Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.82 KB, 22 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TH KIM LONG B

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4.
Tác giả sáng kiến: Tạ Thị Ngọc Tuyết

BÁODương,
CÁO KẾT
Tam
nămQUẢ
2020
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1


1. Lời giới thiệu
Chương trình môn Tiếng Việt từ lớp một đến lớp năm ở tiểu học luôn
hướng đến mục đích phát triển các kĩ năng "nghe, nói, đọc, viết " cho học sinh.
Mà phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng của bộ
môn Tiếng Việt. Bởi nó vận dụng tất cả những hiểu biết về nhận thức, kĩ năng
của phân môn đòi hỏi học sinh phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúc để thực hiện
các yêu cầu bài học. Đặc biệt dạy văn là cần thiết giúp trẻ sản sinh ra những văn
bản có cảm xúc chân thực khi nói và viết.
Thực tế cho thấy nội dung chương trình sách giáo khoa mới khác nhiều
so với chương trình cũ nên người giáo viên cần nắm bắt được phương pháp dạy
bộ môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng để giảng dạy
có hiệu quả. Hơn nữa chương trình sách giáo khoa được biên soạn theo quan


điểm giao tiếp nghĩa là học sinh được luyện nói, viết trong qúa trình giao tiếp.
Dạy văn miêu tả như thế nào để giúp học sinh được luyện nói nhiều mà vẫn nắm
bắt được kiến thức cơ bản để viết văn đúng yêu cầu. Từ khái niệm về thể loại
văn, học sinh vận dụng viết văn đúng dạng bài như (miêu tả đồ vật, miêu tả cây
cối, miêu tả con vật). Để học sinh nắm được kĩ năng viết văn miêu tả người
giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học kết hợp hình thức tổ
chức dạy học phù hợp để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức góp phần nuôi dưỡng
và phát triển mối quan tâm của các em với thiên nhiên, khơi gợi ở các em lòng
yêu cái đẹp, khả năng phát triển ngôn ngữ. Muốn vậy người giáo viên cần có
những biện pháp nhất định giúp giờ học đạt hiệu quả cao.
Qua khảo sát thực tế, đa số học sinh trong trường, trong khối và trong lớp tôi
chủ nhiệm kĩ năng viết văn còn kém, đặc biệt là kĩ năng viết văn miêu tả. Lớp
tôi chủ nhiệm có một số em còn chưa biết cách viết câu, chưa biết viết đoạn văn
và nhiều em còn nhầm lẫn giữa viết đoạn văn và viết bài văn. Yêu cầu viết đoạn
văn, nhiều học sinh chỉ viết một câu dài, hình thức câu văn, đoạn văn chưa biết
trình bày đúng. Cá biệt còn có học sinh không viết phần tập làm văn trong bài
thi môn Tiếng Việt.
Đặc biệt, văn miêu tả là một dạng bài văn tiêu biểu và quan trọng của phân
môn tập làm văn ở tiểu học, đặc biệt ở giai đoạn lớp bốn, lớp năm, nó là nền
tảng để các em học các dạng bài văn ở các cấp học cao hơn.
Xuất phát từ các cơ sở trên tôi mạnh dạn chọn đề tài :“ Một số biện pháp
nâng cao hiệu quả dạy văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4.”
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp quan sát
2. Phương pháp điều tra viết
3. Phương pháp phân tích nội dung
4. Phương pháp thực nghiệm giáo dục
5. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
2



2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy văn Miêu tả con vật
cho học sinh lớp 4.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Tạ Thị Ngọc Tuyết
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường TH Kim Long B - Tam Dương - Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0985978458

E_mail:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tạ Thị Ngọc Tuyết
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Vận dụng trong công tác giảng dạy môn tiếng
Việt cho học sinh lớp 4.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: tháng 3/ 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1.Về nội dung của sáng kiến
A. Nội dung lý luận
1. Chương trình và sách giáo khoa
Chương trình:
Tập làm văn lớp 4 một tuần có 2 tiết, tổng cộng là 62 tiết/năm học (cộng thêm 8
tiết ôn tập).
* Sách giáo khoa và một số sách tham khảo.
2. Thế nào là miêu tả?
Miêu tả là dùng từ ngữ để vẽ lại các chi tiết, đặc điểm của sự việc, hiện
tượng, con người.... một cách sinh động cụ thể và bất kỳ một hiện tượng nào
trong thực tế khách quan cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Văn
miêu tả là loại văn giàu cảm xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, dồi
dào sức sáng tạo nhằm mục đích thông báo thẩm mỹ. Người đọc qua văn bản
miêu tả nhận thức thực tế khách quan chủ yếu bằng những cảm xúc, những rung
động mạnh mẽ của tâm hồn.

3. Các kiểu bài miêu tả ở lớp 4: gồm có 3 kiểu bài sau.
- Miêu tả đồ vật
- Miêu tả cây cối
- Miêu tả con vật
4. Tiêu chí đánh giá
- Theo chuẩn kiến thức kỹ năng của BGD, theo QĐ số43/ 2001- QĐ BGD và ĐT tháng 11/ 2001 của Bộ trưởng BGD và ĐT yêu cầu về phân môn
tập làm văn lớp 4 học sinh cần đạt được:
* Về kiến thức
3


+Nhận biết các phần của bài văn kể chuyện, miêu tả: mở bài,thân bài, kết
bài.
+ Biết cách lập dàn ýcho bài văn kể chuyện, miêu tả
+ Biết cách viết đơn thư (theo mẫu)
* Về kĩ năng
+ Biết cách phát biểu ý kiến trong trao đổi thảo luận...
+ Biết tìm ý cho đoạn văn kể chuyện, miêu tả( tả đồ vật, cây cối, con vật);
viết được đoạn văn theo dàn ý đã lập. Biết dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu.
+ Biết lập dàn ý cho bài văn kể chuyện, miêu tả( tả đồ vật, cây cối, con
vật); bước đầu viết được bài văn theo dàn ý đã lập có độ dài khoảng 150- 200
chữ.
+ Viết được các văn bản thông thường: thư, đơn, báo cáo ngắn, điện báo...
+ Biết tóm tắt đoạn tin, mẩu tin...
* Cụ thể với 3 kiểu bài miêu tả của lớp 4 yêu cầu cần đạt được là:
+ Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn và viết
bài miêu tả đồ vật.
+ Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn và viết
bài miêu tả cây cối.
+ Miêu tả con vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn và viết

bài miêu tả con vật.
B. Thực trạng
1.Về giáo viên:
- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy
còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một tiết
dạy Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao. Điều này được thể hiện
rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường.
- Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho
học sinh, chưa kích thích được sự sáng tạo tìm tòi, chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý
của học sinh.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bộc lộ
được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả, thoát khỏi việc tả một cách
khuôn sáo.
- Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ
cho các em trong quá trình làm văn miêu tả.

4


- Giáo viên chưa hướng dẫn được cho học sinh tìm ra phương pháp làm văn
miêu tả thành công, bên cạnh năng lực quan sát còn cần sự liên tưởng, tưởng
tượng và vận dụng năng lực của bản thân vào bài viết.
- Một số giáo viên khi lên lớp chưa phát huy hết tính tự chủ đó là chưa biết thay
đổi đề bài cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để học sinh dễ hiểu và
cảm nhận một cách thực tế hơn.
- Việc chấm và sửa bài cho các em của một số giáo viên còn chung chung, chưa
sửa ý, câu hay cách dùng từ đặt câu,việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào
bài văn của học sinh nhằm phát huy cho học sinh khi học, làm tập làm văn.
- Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn học
khác.

2.Về học sinh:
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn
giản trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến
chất lượng làm văn chưa cao do đó khi viết văn còn gặp không ít khó khăn.
- Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan
để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó.
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ
ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý văn mà như nói
chuyện bình thường.
- Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị
trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng
của mình.
- Một số em chưa biết nội dung, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật vào bài
văn dẫn đến lời văn khô khan, thiếu hình ảnh, thiếu tình cảm.
- Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa
mạch lạc, các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế.
- Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 4-5, tôi thấy chất lượng học tập phân môn

tập làm văn của học sinh chưa cao. Chỉ được một số ít học sinh biết viết văn có
bộc lộ trí tuệ và cảm xúc. Còn lại phần lớn các bài văn miêu tả của các em có bố
cục chưa cân đối, mang tính liệt kê các chi tiết, bộ phận một cách đơn giản.
Trình tự tả chưa hợp lý, chọn lọc chi tiết chưa tiêu biểu, đặc sắc, thiếu hình ảnh,
diễn đạt chưa mạch lạc. Đặc biệt là học sinh chưa nói, viết theo cách cảm, cách
nghĩ của mình.
- Thực hiện khảo sát lớp 4C trường Tiểu học Kim Long B với đề bài:"
Viết một đoạn văn ngắn( 8-10 câu) tả một con vật mà em yêu thích"
Kết quả đạt được là:
5



Kết quả
Trước khi
thực
nghiệm

Điểm 9; 10
TSHS SL
TL
37

3

8,1%

Điểm 7; 8
SL TL
7

18,9
%

Điểm 5; 6
SL
TL
22

59,5
%


Điểm dưới 5
SL
TL
5

13,5%

Nhìn vào bảng thống kê số liệu ta thấy số học sinh chưa đạt yêu cầu còn ở
mức cao và thực tế cho thấy các em chưa nắm được cách viết văn miêu tả, nhiều
em chỉ nêu được một đến hai bộ phận, không theo một trình tự nhất định. Có em
chưa biết sắp xếp câu, từ một cách phù hợp; đa số các bài văn viết chưa có tính
sáng tạo, chưa hay, chưa biết bộc lộ cảm xúc; có em lại chỉ nêu theo ngẫu hứng
các bộ phận, các phần của đối tượng được miêu tả.
Tóm lại giáo viên cần có biện pháp cụ thể để dạy bài văn miêu tả theo
chương trình mới một cách có hiệu quả.
C. Các biện pháp chủ yếu
Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4, đòi hỏi người giáo viên phải
kiên trì và bền bỉ vì đây là một công việc rất khó khăn.
Tuỳ theo nội dung yêu cầu của mỗi bài học và đối tượng học sinh mà bản thân
tôi đã áp dụng linh hoạt nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo và kết
hợp một số biện pháp hỗ trợ khác.
Cụ thể như khi dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả con vật, bản thân tôi
đã chú trọng các biện pháp sau:
1. Biện pháp bồi dưỡng và tích luỹ vốn từ.
1.1. Làm giàu vốn từ ngữ thông qua các tiết học.
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị
trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể
diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các em rất
ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu vốn từ làm
thế nào có thể viết văn hay được. Để viết được bài văn, đoạn văn hay, học sinh

không chỉ cần có cảm xúc, cảm nghĩ tinh tế mà còn phải tích luỹ vốn từ phong
phú, tạo câu linh hoạt và đa dạng. Cách làm nhanh nhất là thông qua môn Tập
đọc, Kể chuyện, Tập làm văn,... Nhiều bài tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn là
bài văn hay, số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài đó rất phong phú, sử dụng từ sáng
tạo. Vì vậy, khi dạy giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, có thể chọn trường
hợp đặc sắc nhất để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi sử dụng từ.
Ví dụ: Khi dạy phân môn tập đọc bài: “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” Giáo viên
cần chỉ cho học sinh thấy những từ, cụm từ tác giả dùng để miêu tả ngoại hình
của chị Nhà Trò ( gầy yếu, ngắn chùn chùn,...), hoạt động của chị (khóc tỉ tê,
nức nở ,...): và miêu tả hành động của Dế Mèn như: xòe cả hai càng ra, đạp
6


phanh phách,...Thông qua bài tập đọc trên, học sinh đã tích lũy được một số vốn
từ miêu tà về ngoại hình và hành động con vật.
Hay, khi dạy bài kể chuyện “ Con vịt xấu xí” tôi cho học sinh thấy được một số
từ, cụm từ miêu tả như: Quá nhỏ, yếu ớt,...( ngoại hình), chành chọe, bắt nạt,
hắt hủi,..(Hành động).
Khi dạy bài: “Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật” thông qua bài tập các em
cũng sẽ tự tích lũy cho mình một số từ, cụm từ tả ngoại hình như: vàng đậm, đỏ
tía, xanh đen, mềm mại,...(hành động) như: bệ vệ, nhanh nhẹn, liến thoắng,...
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với con
vật yêu hay ghét, gắn bó hay không gắn bó... Để bài viết có sức biểu đạt gần gũi
hơn, học sinh cần biết liên hệ bản thân mình đã làm gì để chăm sóc con vật ? ...
1.2. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh:
Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi dưỡng
năng khiếu viết văn cho học sinh nói riêng thường thiên về các kĩ thuật làm bài
mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nội dung bài viết. Thường giáo
viên ra một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn học sinh thì gắng đọc thật
nhiều bài văn làm mẫu, thậm chí còn có em bê y nguyên bài văn của người khác

vào bài của mình, thì được xem là bài viết khá, nghĩa là giỏi chép văn.
Khi thấy một em học sinh ngồi trước một số đề văn mà không viết được, thầy cô
giáo thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết thể văn nọ, thể văn
kia mà không hiểu rằng các em không có hứng thú viết vì đã không tạo ra được
quan hệ thân thiết giữa bản thân và đề bài - đối tượng miêu tả, ...nghĩa là các em
không có nội dung, không có gì để nói, để viết.
Ví dụ: Có một lần, em được bố mẹ dẫn đi chơi vườn bách thú.Ở đó có rất nhiều
con vật,em viết một đoạn văn tả lại con vật mà em ấn tượng.
Với đề bài này có nhiều học sinh khó để viết được. Bởi vì trong thực tế
nhiều học sinh chưa từng được trực tiếp đi tham quan vườn bách thú, nếu như
bắt các em áp dụng kiến thức lí thuyết để làm bài thì chắc chắn rằng nhiều em sẽ
khó viết thành bài văn theo đúng yêu cầu.
Nguyên nhân của tình trạng không có gì để viết là do học sinh thiếu hụt vốn
sống vốn cảm xúc. Vì vậy, thầy giáo cần đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn
cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm
quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát
được. Ngoài ra giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen
đọc sách. Phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có
ích cho các em suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường
đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển, sách báo sẽ
giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú,vốn sống, tầm nhìn, hiểu biết rộng hơn,
giúp các em có khả năng phát triển sức sáng tạo....
7


Định hướng cho học sinh lựa chọn sách báo để đọc, đọc nhiều không có
nghĩa là đọc một cách không chọn lọc. Cần chọn những sách như thế nào? Thầy
giáo cần giáo dục thái độ đọc cho các em. Kiên trì, chịu khó không chỉ đọc để
giải trí, mà đọc phải có suy nghĩ, liên hệ, rút ra những bài học bổ ích, ghi chép,
thu hoạch về nội dung, nghệ thuật, về những điểm nổi bật, gây ấn tượng còn

đọng lại trong tâm trí mình vào cuốn sổ tích luỹ.
1.3. Xây dựng phong trào tích luỹ vốn từ
Để tăng cường việc tích cực học tập cho các em trong phân môn Tập làm
văn đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị tốt, đặc biệt là về việc thu thập từ theo chủ
điểm liên quan đến nội dung bài học hàng tuần, giáo viên cần tăng cường nhiều
hình thức khen thưởng để khuyến khích các em tích cực tìm được nhiều từ bằng
cách:
- Đầu tuần tôi phát động phong trào thi đua thu thập từ, cụm từ miêu tả giàu hình
ảnh.
- Cuối tuần tôi tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả mình thu thập được bằng
nhiều hình thức như: trò chơi, hái hoa học tập,...
- Khen thưởng cho những em thu thập được nhiều từ, cụm từ liên quan đến phân
môn tập làm văn của tuần: Tặng 3 - 2 - 1 bông hoa học tốt theo số lượng từ mà
các em thu thập được. Sau đó tổng kết số bông hoa, chọn học sinh có nhiều bông
hoa học tốt để khen vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
2. Biện pháp sử dụng vốn từ để viết câu văn, đoạn văn.
2.1. Bồi dưỡng cho các em cách dùng từ, đặc biệt là cách dùng từ gợi âm thanh
và từ gợi hình ảnh trong văn miêu tả con vật.
Như chúng ta đã thấy vốn sống, tầm hiểu biết của các em chưa phong phú,
các em đang trong quá trình tìm hiểu, cảm nhận thế giới xung quanh.
Từ các chi tiết quan sát được, học sinh cũng chưa biết chọn lọc từ ngữ gợi
hình, gợi cảm để vận dụng vào bài viết một cách linh hoạt, sáng tạo. Hầu hết, bài
văn miêu tả của các em còn thiên về kể lại sự vật, khô khan thiếu hình ảnh. Bởi
vậy để giúp các em biết dùng từ đúng và hay, tôi sử dụng các phương pháp sau
đây:
- Dạy tốt các dạng bài ôn tập từ, đặc biệt là từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, (để
các em thay thế tránh tình trạng lặp từ).
Ví dụ: Tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, từ đồng nghĩa để gợi tả con vật:
+Từ gợi âm thanh: ủn ỉn, phì phò, kéc kè e e, phành phạch.
+Từ gợi hình ảnh: khệnh khạng, lăn tròn,...

- Ngoài ra bản thân tôi còn hướng dẫn các em sưu tầm các bài văn miêu tả, các
bài thơ, các tác phẩm văn xuôi như truyện ngắn, tùy bút, phóng sự, đọc tạp chí
văn tuổi thơ... hay yêu cầu học sinh tìm những từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh có
trong đoạn văn, trong tác phẩm đó.
8


Ví dụ: Hãy tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh miêu tả trong đoạn văn sau:
“ Mùa xuân cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim... đàn đàn, lũ lũ bay đi, bay
về...”
(Bài cây gạo – sách Tiếng Việt lớp 3)
Ví dụ : Em hãy tìm những từ gợi âm thanh trong đoạn văn sau:
Bầy gia cầm nhà bác Tám đang cho ăn giữa sân trông thật nhộn nhịp. Hàng
chục chú gà con mới nở hơn tuần lễ lích nhích tranh nhau ăn hạt tấm bác tung ra.
Ba con gà mái lại cục cục liên hồi, gọi con mình, chỉ mồi cho chúng. Một chú
gà trống bỗng đâu nổi hứng vỗ cánh phành phạch vươn cổ Kéc Kè ke một hồi
dài nhưng chẳng ai buồn để ý. Ở góc sân phía xa, mấy anh chàng vịt đang thời
vỗ béo, cất giọng quạc quạc một cách uể oải ý chừng no mồi rồi nên không quan
tâm đến lũ gà đang tíu tít đằng kia. (Sưu tầm).
- Mục đích của kiểu bài này không chỉ đơn thuần yêu cầu học sinh xác định
được từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh mà qua đó giúp các em thấy được giá trị, tác
dụng của các từ tượng thanh, tượng hình trong văn miêu tả, qua đoạn văn này
các em học được cách miêu tả đối với dạng đề tả con vật.
- Ngoài ra còn giúp các em biết phân chia từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh phù hợp
với từng con vật. Do vậy trước khi chọn con vật để miêu tả bước đầu giáo viên
nên giúp các em hình dung xem có những từ ngữ gợi âm thanh, gợi hình ảnh nào
phù hợp với con vật mà mình định tả không? Sau khi các em đã có kỹ năng
nhuần nhuyễn thì việc áp dụng vào các bài viết khác sẽ dễ dàng hơn.
2.2. Giúp các em biết sử dụng từ đúng và hay
- Trước tiên cần hướng các em dùng từ ngữ thật chính xác. Dùng từ đúng là rất

cần thiết trong quá trình viết câu văn. Khi các em đã biết cách dùng từ chính
xác, giáo viên cần gợi mở, hướng dẫn cho các em viết câu văn có dùng những từ
ngữ có hình ảnh, từ hay hơn (đặc biệt là học sinh giỏi). Phần này giáo viên cần
tích hợp với phân môn Luyện từ và câu trong các tiết dạy về danh từ, động từ và
tính từ cũng như các tiết mở rộng vốn từ.
- Ví dụ: Khi tả bộ lông của con thỏ nhà em, học sinh viết: “Bộ lông màu trắng”
là câu đúng. Giáo viên có thể gợi mở cho học sinh( khá giỏi) viết câu khác có
dùng từ tính từ chỉ màu sắc đồng nghĩa với màu trắng để có câu văn khác rồi so
sánh câu văn đó với câu trước. Học sinh suy nghĩ rồi yêu cầu các em trình bày.
Các em có thể viết: Bộ lông màu trắng nhạt; Bộ lông trắng phau; Bộ lông trắng
tuyết; Bộ lông trắng như mái tóc bạc của bà em; Bộ lông trắng bạc; Bộ lông
trắng như mây …. Khi so sánh, các em sẽ thấy là các câu sau viết đó hay hơn.
Sau đó, có thể cho các em chọn câu văn mình thích, chỉ ra lí do mình thích (với
học sinh khá giỏi).
- Để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay, các em cần có vốn từ và biết cách
sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái
9


độc đáo trong bài mình viết. Chính vì vậy mà các em phải dùng từ đúng và dùng
từ hay.
Ví dụ: Cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật trong bài: “Buổi sáng
mùa hè trong thung lũng”.
- Rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm. Trong bầu không khí đầy hơi ẩm và
lành lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiến chăn đơn. Bỗng một con
gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp đó, rải
rác khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi cũng thức
dậy gáy te te. Trên mấy cành cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả. Ngoài
suối, tiếng chim cuốc vọng vào đều đều. Bản làng đã thức giấc.
2.3. Giúp các em viết câu đúng và biết viết câu hay

- Kĩ năng viết câu của nhiều học sinh cũng hạn chế. Nhiều em còn viết câu dài,
không có dấu chấm, chỉ dùng dấu phẩy trong cả đoạn văn. Số khác có viết được
câu nhưng diễn đạt chưa hay. Do đó, tôi hướng dẫn các em cách viết một câu
đúng ngữ pháp các kiểu câu đó học ở phân môn luyện từ và câu. Từ đó tiếp tục
hướng dẫn học sinh viết các câu văn có hình ảnh, câu văn sinh động có sử dụng
biện pháp so sánh hoặc nhân hóa để đoạn văn thêm sinh động.
- Khi luyện phần viết câu cần chú ý cho các em các kiểu câu thường gặp trong
bài văn miêu tả: Câu kể. Kiểu câu kể thường sử dụng, đó là câu Ai - làm gì?, Ai–
thế nào?Ai- là gì?. Bên cạnh đó, với các bài văn hay, với học sinh khá giỏi, các
em có thể dựng các kiểu câu khác: Câu cảm, câu hỏi,…
*Viết câu đúng: Một câu văn đúng phải đảm bảo về cấu trúc ngữ pháp, diễn đạt
được nội dung, suy nghĩ của người viết.
VD: Chú gà trống nhà em/ đã ra dáng một chú gà trống đẹp.
CN

VN

*Viết câu hay: Câu hay là câu được mở rộng các thành phần phụ, sử dụng các
biện pháp nhân hoá, so sánh hoặc từ láy, từ gợi tả, gợi cảm.
VD: Qua một thời gian chăm sóc chu đáo,giờ đây, chú gà trống nhà em đã trở
thành một chàng hiệp sĩ trông oai vệ làm sao.
- Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh, nhân
hóa khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà
hơn, ý tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe.
- Để giúp các em biết viết câu văn có hình ảnh, sử dụng biện pháp tu từ, tôi cho
học sinh làm dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh, nhân hoá trong đoạn thơ, bài
thơ.
Ví dụ: Tìm hình ảnh so sánh trong câu thơ sau:
“Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ

Chạy như lăn tròn
10


Trên sân trên cỏ.”
(Trích bài Đàn gà mới nở - Sách Tiếng Việt 2)
Yêu cầu học sinh chỉ ra hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên ?
Hình ảnh so sánh: con mẹ - hòn tơ nhỏ; chạy - lăn tròn
- Đoạn thơ trên miêu tả những chú gà con lông vàng óng mượt trông như những
hòn tơ mềm mại. Do hình dáng nhỏ nhắn “ bé tí” lại giống “cuộn tơ” nên khi
chạy giống như lăn tròn. Việc sử dụng hình ảnh so sánh đã giúp đoạn thơ sinh
động hơn, đàn gà con được miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, gần gũi và đáng yêu.
VD: Chỉ rõ biện pháp nhân hóa đã được sử dụng trong bài thơ sau như thế nào?
Đám ma bác giun.
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...
Trần Đăng Khoa
Học sinh sẽ tự tìm ra các câu thơ có hình ảnh như: “Bác giun đào đất suốt
ngày”; “Họ hàng nhà kiến kéo ra”;.Các con vật đó được nhân hóa bằng từ Bácđào đất; họ hàng - kéo ra;...học sinh thấy cái hay của bài thơ ở chỗ, một mặt
nhận ra cảnh “đám ma” với tất cả các nghi lễ, một mặt nhận ra đặc điểm sinh

động của từng loài kiến. Nhà thơ đã có con mắt quan sát tinh tường nên đã ghép
nhặt rất chính xác đặc điểm của từng loài kiến với các chi tiết trong một tang lễ:
“Kiến đất cầm hương”, “Kiến cánh khoác màu áo tang” (vì kiến cánh có bộ lông
ngoài mỏng, trắng),...
* Lưu ý: Giáo viên cho học sinh thấy rõ biện pháp nhân hoá không chỉ làm cho
câu văn giàu hình ảnh hơn, hay hơn mà nhờ biện pháp nhân hoá các con vật tạo
nên gần gũi với con người, trở thành một người bạn tốt của chúng ta.
Như vậy bài văn không chỉ đơn thuần là bài văn miêu tả mà trong đó còn có tình
cảm của người viết. Có như vậy mới đạt được hiệu quả.
11


Ví dụ: Em hãy viết một đoạn văn miêu tả con vật mà em thích trong đó có sử
dụng phép nhân hóa hoặc so sánh.
Thông qua các dạng bài tập đó tôi đã củng cố cho HS về so sánh, nhân hóa.
Giúp học sinh nhận ra cái hay của các câu thơ, bài thơ, câu văn, đoạn văn hay
những tác phẩm văn xuôi. Qua đó học sinh học được cách nhân hóa, so sánh và
cách quan sát, biết liên tưởng sự vật này với sự vật khác, biết vận dụng, chọn
lọc những gì qua sát được để viết các câu văn có hình ảnh, làm cho đoạn văn
hay hơn.
2.4. Hướng dẫn học sinh kĩ năng quan sát.
Như chúng ta đã biết quan sát là sử dụng các giác quan để nhận biết sự vật.
Ở một bài văn miêu tả, chủ yếu các em phải sử dụng ba giác quan cần thiết là thị
giác (mắt nhìn), thính giác (tai nghe) và xúc giác (tay sờ). Mắt cho ta cảm giác
về hình dáng (Cao hay thấp, mập hay gầy,...) , cho ta thấy hoạt động (Con gà
khi đi cổ thường nghển cao, con vịt bước đi chậm chạp, lạch bạch,...), Tai cho ta
cảm giác về âm thanh (Chú gà gáy Ò ó o... hay kéc kè ke e e...), Tay cho ta cảm
giác về mềm hay cứng,... dạy cho học sinh quan sát chính là dạy cách sử dụng
các giác quan để tìm ra các đặc điểm của sự vật và biết lựa chọn chi tiết đặc
điểm riêng của con vật để quan sát. Các con vật mà mình chọn để miêu tả phải

có những nét nổi trội. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm ra các đặc điểm tiêu
biểu của con vật mình định tả, để phân biết nó với các con vật khác giúp bài văn
thêm sinh động,hấp dẫn và độc đáo.
Ví dụ: Quan sát những đặc điểm nổi bật của con gà trống nhà em nó có gì
khác so với con gà trống nhà hàng xóm.
Ngoài ra khi dạy văn miêu tả giáo viên cần định hướng cho học sinh cách
quan sát và quan sát có phương pháp:
- Lựa chọn trình tự quan sát:
+ Quan sát con vật từ xa đến gần.
+ Quan sát con vật từ cụ thể đến bao quát.
+ Quan sát thói quen sinh hoạt của con vật theo thời gian trong ngày.
+ Quan sát theo thời kỳ phát triển của con vật.
Ví dụ: Khi tả con mèo giáo viên có thể hỏi “Dùng tay sờ vào con mèo em có
cảm giác như thế nào?”
Hướng dẫn cách thu thập các nhận xét do quan sát mang lại.
Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng các em trả lời bằng nhiều
chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác, gợi hình. Sau đó giúp các em biết
lựa chọn, sắp xếp các chi tiết miêu tả quan sát được cho lôgíc.
Trong thực tế giảng dạy, nghiên cứu, tôi thấy những câu văn miêu tả hay là
những câu sử dụng từ gợi hình ảnh, gợi tả âm thanh một cách sáng tạo, gợi tả sát
12


thực. Để viết được những câu văn đó học sinh phải quan sát đối tượng một cách
tinh tế. Vì vậy tôi rất chú ý phương pháp quan sát, luôn rèn cho các em kĩ năng
quan sát cần thiết, biết chọn các chi tiết tiêu biểu để đưa vào bài văn. Khi hướng
dẫn quan sát, tôi luôn gợi cho các em vận dụng vốn hiểu biết, khả năng liên
tưởng cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát, cảm nhận của các em
được tốt hơn. Tôi còn gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ ngữ,
ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các em

chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao
theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.
Vì vậy, để viết tốt bài văn miêu tả đòi hỏi người viết phải hiểu, biết về đối
tượng miêu tả. Hay nói cách khác là phải biết nhận dạng đúng và đầy đủ đối
tượng mình miêu tả. Để có được điều đó thì đòi hỏi người viết phải biết cách
quan sát, biết chọn lọc các chi tiết quan sát được để vận dụng làm bài.
3. Biện pháp sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương
pháp dạy học tích cực.
Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học
tích cực.(PP gợi mở, PP vấn đáp, PP thảo luận nhóm,...)
Như chúng ta đã biết qua một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy việc
sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm điều mà chính tự suy nghĩ viết ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy, sử dụng
bản đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng bộ não, giúp học sinh học tập một cách
tích cực, đó chính là biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. Việc
sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho các em tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể,
khoa học chứ không phải học vẹt, học thuộc lòng. Học sinh hiểu bài, nhớ lâu,
vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ngày càng tăng theo cấp số nhân, vì vậy sử
dụng bản đồ tư duy rèn cho các em tư duy lôgic để có thể vận dụng vào thực
hành giao tiếp nói, viết trong cuộc sống.
Đặc biệt, sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới, giúp học sinh
học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia
xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực
riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ mà còn có kĩ năng diễn đạt, hệ thống
hoá kiến thức hay huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi
chép, vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc sống. Phương pháp này
hướng đến việc cụ thể hoá tối đa hoạt động viết và nói của học sinh sao cho sản
phẩm làm văn của mỗi em vừa đảm bảo được chuẩn mực cơ bản cả một thể loại
văn bản vừa thể hiện được bản sắc cái tôi của mỗi em, trên cơ sở khai thác kinh

nghiệm và hiểu biết của các em, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em
đã chiếm lĩnh được qua bài “Tập đọc – Kể chuyện”, “Luyện từ và câu” và “Tập
làm văn”. Để giúp các em vận dụng tốt vốn kiến thức mà mình đã được trang bị
thì bản thân tôi đã sử dụng cách dạy trong tiết “Viết bài văn miêu tả con vật” là:
13


sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học
tích cực, cụ thể là:
Hoạt động 1: Tìm hiểu đề.
- Học sinh định hình cụ thể đối tượng cần miêu tả trong trí tưởng tượng đồng
thời viết đối tượng ấy( con gì /là gì?, ở đâu, lúc nào...) vào khung chủ đề.

*Hoạt động 2: Tìm ý.
- Như chúng ta đã biết, làm văn miêu tả không phải lúc nào cũng có đối tượng
trước mặt để thực hiện “ Bút cầm tay, ghi chép lại hiện trường”.
- Vì vậy để viết được bài văn miêu tả thì học sinh phải sử dụng hồi ức, vận dụng
những hiểu biết, nhận xét cảm xúc đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả.
Hồi ức, tưởng tượng là cách nhìn gián tiếp sự vật, là phục hồi nhìn nhận bằng
cách gợi nhớ là cách nhìn “ thầm” để giúp các em làm bài vận dụng khả năng
phục hồi kí ức, tưởng tượng.Trong các tiết này, tôi luôn sử dụng cách trò
chuyện, khơi gợi rồi đề nghị các em nhắm mắt lại nhớ lại, nghĩ về con vật mình
định tả đã xác định trong khung chủ đề và tự chọn lọc, viết ra những từ ngữ
liên quan đến con vật đó.
VD: HS suy nghĩ tìm được những từ, cụm từ liên quan đến chú gà: to khỏe,
mào,ò ó o.., bộ lông, đuôi, oai vệ, đôi chân,..ghi vào khung chủ đề:
- Bên cạch đó, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng học hỏi thu
thập thông tin từ các tài liệu tham khảo, các bài văn mẫu. Quá phụ thuộc vào bài
làm của người khác là không tốt nhưng nếu biết biến lời văn của người khác
thành của mình thì sẽ giúp bài biết sinh động, phong phú hơn. Phải học hỏi xem

14


người ta trình bày bài viết như thế nào? Sử dụng từ ngữ ra sao? Những câu văn
hay, diễn tả độc đáo, các em hoàn toàn có thể ghi chép lại, hay áp dụng cấu trúc
câu cho những bài làm khác. Tuy nhiên cách áp dụng phải linh hoạt. Sách tham
khảo có chỗ tốt, có chỗ chưa tốt, chưa sát thực tế. Chúng ta phải làm cho nó cụ
thể hơn, gần gũi hơn, không nên viết quá xa vời, sáo rỗng, có gần gũi với đời
sống thì bài viết mới được đón nhận.

Bộ lông
Đôi mắt

Đuôi

Chú gà trống
Mào
Tiếng gáy

Dáng vẻ

Đôi chân

Hoạt động 3: Lập dàn ý.
Sắp xếp ý đã có vào sơ đồ.
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được sao cho các ý đó có thể
phát triển phù hợp với bố cục, nội dung bài văn miêu tả.
- Gọi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã tìm được trước lớp,để
cả lớp có thể theo dõi việc làm mẫu của bạn, vài em học sinh nhận xét.


2

15


Bộ lông
6
Đôi mắt

Đuôi

4

Chú gà trống
7

Mào

3

Tiếng gáy

Đôi chân

Dáng vẻ

5
1
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài.

Hướng dẫn các em diễn đạt mỗi một từ ngữ xoay quanh mạng thành ít nhất
một câu. Ví dụ: từ “Bộ lông ”. Diễn đạt thành câu: Đúng với cái tên, chú gà
trống có bộ lông vàng mượt như nhung và lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng.
Hay: Bộ lông của chú mượt, mịn màng và rất dày.
- Đầu chú hình hột xoài, đôi mắt nhỏ như hai cái nút áo. Cái mỏ màu vàng
trông thật cứng cáp.
- Cái mào đỏ thắm đội trên đỉnh đầu càng làm cho chú thêm phần đỏm dáng và
oai vệ.
- Bộ lông đuôi vừa dài vừa lượn cong, lại sặc sỡ tựa bảy sắc cầu vồng sau mưa.
Ở sơ đồ tư duy, cần lưu ý cho học sinh những chỗ có thể so sánh hay dùng từ
ngữ độc đáo thì có thể ghi chú.
Hoạt động 5: Trao đổi sửa chữa và nhận xét.
Đối với học sinh lớp 4 việc sửa chữa và tự nhận xét bài cho nhau là việc làm
rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà
soát lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết,
nó không chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu
văn, đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng
trình bày, diễn đạt vấn đề.
16


Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập
cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các
em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với
yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu văn,
ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em rất bỡ ngỡ, khó thực hiện,
tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực
hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của
mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự
nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập

cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý.
Ngoài ra, tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài
của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của
mình theo các bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa
những ý chưa hay, chưa phù hợp.
+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm của
mình.
Hoạt động 6: Dựa vào bài viết nháp đã sửa, học sinh viết bài vào vở cho hoàn
chỉnh.
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự
lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học văn
của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy
gọn, mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình
ảnh, đạt bài khá, bài giỏi ngày càng nhiều. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn
điển hình của các học sinh lớp tôi.
Bài số 1: Đề bài: Viết đoạn văn tả con vật nuôi trong gia đình?
Loài chim em yêu thích là chim bồ câu. Đó là m ột loài chim t ượng tr ưng
cho hòa bình. Ngày xưa, họ dùng bồ đưa câu để đưa th ư. S ở thích c ủa chúng
là sạch sẽ, chuồng đẹp, chúng ăn thóc và hạt dưa. Chim bồ câu có rất nhiều
màu: xanh lá cây đậm, màu đen nhưng em rất thích chim bồ câu tr ắng.
Chúng có mỏ màu vàng nhạt và nhỏ xíu. Đôi m ắt tròn xoe. B ộ lông m ượt
mà. Chúng thường nhặt những hạt thóc rơi vãi trên sân. Tiếng hót "gù gù..."
của chúng nghe thật êm đềm. Ôi, chúng thật đáng yêu!
Bài số 2: Đề bài: Tả chú gà trống nhà em nuôi hoặc của hàng xóm.
Bình minh vừa thức giấc. Bỗng, một tiếng gáy vang động đánh th ức
mọi người. Đó là tiếng gáy của con gà trống nhà em.
Chú khoác trên mình một tấm áo màu đỏ tía. Hai cánh và đuôi pha màu
xanh biếc. Đầu chú to bằng nắm tay em, chiếc mào hình bánh lái tàu đỏ
chót. Đôi mắt tròn xoe như hai hạt nhãn. Cái mỏ khoằm khoằm vàng s ậm.

Đôi chân màu vàng nghệ, cựa sắc và nhọn. Hai cái cánh to nh ư hai cái qu ạt.
17


Cái đuôi đủ màu sắc nhưng nổi hơn cả là màu đen, xanh cong cong nh ư
hình lưỡi liềm.
Hằng ngày, chú ta đánh thức cả xóm dậy với tiếng gáy quen thuộc “ Ò ó o!
o o …o”. lúc chú gáy, cái cổ phình lên, ngực ưỡn ra phía trước và cánh vỗ phành
phạch, trông thật hiên ngang như một chàng vệ sĩ. Tiếng gáy chú chỉ vừa cất lên,
là những chú gà trống khác trong xóm cất tiếng gáy theo.
Trong sinh hoạt với đàn, có lẽ chú là ng ười có t ấm lòng đ ộ l ượng bao
dung nhất. Mỗi lần em vãi thức ăn ra sân chú cũng ch ạy đến nh ưng không
thấy chú tranh giành với ai cả. Thậm chí có miếng mồi ngon chú cũng chia
năm sẻ bảy cho những cô mái tơ.
Em rất yêu chú gà trống này. Chú là chiếc đồng h ồ báo th ức ở xóm em,
thúc mọi người dậy đúng giờ để đi làm, còn tụi nh ỏ chúng em thì đ ến
trường.
Hoạt động 7: Nhận xét - tuyên dương.
- Tuyên dương trước lớp đối với bài viết xuất sắc và những bài viết có tiến bộ.
- Tặng bông hoa học tốt cho những bài làm hay.
- Khuyến khích học sinh học tập cách diễn đạt của những bạn có bài viết tốt.
- Giáo viên chỉ ra cho những em viết chưa tốt lỗi ở đâu? Cần sửa như thế nào?
Còn thiếu yếu tố gì?
4. Biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, đổi mới phương pháp
dạy học gắn với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy là một tất yếu
của sự phát triển. Việc ứng dụng tích hợp các phần mềm dạy học vào giảng dạy
làm cho bài học trở lên sinh động, phong phú, hấp dẫn và lôi cuốn với học sinh.
Ứng dụng phần mềm Powerpoint và phần mềm Violet vào giảng dạy giúp ích
rất nhiều trong quá trình hình thành kiến thức cho học sinh. Ứng dụng những

phần mềm này để đưa hình ảnh minh họa, đưa bài văn mẫu nhanh, gọn và hiệu
quả. Khi dạy văn miêu tả con vật, việc sưu tầm và tìm kiếm qua mạng Internet
giúp giáo viên có bộ sưu tầm rất phong phú để học sinh quan sát về các con vật
bằng những hình ảnh minh họa sinh động. Bên cạnh đó, dùng trình chiếu để cho
học sinh nghe tiếng kêu hay miêu tả ngoại hình, xem clip về hoạt động đặc thù
của con vật các em sẽ dễ dàng viết được câu văn có hình ảnh( so sánh hoặc nhân
hóa).
Việc đưa câu văn, đoạn văn hay bài văn mẫu để học sinh học tập trở lên
nhẹ nhàng, dễ dàng và phong phú hơn khi giáo viên dùng phần mềm trình
chiếu.Việc làm này rút ngắn được thời gian và hiệu quả lại rất cao vì đa số các
em học sinh rất chú ý, đồng thời đảm bảo mọi học sinh đều có thể quan sát được
mẫu. Khi đó, giáo viên có nhiều thời gian để phân tích câu văn hay, câu văn có
hình ảnh.
18


Đồng thời, giáo viên cũng có thể đưa nhiều câu văn, đoạn văn, bài văn mẫu
để phù hợp với hiểu biết của từng học sinh. Khi đưa mẫu bài văn về con vật, có
thể đưa bài văn về con gà, con lợn, con trâu, con chó, con mèo, con khỉ, con voi,
… phù hợp với các em học sinh về hiểu biết và sự yêu thích. Giờ học càng
phong phú và sinh động, phát huy được tính tích cực và chủ động của từng học
sinh.
D. Kết quả thực hiện
Qua việc nghiên cứu đề tài tôi thấy dạy văn miêu tả là một việc làm khó.
Song tôi cũng tự rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm vô cùng qúy báu.
Người giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng của phân môn Tập làm
văn, biết lựa chọn phương pháp phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lý nhằm
phát huy tính tích cực chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí
tuệ, cảm xúc, sự năng động sáng tạo trong học tập và giao tiếp. Chính vì học
sinh nắm được cấu tạo bài văn miêu tả con vật nên hầu hết các em làm văn đủ ý,

bố cục rõ ràng, nhiều em viết văn hay, sinh động. Qua việc tiến hành soạn giảng,
kết hợp các biện pháp đó đề xuất vào thực tế giảng dạy ở lớp thì kết quả giảng
dạy của tôi khả quan hơn nhiều. Cụ thể đề tài đó tiến hành thực nghiệm đến cuối
năm học ở tại lớp 4C, lớp tôi chủ nhiệm được sự đánh giá cao về mặt chuyên
môn của Ban giám hiệu và giáo viên trong trường.
7.2.Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Để đảm bảo tính khách quan của quá trình thực nghiệm, tôi lựa chọn 1 lớp
trong khối 4 của trường mình và 1 lớp trường tiểu học Kim Long, tương đương
nhau về trình độ để làm đối tượng thực nghiệm.Trong đó lớp thực nghiệm là lớp
4C trường tiểu học Kim Long B - huyện Tam Dương – Vĩnh Phúc ( tổng số 37
học sinh) và lớp đối chứng là lớp 4A trường Tiểu học Kim Long – huyện Tam
Dương – Vĩnh Phúc ( tổng số 36 học sinh)
Với lớp 4A trường Tiểu học Kim Long, giáo viên vẫn áp dụng các biện pháp
đã đề xuất như trên trong quá trình dạy tập làm văn miêu tả con vật. Sau thực
nghiệm, tôi đã tiến hành khảo sát để so sánh kết quả và rút ra kết luận.
Dưới đây là bảng thống kê các kết quả khảo sát trước và sau khi thực
nghiệm của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Bảng 1: Kết quả khảo sát của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng trước khi thực
nghiệm
Kết quả
Lớp
Lớp thực
nghiệm

TSH
S
37

Điểm 9; 10


Điểm 7; 8

Điểm 5; 6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

3

8,1%

7

18,9
%


22

59,5
%

5

13,5%
19


Lớp đối
chứng

36

4

11,1%

8

22,2
%

20

55,6%


4

11,1%

Bảng 2: Kết quả khảo sát của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng sau khi thực
nghiệm
Kết quả
Lớp
Lớp thực
nghiệm
Lớp đối
chứng

Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL


TL

SL

TL

37

9

24,4% 15

40,5
%

13

35,1
%

0

0%

36

5

13,9%


27,8
%

19

52,8% 2

TSH
S

10

5,5%

Bảng 3: Kết quả khảo sát của lớp thực nghiệm trước và sau khi thực nghiệm
Kết quả

Điểm 9; 10
TSHS SL
TL

Điểm 7; 8
SL TL

Điểm 5; 6
SL
TL

Điểm dưới 5

SL
TL

Trước khi
18,9
59,5
thực
37
3
8,1%
7
22
5
13,5%
%
%
nghiệm
Sau khi
24,4
40,5
35,1
thực
37
9
15
13
0
0%
%
%

%
nghiệm
- Nhìn vào kết quả trên, ta thấy chất lượng của học sinh sau khi thử nghiệm
nâng lên rõ rệt. Cụ thể: số học sinh đạt điểm 9 - 10 của lớp thực nghiệm tăng lên
3 lần; học sinh đạt điểm 5 - 6 giảm 1,7 lần và không còn học sinh nào đạt điểm
dưới 5.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Sau một thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp 4, qua các kết quả
kiểm tra, đề tài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những chuyển
biến rõ rệt trong việc học phân môn tập làm văn miêu tả con vật. Đồng thời, bản
thân tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Trước hết, người thầy giáo phải luôn có lòng yêu nghề, yêu người, có ý thức
trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụng
những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy.
20


- Nhiệm vụ quan trong bậc nhất của người giáo viên tiểu học là phải nắm
vững đối tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, hoàn cảnh và sở thích của
từng em cũng như tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Phân loại được học sinh, người
giáo viên mới có thể áp dụng những pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối
tượng học sinh, với từng cá thể học sinh.
- Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ đồng nghiệp, tham dự đầy
đủ các lớp tập huấn chuyên môn … để nắm bắt những thông tin về nội dung,
phương pháp của từng môn học. Từ đó, giáo viên mới có thể lập kế hoạch dạy
học và kế hoạch bài học một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức các
môn học và các lớp học với nhau.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia

áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung
sau:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
Điều đáng mừng là trong các tiết học tập làm văn, học sinh hào hứng hơn,
tích cực hoạt động hơn, biết tự nghiên cứu, tích cực làm việc theo nhóm một
cách chủ động, tự giác. Học sinh biết chăm chú lắng nghe bài làm của bạn và
đánh giá một cách tương đối chính xác, mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp,
không còn tình trạng học sinh nhút nhát, nói ấp úng. Còn giáo viên hạn chế việc
giảng giải thuyết trình, minh hoạ, hạn chế câu hỏi vụn vặt. Đặc biệt về chất
lượng bài viết có rất nhiều tiến bộ, số bài khá giỏi tăng lên rõ rệt.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sáng kiến được đưa ra tập huấn trước tổ khối chuyên môn, hội đồng sư
phạm nhà trường đã được tập thể đón nhận, đánh giá là sáng kiến hay. Đây là
sáng kiến đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 4, không chỉ
áp dụng trong trường, mà có thể áp dụng trong toàn huyện.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số Tên cá nhân
TT

Địa chỉ

1

Giáo viên dạy lớp Sáng kiến áp dụng rộng rãi
4C trường TH cho giáo viên trong trường,
Kim Long B
huyện phục vụ công tác

giảng dạy môn Tiếng Việt
Lớp 4.

Tạ Thị Ngọc Tuyết

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

21


Kim Long, ngày

tháng 3 năm 2020

Kim Long, ngày

tháng 3 năm 2020

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến

(Ký tên, đóng dấu)

(Ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Lệ Hương

Tạ Thị Ngọc Tuyết


22



×