dịch covid-19 diễn ra phức tạp, đặc
biệt là năm học 2021 - 2022 dịch bệnh đã diễn ra trên địa bàn huyện, xã và ngay
cả trong trường học, lớp học. Nên ngay từ đầu năm học phải dạy tăng thời lượng
vào buổi hai, thứ 7 (học sinh khơng có thời gian ơn lại bài). Việc học trực tiếp bị
gián đoạn do lớp có nhiều em bị F1, F0 nên đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất
lượng dạy học nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng.
Từng bước tơi khắc phục những khó khăn đã nêu. Qua một năm giảng dạy
và áp dụng những biện pháp trên tôi thấy chất lượng làm văn của học sinh lớp
4D đã được nâng lên. Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết
văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các
biện pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, so sánh, dùng những từ ngữ gợi tả gợi
cảm…bài làm sinh động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn cịn một số ít bài viết liệt
kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng khơng có hiện tượng sao chép văn
mẫu, khơng có bài làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song

trong giảng dạy Tập làm văn kết quả như vậy cũng là điều đáng mừng. Sau khi
áp dụng các biện pháp như trên tôi đã tiến hành ra đề khảo sát ở lớp 4B (lớp
đồng nghiệp) và lớp 4D (lớp thực nghiệm). Kết quả đối chứng chất lượng làm
văn của học sinh hai lớp như sau:
Kết quả đối chứng đầu năm và cuối năm học 2021-2022
Lớp 4B
Khảo

Sĩ số

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành


18
sát
Đầu
năm
Cuối
năm

h/s

SL

TL


SL

TL

SL

TL

26

1

3,85%

17

65,35%

8

30,8%

26

2

7,7 %

21


80,75%

3

11,55%

Lớp 4D
Khảo
sát
Đầu
năm
Cuối
năm

Sĩ số
h/s

Hoàn thành tốt
SL
TL

Hoàn thành
SL
TL

Chưa hoàn thành
SL
TL

27


1

3,7%

18

66,7%

8

29,6%

27

8

29,6 %

19

70,4 %

0

0%

Đạt mức Hồn thành số bài trình bày khoa học, sắp xếp các ý lôgic, bài viết
giàu cảm xúc, biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao. Nhìn chung
bài làm của các em đều có bố cục rõ ràng, viết đúng ngữ pháp, đúng chính tả,

chỉ cịn một bài viết diễn đạt các ý chưa lơgic và chưa sử dụng được biện pháp
nghệ thuật trong bài.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải biết
sáng tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên cần tận
tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học.
Trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kĩ, dạy thật tốt các phân môn Tập đọc, Luyện
từ và câu, Kể chuyện, Chính tả. Bởi chúng có tác động trực tiếp đến Tập làm
văn. Giúp học sinh tích luỹ vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu
văn, đoạn văn hay của bài Tập đọc vào bài làm. Mặt khác thông qua những bài
văn hay cần cho học sinh nhận xét việc sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ
thuật, từ đó các em sẽ tích luỹ được vốn kiến thức văn học. Trong giờ Luyện từ
và câu tôi luôn khuyến khích, hướng dẫn học sinh tìm các từ hay (theo chủ
điểm), đặt câu văn giàu hình ảnh, phân tích từ, so sánh câu.
Mơn Tập làm văn quả là khó đối với học sinh. Bài Tập làm văn là một tác
phẩm văn học của các em. Tác phẩm này hay, dở còn phụ thuộc một phần nào
vào năng lực của mỗi cá nhân, kĩ năng giao tiếp, điều kiện sống của gia đình.
Nhưng với lịng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, đặc biệt là áp dụng các biện pháp
trên. Tôi đã khắc phục được những khó khăn trong giờ học Tập làm văn và điều
quan trọng là các em viết văn thực sự có tiến bộ. Vì vậy trong q trình dạy học
giáo viên phải ln ln ni dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn
nhiên, một tấm lịng dễ xúc động và ln hướng tới cái thiện.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với giáo viên.
- Nghiên cứu nội dung bài soạn, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và hướng
dẫn điều chỉnh nội dung dạy học, các công văn hướng dẫn tích hợp nội dung dạy


19

học, nghiên cứu sách tham khảo, tham khảo các bài dạy mẫu trên truyền hình, ...
để đưa ra phương pháp dạy học hợp lí và hữu hiệu phát huy niềm đam mê học
văn trong mỗi học sinh.
- Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ đồ dùng dạy học, thiết bị dạy
học và sử dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, phù hợp với bài dạy.
- Chấm bài phải nhận xét sát thực với bài làm của học sinh để các em phát
huy điểm mạnh, khắc phục - sửa những lỗi sai (hạn chế) trong bài làm của học
sinh.
- Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo với từng đối tượng học sinh, khơng để
học sinh đứng ngồi lề bài giảng.
- Để học sinh có thể viết văn miêu tả được tốt hơn nữa cần: Sử dụng triệt để
các phương tiện dạy học như máy chiếu, ti vi, …
* Đối với nhà trường và các cấp.
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi viết thơ, văn và sáng tác nhỏ của
tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
- Tổ chuyên mơn cần thường xun tổ chức hội thảo nói chuyện chuyên đề
về dạy và học Tập làm văn để giáo viên được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
trong công tác giảng dạy.
- Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong tổ chức câu lạc bộ văn học và
sinh hoạt dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Phịng thư viện cần được trang bị đầy đủ tư liệu, tài liệu tham khảo hướng
dẫn cho giáo viên và học sinh tham khảo.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
nhằm bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích mơn Tập làm văn đặc biệt là văn miêu
tả cho học sinh lớp 4D. Trong quá trình thực hiện tơi đã đạt được kết quả đáng
khích lệ song khơng tránh được những thiếu sót. Vậy rất mong nhận được sự
góp ý chân thành của Hội đồng khoa học để sáng kiến kinh nghiệm của tơi được
hồn thiện hơn, có hiệu quả thiết thực hơn trong công tác giảng dạy những năm
tiếp theo và góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình nhằm nâng cao chất lượng
dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Xuân Bình.

Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Xn Bình, ngày 16 tháng 04 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Vũ Thị Hương


TÀI LIỆU THAM KHẢO

TT

Tên tài liệu

Tên tác giả

Nhà xuất
bản

1

SGK; SGV; Vở BT; Sách
nâng cao

Bộ GD& ĐT


NXBGD

Giáo trình

Lê Phương Nga

NXB ĐHSP

PPDH Tiếng Việt ở Tiểu học

Vương Hữu Lễ

Hà Nội

3

Tài liệu BDGV dạy các môn
học lớp 4

BGD & ĐT

4

Chuyên đề : Giáo dục Tiểu
học

5

Sách hướng dẫn học Tiếng
Việt lớp 4


Tiếng Việt 4 Lớp 4
2

6

Giáo trình
Giáo dục tiểu học I

(Vụ Giáo dục Tiểu học)
BGD & ĐT
(Vụ Giáo dục Tiểu học)

NXBGD
NXBGD

Bộ GD& ĐT

NXBGD

Đặng Vũ Hoạt

NXB ĐHSP

7

Chương trình giáo dục phổ
thơng cấp tiểu học

BGD & ĐT


NXBGD

8

Tạp chí giáo dục tiểu học số
28 năm 2012

BGD & ĐT

NXBGD

9

Tạp chí giáo dục tiểu học số
2 năm 2012

BGD & ĐT

NXBGD


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: VŨ THỊ HƯƠNG
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Trường Tiểu học Xn Bình
Cấp đánh
giá xếp loại


Kết quả
đánh
giá xếp
loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Huyện

B

2004-2005

Huyện

C

2009-2010

3

Đổi mới phương pháp dạy học: “lấy
học sinh làm trung tâm” trong mơn
Tốn lớp 4

Huyện


B

2012-2013

4

Giải pháp thực hành phân số cho
học sinh lớp 4

Huyện

B

2015-2016

5

Biện pháp nâng cao kĩ năng thực
hành phân số cho học sih lớp 4A
Trường Tiểu học Xuân Bình.

Huyện

B

2017-2018

TT

1

2

Tên đề tài SKKN
Biện pháp dạy giải tốn về chu vi,
diện tích cho học sinh lớp 4
Một số kinh nghiệm giúp học sinh
lớp 4 học tốt phân mơn chính tả



×