Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho HS lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.37 KB, 28 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh
lớp 5
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy trong trường Tiểu học.
3.Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Chung Thủy
Ngày tháng/ năm sinh:

Giới tính: Nữ

28-03- 1975

Trình độ chuyên môn: Đại học Tiểu học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Sao Đỏ 1.
Điện thoại: 0972110595
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Sao Đỏ 1
Địa chỉ: Phố Hùng Vương Phường Sao Đỏ- Thị xã Chí Linh.
Điện thoại: 03023882668
5. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến:
- Sáng kiến cần sự phối hợp của giáo viên và học sinh lớp 5.
- Cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học: Thư viện, mạng Internet, sách tham khảo,
truyện thiếu nhi…..
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013-2014
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN
CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Chung Thủy

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 5, tôi nhận thấy bài viết của các
em hầu như chỉ diễn đạt được nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ
chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống
và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Mặt khác thói quen lười biếng, thụ động của
các em làm cùn mòn, thủ tiêu cảm hứng học văn. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn
khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích môn văn? Làm thế nào để
các em có thể tiếp cận với cái đẹp của thiên nhiên, đất nước, để các em bộc lộ chân
thực được cảm xúc của chính bản thân các em qua đó phát triển nhân cách và tâm hồn
cho các em.
Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5. Tôi đã cố
gắng dùng mọi khả năng và kinh nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn
học đang ẩn giấu trong mỗi học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình
bày “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 5” .
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Điều kiện áp dụng: Phân môn Tập làm văn lớp 5, thể loại văn miêu tả.
- Thời gian áp dụng: Năm học 2013-2104 .
- Đối tượng áp dụng: Giáo viên và học sinh khối 5 học 2 buổi/ ngày.
3. Nội dung sáng kiến:
- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Giúp giáo viên và học sinh dạy và học tốt phân môn tập làm văn thể loại văn miêu
tả.Cụ thể:
+ Giúp giáo viên hiểu rõ thêm về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học qua cách
học và làm văn.
+ Giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ thêm về tầm quan trọng và mối liên hệ mật thiết
giữa các phân môn của môn Tiếng Việt.
+ Giúp học sinh lớp 5 biết cách làm thế nào để làm văn miêu tả đúng và hay.
2



+ Đưa ra hệ thống một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn
miêu tả cho học sinh lớp 5.
- Khả năng áp dụng của sáng kiến:
+ Sáng kiến giúp giáo viên và học sinh có định hướng cụ thể hơn về việc dạy văn miêu
tả trong chương trình lớp 5.
+ Sáng kiến có thể áp dụng cho học sinh lớp 5.
4. Giá trị đạt được của sáng kiến.
- Qua một năm giảng dạy và áp dụng những biện pháp của sáng kiến, tôi thấy chất
lượng làm văn của học sinh lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt. Từng bước khắc phục
những khó khăn của học sinh.
- Các em nói, viết được những đoạn văn, bài văn đúng với yêu cầu của chương trình.
- Các em say mê, ham thích đọc và nghe các tác phẩm văn học, mong muốn học cách
diễn đạt chuẩn mực, tinh tế các tác phẩm văn học vận dụng vào việc bày tỏ ý nghĩ và
tình cảm của mình trong bài văn thật tự nhiên và sâu sắc.
- Qua các bài làm văn, các em đã bộc lộ được vốn sống thực tế của mình để viết được
bài văn hay, từ đó tạo điều kiện cho các em cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn một
cách tinh tế và sâu sắc.
5. Kiến nghị.
+ Giảm sĩ số trong mỗi lớp.
+ Trang bị các phương tiện như: ti vi, bàn ghế, … cho các phòng học để giáo viên thực
hiện nhiệm vụ giáo dục áp dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh một
cách có hiệu quả.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:

Mục tiêu của giáo dục Tiểu học hiện nay là giáo dục toàn diện về : Đức, trí, thể mĩ
cho học sinh. Thông qua các môn học được quy định trong trường tiểu học, người giáo
viên phải hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức và kĩ năng cơ bản nhất,
giúp các em hăng say học tập, có lòng tin vào bản thân. Ham thích tìm hiểu thể giới
xung quanh , có ý thức và mơ ước đem tài năng, sức lực của mình góp phần vào công
cuộc xây dựng đất nước trở nên giàu đẹp và hạnh phúc hơn.
Tiếng Việt là môn học trung tâm ở trường tiểu học. Học Tiếng Việt, học sinh được
trang bị những kiến thức cơ bản và tối cần thiết giúp các em hoà nhập với cộng đồng
và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh.
Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với
chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. ( M.R. Lơvốp - Cẩm nang dạy học Tiếng
Nga. Và phân môn tổng hợp cần vận dụng đủ bốn kĩ năng trên là phân môn Tập làm
văn.
Sản phẩm của Tập làm văn là các ngôn bản ở dạng nói và viết theo các dạng lời nói,
kiểu bài văn do chương trình quy định, nói cách khác, mục đích của Tập làm văn là tạo
tạo lập được ngôn bản. Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản của dạy học Tập làm văn là giúp cho
học sinh tạo ra được lập được ngôn bản nói và viết theo các phong cách khác do
chương trình quy định.
Ngoài các kĩ năng chung để viết văn bản, mỗi loại văn bản cụ thể đòi hỏi có những kĩ
năng đặc thù. Ví dụ để viết văn miêu tả cần có kĩ năng quan sát, kĩ năng diễn đạt một
cách có hình ảnh. Mục tiêu của việc dạy và học văn miêu tả là tạo ra những ngôn bản
“ có cảm xúc” trong mỗi bài văn, nói lên được cái hay cái đẹp về cuộc sống xung
quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà
chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn
học sinh viết văn rất khô khan.
4


Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 5, tôi nhận thấy bài viết của các

em hầu như chỉ diễn đạt được nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ
chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống
và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và
trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em viết được bài văn hay?
Để làm được điều này, từ những ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ giảng dạy lớp 5, tôi đã
dùng mọi khả năng và kinh nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học
đang ẩn giấu trong mỗi học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày
“ Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 5”.
2. Cơ sở lí luận:
2.1.Vị trí, nhiệm vụ và yêu cầu của phân môn Tập làm văn
Những lời được chúng ta nói hoặc viết ra khi giao tiếp với nhau được gọi là ngôn bản.
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sản sinh ngôn bản. Nó có vị trí đặc
biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ, bởi vì: Thứ nhất, đây là phân môn sử dụng và
hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng Tiếng Việt mà các phân môn
Tiếng Việt khác - Học vần, tập viết, chính tả, tập đọc, luyện từ và câu- đã hình thành.
Thứ hai, phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh kĩ năng sản sinh ngôn bản, nhờ đó
Tiếng Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở
thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Như vậy phân môn Tập làm văn đã thực hiện
mục tiêu cuối cùng , quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng
được Tiếng Việt để giao tiếp, tư duy và học tập.
Trong phân môn Tập làm văn, văn miêu tả chiếm vị trí rất quan trọng. Dạy và học tốt
văn miêu tả giúp học sinh biết quan sát, tìm tòi và phát hiện những điều hay, điều mới
mẻ, thú vị về thế giới xung quanh. Qua những quan sát đó các em truyền được những
cảm xúc của mình vào đối tượng miêu tả, biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu
cảm, viết được những câu văn sáng rõ về nội dung và chân thực về tình cảm.
Văn miêu tả được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay là bài
văn mà khi đọc, chúng ta thấy được trước mắt mình con người, cảnh vật, đồ vật,… rõ
5



ràng, sống động như thực tế nó tồn tại trong cuộc sống. Đó sẽ là bức tranh về sự vật
bằng ngôn từ. Và để thể hiện được bức tranh đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến
thức tổng hợp của các môn học. Ngược lại, tất cả các môn học cũng đều phải sử dụng
đến hành văn để làm: Lịch sử, Địa lí, Toán và các phân môn khác của Tiếng việt, …
môn Tập làm văn còn có tầm quan trọng cho đến cả cuộc sống sau này của các em.
Một học sinh làm văn tốt thì ăn nói mới lưu loát được, muốn có một bài “diễn thuyết”
giỏi mang tính thuyết phục thì cũng phải có hành văn tốt. Vậy có thể nói môn Tập làm
văn có tầm ảnh hưởng rất lớn trong cả một thế hệ con người.Vậy thì ngay trong nhà
trường phải dạy như thế nào để các em có thể lĩnh hội môn này một cách tốt nhất, làm
sao để phát huy khả năng của học sinh, phát huy ngôn ngữ của học sinh đó là một vấn
đề mà mỗi người giáo viên chúng ta cần phải suy nghĩ dạy như thế nào để có chất
lượng.
2.2.Nội dung chương trình phân môn tập làm văn lớp 5:
Ở lớp 5, Tập làm văn được học 35 tuần, mỗi tuần 2 tiết.
+ Tập làm văn ở lớp 5 thường gắn với các chủ điểm của môn tập đọc. Tập một gồm 5
chủ điểm học trong 18 tuần, tập hai gồm 5 chủ điểm, học trong 17 tuần.
+ Dạy bài mới và ôn tập:
* 31 tuần học bài mới.
* 4 tuần ôn tập và kiểm tra định kỳ (tuần 10, tuần 18, tuần 28, tuần 35).
+ Cấu trúc chương trình Tập làm văn:
Loại văn miêu tả:
* Tả cảnh: 14 tiết. HKI-Cả năm 14 tiết.
* Tả người: 8 tiết. HKI-HKII 4 tiết.
* Các loại văn bản khác: 36 tiết.
+ Các kỹ năng làm văn:
Việc sản sinh ra một văn bản thường có 4 giai đoạn:
* Giai đoạn định hướng:
- Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn đề bài( kĩ năng tìm hiểu đề)
6



- Kĩ năng xác định tư tưởng của bài viết.
* Giai đoạn lập chương trình
- Kĩ năng tìm ý( thu thập tài liệu cho bài viết)
- Kĩ năng lập dàn ý bài văn đã cho ( hệ thống hóa, lựa chọn tài liệu)
* Giai đoạn hiện thực hóa chương trình:
- Kĩ năng diễn đạt ( dùng từ đặt câu) thể hiện chính xác, đúng đắn phong cách bài
văn, tư tưởng bài văn.
- Kĩ năng viết đoạn, viết bài theo phong cách khác nhau ( miêu tả, kể chuyện, viết
thư…)
- Liên kết các đoạn thành bài văn.
* Giai đoạn kiểm tra văn bản mới hoàn thành.
+ Kĩ năng hoàn thiện bài viết( phát hiện và sửa chữa lỗi)
3. Thực trạng của việc dạy tập làm văn - thể loại văn miêu tả lớp 5 ở trường tiểu
học:
- Trong những năm học vừa qua, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 5. Qua quá
trình giảng dạy và qua việc dự giờ để học tập chuyên môn ở các đồng nghiệp. Tôi nhận
thấy việc làm văn miêu tả ở lớp 5 còn gặp một số khó khăn hạn chế :
3.1.Về phía giáo viên.
Dạy Tập làm văn nói chung và dạy văn miêu tả nói riêng là một việc khó đối với bất
kì giáo viên nào. Trong quá trình giảng dạy, hai thái cực thường xảy ra:
- Một số giáo viên hướng dẫn chung chung để học sinh tự mày mò làm bài.
- Hướng dẫn học sinh học theo văn mẫu, để mỗi khi có bài kiểm tra học sinh chỉ việc
sao chép.
Những cách làm trên đều khiến học sinh không biết làm văn, rất ngại học văn và làm
thui chột tư duy văn học của các em dù tình yêu văn học vẫn có ( Ví dụ các em rất thích
đọc truyện, thích quan sát thiên nhiên…) Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, một
phần là do trình độ nhận thức, năng lực sư phạm của giáo viên, cũng có thể chính ngay

7



trong giáo viên cũng thiếu những tri thức khoa học, cảm xúc của người dạy khô cứng,
thiếu phương pháp kĩ năng, thậm trí thiếu cả vốn sống thực tế.
3.2. Về phía học sinh.
- Tư duy của học sinh Tiểu học là tư duy trực quan, cụ thể nên trong quá trình làm
văn học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa
đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn chưa cao.
- Vốn sống, vốn kiến thức từ sách vở còn thiếu và có nhiều lỗ hổng.
- Học sinh chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với
các tác phẩm văn học.
- Cuộc sống hiện đại với các thiết bị công nghệ thông tin đang hằng ngày bủa vây
xung quanh các em bằng rất nhiều các trò giải trí hấp dẫn, đa dạng, phong
phú….Chúng khiến nhiều em mắc chứng “ nghiện”, chúng khiến các em quên đi thế
giới hấp dẫn của thiên nhiên xung quanh các em. Đó là thế giới của ruộng đồng, cây
cỏ, côn trùng, của mưa, của gió .. Đây là thế giới có khả năng làm phong phú tâm hồn
tuổi thơ và rèn luyện óc quan sát, nhận xét.
- Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ. Phần lớn học sinh tiểu
học ít quan tâm đến việc đọc và có đọc thường là truyện tranh, thậm chí có những
truyện tranh không mang tính giáo dục. Việc trò chuyện, tiếp xúc với bố mẹ, với những
người thân trong gia đình và cộng đồng cũng rất hạn chế bởi những lí do: người lớn thì
bận công việc còn các em thì ở trường cả ngày, tối về lại ôn bài
- Từ việc khảo sát thực trạng học tập làm văn của học sinh tôi đã cho khảo sát chất
lượng làm văn của học sinh lớp tôi giảng dạy để làm cơ sở kiểm chứng thực nghiệm
sau này:
Đề bài: Tả cảnh một buổi sáng (trưa hay chiều) trong vườn cây ( hay trong công
viên, trên đường phố, trên cánh đồng)
Kết quả cụ thể như sau:

8



Lớp

5B

Số HS

35

Điểm Giỏi
SL
13

TL%
37.1

Điểm Khá
SL
10

TL%
28.6

Điểm TB
SL
11

TL%
31.4


Điểm dưới
TB
SL TL%
1
2.9

Kết quả trên cho thấy, mặc dù là lớp có chất lượng đầu vào tương đối tốt với so
với các lớp trong khối nhưng kết quả điểm khá, giỏi chưa cao, vẫn còn trên 30 % điểm
là điểm trung bình và dưới trung bình.
- Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng làm văn của học sinh
lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn.
* Tóm lại: Qua quá trình tìm hiểu thực tiễn dạy và học Tập làm văn trong trường Tiểu
học, tôi nhận thấy một nét tâm lí khá phổ biến trong nhà trường là rất ngại dạy Tập làm
văn. Trong quá trình dạy, giáo viên chưa thu hút được sự chú ý của học sinh, bài dạy
chưa thu hút được sự chú ý của học sinh, bài dạy chưa đủ sức hấp dẫn đối với các em,
chưa phát huy có hiệu quả vốn sống, việc sử dụng ngôn ngữ của các em. Trong phạm
vi sáng kiến này tôi đã đưa ra một số biện pháp nhằm giúp giáo viên và học sinh lớp 5B
dạy và học tốt hơn nữa phân môn tập làm văn và đặc biệt là thể loại văn miêu tả để
đồng nghiệp tham khảo.
4. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học sinh lớp 5
4.1.Bồi dưỡng vốn sống:
Hiện nay, nhiều GV khi dạy làm văn cho HS thường thiên về dạy các kĩ thuật làm bài
mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nên nội dung bài viết. Thường GV ra một
đề làm văn và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn HS thì gắng đọc thật nhiều bài văn mẫu,
thậm chí có em bê nguyên bài của người khác vào bài làm của mình. Khi thấy một HS
ngồi trước một đề văn hàng 15- 20 phút chưa viết được, GV thường cho rằng các em
không nắm được lí thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu rằng nguyên nhân
đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là do các em đã không tạo được một quan hệ
thân thiết giữa mình và đề bài- đối tượng của miêu tả, kể…, nghĩa là các em không có nội

dung, không có gì để nói, để viết về cái đó, Nguyên nhân của tình trạng trên là việc thiếu
hụt vốn sống, vốn cảm xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Trước hết đó là
9


vốn sống trực tiếp. GV cho các em quan sát bằng nhiều giác quan những gì các em sẽ
viết.
Để tả con đường từ nhà đến trường, học sinh cần quan sát một con đường cụ thể
bằng các giác quan khác nhau và có những ghi chép cụ thể những điều đã quan sát
trước khi tả con đường đó. Hoặc GV tổ chức cho các em tham quan một danh lam
thắng cảnh của địa phương trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham quan.
Cần tổ chức tốt quá trình quan sát, tham quan thực tế của HS. Khi HS tham quan hoặc
quan sát, GV nên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy
nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần
phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được tham
quan. Bên cạnh đó , giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen
đọc sách. Làm cho sách trở thành một “ sự tôn sùng” ngự trị trong tâm hồn các em,
làm cho sách trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu, phải làm cho học sinh
thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống đầy đủ
và phát triển, đó sẽ là điều kiện các em yêu thích học văn, viết văn. Đọc sách cũng
làm các em phong phú vốn từ, có chất liệu cần thiết để giúp các em viết tốt một bài
văn. Chúng ta cũng cần cho các em lập “ Sổ tay văn học” để ghi nhớ những từ ngữ
hay, những hình ảnh đẹp, những câu văn, đoạn thơ mà các em yêu thích hoặc những
điều mà các em cảm nhận được. Đó là những chất liệu cần thiếu giúp các em làm văn
hay hơn. Như người xưa nói: “Trong bụng chưa có ba vạn quyển sách, trong mắt
chưa có núi sông kì lạ của thiên hạ thì chưa học được văn” .
4.2 Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học:
Cảm thụ văn học là một quá trình hoạt động nhận thức thẩm mĩ rất đặc biệt, phức
tạp và có tính sáng tạo. Quá trình cảm thụ văn học là quá trình nhận thức cái đẹp được
chứa đựng trong thế giới ngôn từ - hệ thống hoá tín hiệu thứ hai của loài người. Quá

trình này còn mang tính chất chủ quan vì nó phụ thuộc vào vốn sống, vốn kinh nghiệm,
hiểu biết riêng của người cảm thụ văn học. Hiểu một cách đơn giản, cảm thụ văn học là
sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể
10


hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài thơ,…) hay một bộ phận của tác phẩm
(đoạn văn, đoạn thơ, thậm chí một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ). Ví dụ như
khi dạy bài “ Tình quê hương” của Nguyễn Khải, đoạn văn mở đầu như sau: “ Phía
làng quê….mảnh đất cộc cằn này.” Từ cần khai thác ở đoạn này là từ “ mãnh liệt” , “
day dứt” để nói lên tình yêu quê hương tha thiết của anh bộ đội.
Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của HS nên bồi dưỡng năng lực
cảm thụ văn học trước hết là cần tạo điều kiện để HS tiếp xúc với tác phẩm, cần tôn
trọng những suy nghĩ cảm xúc thực, thơ ngây của trẻ em và nâng chúng lên ở chất
lượng cao hơn. Đồng thời với việc bồi dưỡng vốn sống và tạo điều kiện cho học sinh
được tiếp cận với các tác phẩm văn học nghệ thuật cần trang bị cho các em một số kiến
thức về văn học như: hình ảnh, chi tiết, kết cấu tác phẩm, các đặc trưng của ngôn ngữ
nghệ thuật, một số biện pháp tu từ… Ví dụ như có bài bố cục rất chặt chẽ như bài “
Buổi sáng mùa hè trong thung lũng”. Tác giả tả lúc còn tối ( trong đoạn chỉ có âm
thanh và lửa), lúc mặt trời mọc ( tả màu sắc), lúc mặt trời lên cao ( tả sự hoạt động).
Bài “ Hoa học trò” thì người lại, tác giả đã sử dụng bố cục đảo. Tác giả tả hoa phượng
lúc rộ nhất, màu sắc đậm nhất, sau đó mới tả khi phượng ra lá non, ra nụ.
Để trau dồi năng lực cảm thụ văn học ở HS lớp 5, GV cần giúp HS nắm vững kiến
thức cơ bản trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5. Có hiểu biết về ngữ âm và chữ
viết tiếng Việt, HS mới dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp của câu thơ tả cảnh mùa hạ của
Nguyễn Du:
Dưới trăng quyên mới gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
Bằng việc láy âm l- lửa lựu lập lòe- , bằng việc phối hợp các thanh điệu một cách hài
hòa đã cho người đọc nhìn thấy trạng thái không nhìn thấy rõ ràng ổn định, lúc mờ, lúc

tỏ, lúc thấp lúc cao. Những cảm nhận đó giúp học sinh thấy được hình ảnh sắc đó của
hoa lựu như sắc lửa khi ẩn khi hiện báo hiệu không khí oi bức của mùa hè đang đến
gần.

11


Nắm vững kiến thức ngữ pháp tiếng Việt, HS sẽ không thể chỉ nói- viết tốt mà còn
có thể cảm nhận được nét đẹp của nội dung qua những hình thức diễn đạt sinh động
và sáng tạo.
Khi tìm hiểu một văn bản trên lớp, để tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của bài văn, bài thơ,
cảm thụ văn học tốt hơn GV cần hướng dẫn về một số biện pháp nghệ thuật tu từ thuộc
yêu cầu chương trình lớp 5 như: so sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ…Để làm được
bài văn về cảm thụ văn học đạt kết quả tốt GV cần hướng dẫn HS thực hiện những việc
sau:
- Đọc kỹ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập( phải trả lời được điều gì? Cần nêu bật
được ý gì?...)
- Đọc và tìm hiểu về câu thơ, câu văn hoặc đoạn trích được nêu trong đề bài.
- Viết đoạn văn về cảm thụ văn học hướng vào yêu cầu của đề bài.
Nắm vững yêu cầu về cảm thụ văn học, kiên trì rèn luyện từng bước, nhất định các
em sẽ viết được những đoạn văn hay về cảm thụ văn học, sẽ có được năng lực cảm thụ
văn học tốt để phát hiện biết bao điều đáng quý trong văn học và trong cuộc sống của
chúng ta.
4.3.Cung cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề:
Chương trình Tiếng Việt có các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,
TLV làm cơ sở để các em học tốt phân môn TLV. Tuy nhiên nội dung SGK Tiếng Việt
thường không đáp ứng được. Đối chiếu SGK Tiếng Việt 4, 5 ta thấy: Khi dạy một thể
loại TLV thì nội dung của phân môn Tập đọc, Từ ngữ tương ứng nhằm cung cấp cho
HS vốn từ ngữ học thể loại này là rất ít. Tất nhiên chúng ta đều biết rằng vốn từ ngữ
của các em được tích luỹ từ lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và cả suốt những năm đầu ở bậc

Tiểu học. Nhưng vốn từ ấy thực sự vẫn chưa đủ để các em làm tốt bài TLV nếu không
được cung cấp thêm các từ ngữ theo chủ đề. Để hỗ trợ HS, GV cần soạn thêm vốn từ
ngữ giúp các em tham khảo để làm văn.
4.4.Khai thác sự chủ động sáng tạo, suy nghĩ tìm ý trên cơ sở quan sát, liên
tưởng hoặc hồi tưởng bằng hệ thống câu hỏi mở:
12


Ví dụ 1: Tả quang cảnh trường em trước buổi học (Đề bài TLV 5).
Một số câu hỏi khai thác ý đòi hỏi sự quan sát:
- Tả khu vực sân trường: Sân trường rộng hay hẹp? Cây cối trồng trên sân đã cao lớn
chưa? Có tán toả bóng mát cho các em trong giờ chơi chưa hay chỉ là khu đất nắng chói
chang?
- Tả bồn hoa: Bồn hoa được trồng ở trước các lớp học với nhiều loài hoa màu sắc rực
rỡ, nhiều cây xanh hay chỉ toàn những cây cỏ dại?
- Tả bảng tin: Bảng tin thường xuyên có những thông tin mới hay thường ngày chỉ là
một mặt gỗ sơn đen phẳng lì, im lìm?
4.5. Rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng viết trong giờ TLV lớp 5.
* Rèn luyện kĩ năng nói:
Cùng với kĩ năng đọc, viết, nghe phân môn TLV ở lớp 5 dạy cho HS kĩ năng nói
trong các giờ học văn kể chuyện, miêu tả và một số loại văn khác. Thông qua các bài
tập thực hành luyện nói theo đề tài hoặc tình huống cho trước, GV hướng dẫn HS thực
hiện tốt những yêu cầu sau:
- Xác định rõ nội dung cần nói( nói về nội dung gì, gồm những ý nào, sắp xếp các ý
đo ra sao,…).
Ví dụ: (Đề bài TLV 5 - Luyện tập thuyết trình, tranh luận):Hãy trình bày ý kiến của
em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài ca
dao sau:
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn?

Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây?
Sau khi tìm ý, sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí để thuyết trình về vấn đề nêu ra trong
đề bài, HS có thể chọn từ, tạo câu để triể khai các ý cần nói thành một đoạn văn và liên
kết các đoạn thành bài thuyết trình ngắn như sau:

13


Theo em trong cuộc sống, cả đèn lẫn trăng đều rất cần thiết đối với con người. Nếu
chỉ có đèn mà không có trăng thì khi đèn bị gió thổi tắt, trái đất sẽ tối tăm, con người
khó làm việc được, cuộc sống rất buồn tẻ. Nếu chỉ có trăng mà không có đèn thì nhiều
khi trên trái đất sẽ rất tối vì trăng chỉ sang một số ngày trong tháng và có lúc trăng bị
mây che khuất…Trăng toả sáng trên trái đất làm cho mọi vật thêm tươi đẹp, cuộc sống
thêm vui. Đèn gần gũi, soi sáng cho con người học tập, làm việc và cũng làm cho cuộc
sống thêm đẹp. Do vậy, cả trăng và đèn đều cần thiết đối với cuộc sống con người.
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn bè, cô giáo, thầy giáo để tự kiểm tra, đối chiếu
văn bản nói của bản than với mục đích giao tiếp và yêu cầu diiễn đạt; biết sửa lỗi về nội
dung, hình thức diễn đạt.
- Tổ chức cho học sinh nhập vai các câu chuyện, đọc diễn cảm, trao đổi, tranh luận…
để tự tìm ra những thông điệp mà văn bản muốn gửi gắm, từ đó rút ra bài học như thế
học sinh sẽ chủ động tiếp cận vấn đề.
Quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho HS theo những yêu cầu trên, GV vừa giúp các
em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển tư duy, vừa tạo điều kiện cho
kĩ năng viết phát triển tốt.
* Rèn luyện kĩ năng viết:
Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), HS
có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so
sánh, nhân hoá,…) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, HS cũng cần đạt được những
yêu cầu rèn luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn, lời văn viết vừa cần rõ ý

vừa cần sinh động, bộc lộ được cảm xúc; bố cục bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng
đoạn và cả bài. Các bài học về phân môn TLV trong SGK Tiếng Việt 5 được xây dựng
trên cơ sở qui trình sản sinh ngôn bản và chú trọng các kĩ năng bộ phận. Kĩ năng viết
của HS được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn
hoàn chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn luyện kĩ năng viết, GV cần giúp HS thực hiện
tốt những yêu cầu sau:

14


- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện
yêu
- Cần viết theo loại văn, kiểu bài đã học- tương tự một số yêu cầu rèn luyện kĩ năng
nói.
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần thân bài,
viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng, không mở rộng) sao
cho có sự liền mạch về ý, các ý trong được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm
minh hoạ, cụ thể hoá ý chính.
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể hiện
cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một văn bản hoàn
chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (Mở bài, than bài ,kết bài). Lời văn trong bài
cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ:
+ Tả cảnh thường dụng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm, ; có thể so sánh,
nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ cảm xúc trước sự
vật được miêu tả trong cảnh.
+ Những từ ngữ thường dùng trong văn miêu tả là những từ
+ Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm thanh; từ ngữ
chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so
sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả.
5. Kết quả đạt được:

5.1 Dạy học thực nghiệm:
Với các biện pháp đã áp dụng như trên tôi đã tiến hành soạn giảng trong các tiết
học Tập làm văn và tiết Tiếng Việt tăng ( có phụ lục kèm theo). Sau quá trình áp dụng
tôi đã cho lớp làm bài kiểm tra với đề bài:
Đề bài: Tả một cảnh đẹp ở quê hương em.
Sau đây là kết quả đối chứng chất lượng làm văn đầu năm và cuối năm học 20132014 của lớp tôi như sau.
15


5.2. Kết quả đối chứng đầu năm và cuối năm học 2013-2014
Khảo

Sĩ số

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

sát
Đầu

h/s
35


9-10
13

7- 8
10

5- 6
11

3- 4
0

1- 2
0

năm
Cuối

35

26

9

0

0

0


năm
- Qua một năm giảng dạy và áp dụng những biện pháp trên tôi thấy chất lượng làm văn
của học sinh lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt. Từng bước khắc phục những khó khăn đã
nêu ở trên.
Các em nói, viết được những đoạn văn, bài văn đúng với yêu cầu của chương trình.
- Các em say mê, ham thích đọc và nghe các tác phẩm văn học, mong muốn học cách
diễn đạt chuẩn mực, tinh tế các tác phẩm văn học vận dụng vào việc bày tỏ ý nghĩ và
tình cảm của mình trong bài văn thật tự nhiên và sâu sắc.
- Qua các bài làm văn, các em đã bộc lộ được vốn sống thực tế của mình để viết được
bài văn hay, từ đó tạo điều kiện cho các em cảm nhận được vể đẹp của thơ văn một
cách tinh tế và sâu sắc.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
- Đề tài này có thể áp dụng vận dụng trong quá trình dạy tập làm văn cho mọi đối
tượng học sinh lớp 5 trong các nhà trường đều có thể tham khảo.

16


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, tôi khẳng định mục đích nghiên cứu đặt ra đã hoàn
tất. Trong quá trình nghiên cứu, tôi rút ra một số kết luận sau:
- Để nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 5, trước tiên giáo viên phải
vững về kiến thức, kĩ năng thực hành Tiếng Việt, có vốn sống, vốn cảm xúc phong phú.
- Thực sự yêu nghề, tâm huyết với nghề.
- Thường xuyên trau dồi, học hỏi kiến thức, đọc sách báo để ngày càng làm phong phú
thêm vốn kiến thức của mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo án một cách khoa học.
- Giáo viên phải là người khơi dậy sự say mê hứng thú đối với việc học văn và làm văn,
luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập.

Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên biết sáng tạo, phối hợp
hài hoà nhiều yếu tố. Môn Tập làm văn quả là khó đối với học sinh. Mỗi bài văn của
các em là một sáng tạo riêng, một tác phẩm riêng. Các tác phẩm này có thể hay hoặc dở
. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Hiểu rõ các yếu tố này ,tôi đã khắc phục mọi
khó khăn để giúp học sinh của mình ngày càng yêu thích học văn và làm văn hơn. Và
thực tế tôi nhận thấy học sinh ngày càng học văn hiệu quả hơn.
Tôi đã áp dụng kết quả nghiên cứu vào giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5.
Trong năm học 2013-2014 lớp tôi có 35 học sinh tham gia thi học sinh giỏi cấp Thị xã
thì 33 em đạt loại giỏi, 2 em đạt loại khá môn Tiếng Việt. Đặc biệt trong kì thi học sinh
giỏi toàn diện các cấp, đội tuyển học sinh giỏi do tôi bồi dưỡng đạt kết quả tương đối
cao: năm học 2013- 2014 có 35em dự học sinh giỏi cấp Thị xã, 15 học sinh được tham
gia thi cấp tỉnh có 2 em đạt giải Ba, 4 em đạt giải Khuyến khích. Trường đạt giải Nhất
cấp Thị xã.
Với kết quả đạt được như trên đã giúp tôi tự tin, mạnh dạn báo cáo kinh nghiệm trước
hội đồng khoa học nhà trường và được đánh giá cao. Đó là niềm động viên, khích lệ
giúp tôi ngày càng hăng say nghiên cứu, tìm tòi để nâng cao trình độ chuyên môn.
17


* Những vấn đề còn bỏ ngỏ:
Đề tài đã đưa ra được một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học
sinh lớp Năm. Những vấn đề còn lại đã được đặt ra trong phần thực trạng sẽ là định
hướng nghiên cứu tiếp của sáng kiến ở một giai đoạn và mức độ khác.
2. Kiến nghị và đề xuất:
Để kết quả của đề tài có thể được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả, tôi xin có một số ý
kiến đề xuất sau đây:
* Với các cấp lãnh đạo:
+ Giảm sĩ số trong mỗi lớp, làm sao trong mỗi lớp chỉ có từ 30 - 35 em để công tác
giảng dạy được chặt chẽ và quan tâm kịp thời đến từng học sinh.
+ Trang bị các phương tiện như: ti vi, bàn ghế, … cho các phòng học để giáo viên

thực hiện nhiệm vụ giáo dục áp dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh
một cách có hiệu quả.
+ Thường xuyên mở các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề với các chuyên gia về
dạy và học Tập làm văn để giáo viên được tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm trong công tác
giảng dạy.
+ Trong các kỳ hội giảng, hội thi nên khuyến khích giáo viên dạy Tập làm văn để trao
đổi tìm ra phương pháp hay.
+ Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những phương tiện
thông tin hiện đại, máy tính nối mạng Internet để giáo viên có thể tra cứu, tìm các
thông tin phục vụ cho bài dạy.
* Đối với Ban giám hiệu nhà trường:
+ Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo phục vụ
cho giảng dạy nhất là các tạp chí: Giáo dục tiểu học, Thế giới trong ta,... các sách tham
khảo chuyên sâu về Tiếng Việt hoặc sách chuyên sâu về phân môn Tập làm văn.
+ Nâng cao hiệu quả các giờ sinh hoạt chuyên môn, khuyến khích giáo viên đầu tư
trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất soạn giáo án tập thể để phát huy sở trường
của từng cá nhân và sức mạnh của cả tập thể.
18


+ Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan du lịch để
nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học sinh học tập làm
văn . Do không có nhiều thời gian nghiên cứu và trình độ, kinh nghiệm có hạn nên
những vấn đề nêu trên không khỏi có sai sót. Tôi mong nhận được những góp ý, phê
bình của Ban giám hiệu nhà trường, của các bạn đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh
nghiệm trong quá trình dạy học ngày một tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Lê Phương Nga- Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở Tiểu học- NXB ĐHSP
2. Luyện tập về cảm thụ văn học- Tác giả Trần Mạnh Hưởng.
3. Phương Nga- Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
4. Tài liệu của các bạn đồng nghiệp trên mạng Internet.

20


MỤC LỤC
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
MÔ TẢ SÁNG KIẾN

1
2
4

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
2. Cơ sở lí luận.

4
5

3. Thực trạng của việc dạy tập làm văn thể loại miêu tả lớp 5 ở trường 7
tiểu học.
4. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả cho học 9
sinh lớp 5

5. Kết quả đạt được
6. Điều kiện để áp dụng sáng kiến.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

17
18
19

1. Kết luận

19

2.Kiến nghị

20

21


Giáo án 1
TẬP LÀM VĂN
LUYỆN TẬP TẢ CẢNH
I. Mục tiêu:
1. Biết lập dàn ý cho bài văn miêu tả cảnh đẹp ở địa phương đủ 3 phần: Mở bài, thân
bài, kết bài.- Một dàn ý với các ý riêng của mỗi học sinh.
2. Biết chuyển một phần trong dàn ý đã lập thành đoạn văn hoàn chỉnh (thể hiện rõ đối
tượng miêu tả, trình tự miêu tả, nét đặt sắc của cảnh, cảm xúc của người tả đối với
cảnh).
3. Giáo dục học sinh ý thức được trong việc viết bài văn miêu tả thể hiện được nét đặc
sắc của cảnh, tả chân thực, không sáo rỗng.

II. Chuẩn bị:
- GV : VCD cảnh đẹp ở địa phương: Khu di tích lịch sử Côn Sơn- Kiếp Bạc, Công viên
Hồ Mật Sơn, Đền thờ thầy giáo Chu Văn An, Sông Kinh Thầy, cánh đồng lúa …- Thời
lượng : 3-4 phút.
- Bút dạ và 3 bảng phụ để học sinh lập dàn ý – trình bày trước lớp.
- Bảng phụ ghi: Dàn bài văn tả cảnh.
- Học sinh: sưu tầm tranh ảnh đẹp của đất nước, của địa phương.
III. Các hoạt động dạy học:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động 1:

Hoạt động của học sinh

A.Kiểm tra bài cũ:
Học sinh đọc đoạn văn tả cảnh sông
nước (đã viết 2 tiết TLV trước về nhà
B. Bài mới:

viết lại hoàn chỉnh).

1. Giới thiệu bài: Giáo viên kiểm tra việc Học sinh giới thiệu tranh cảnh sưu
chuẩn bị ở nhà của cả lớp-quan sát cảnh tầm ở địa phương (hoặc tranh cảnh
22


đẹp ở địa phương, ghi lại những điều quan đẹp của đất nước).
sát được.
Trong tiết học hôm nay trên cơ sở những
kết quả quan sát đã có, các em sẽ lập dàn ý
cho bài văn tả cảnh đẹp ở địa phương, sau

đó tập chuyển một phần trong dàn ý thành
đoạn văn hoàn chỉnh.
2. Hướng dẫn luyện tập:
Giáo viên cho học sinh xem băng hình về Học sinh xem băng hình.
cảnh đẹp ở địa phương.(Thời gian: 3 phút)
- Các em vừa xem cảnh đẹp gì?

Học sinh phát biểu.

- Em chọn cảnh nào để miêu tả?

Học sinh phát biểu.

Bài 1: Lập dàn ý miêu tả cảnh đẹp ở địa
phương em.

Một học sinh đọc yêu cầu bài.

Giáo viên treo bảng phụ ghi: bài văn tả Một học sinh đọc cấu tạo bài văn tả
cảnh thường ba phần:

cảnh.

a. Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ
tả.
b. Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoạt
sự thay đổi theo thờ gian.
c. Kết bài: Nêu nhận xét hoặt cảm nghĩ của
người viết.


Ba học sinh làm bảng phụ để treo lên

Giáo viên đưa cho học sinh ba tấm bảng bảng sửa bài học sinh khác làm vào
phụ + bút dạ.

vở nháp.

Giáo viên quan sát và giúp đỡ học sinh
(nếu cần thiết).
a) Giáo viên treo bảng phụ trên bảng lớp
(cảnh đồng lúa).

Vài học sinh phát biểu.
23


Em có nhận xét gì về bài làm của bạn? ví dụ: một gió nhẹ thổi qua, làm gợn
(Mỡ bài,Thân bài, Kết bài)…

lên những lớp sóng đuổi nhau chạy

Em thích nhất chi tiết nào?

mãi về phía xa.

Em có cần bổ sung hay cần sửa chi tiết
nào?
- Giáo viên đánh giá và nhận xét.
b)Giáo viên treo bảng phụ trên bảng lớp Học sinh phát biểu.
(cảnh công viên).

Em có nhận xét gì về bài làm của bạn?
(Mỡ bài,Thân bài, Kết bài)…
Em thích nhất chi tiết nào?
Em có cần bổ sung hay cần sửa chi tiết
nào?
- Giáo viên đánh giá và nhận xét.
c)Giáo viên treo bảng phụ trên bảng lớp
(cảnh sông Kinh Thầy )
Em có nhận xét gì về bài làm của bạn?
(Mỡ bài,Thân bài, Kết bài)…
Em thích nhất chi tiết nào?

Học sinh phát biểu.

Em có cần bổ sung hay cần sửa chi tiết
nào?
- Giáo viên đánh giá và nhận xét.
Các em đã có những ý tưởng, những
bước phát thảo về cảnh đẹp để chuyển
những ý tưởng, những bước phát thảo
thành đoạn văn. Chúng ta cùng làm bài tập
2
Bài 2: Dựa theo dàn ý đã lập, hãy viết một Một học sinh đọc yêu cầu bài tập 2.
24


đoạn văn miêu tả cảnh đẹp ở địa phương Hai học sinh đọc nối tiếp.
em.
- Gọi học sinh đọc gợi ý (SGK trang 81).


Học sinh 1 đọc gợi ý 1.
Học sinh 2 đọc gợi ý 2.

- Giáo viên phát cho ba học sinh ba bảng
phụ + bút dạ.

Ba học sinh làm bảng phụ để sữa
bài.

- Giáo viên nhắc học sinh:

Học sinh còn lại làm vào vở.

+ Nên chọn một đoạn trong phần thân bài
để chuyển thành đoạn văn.
+ Mỗi đoạn có câu mở đầu nêu ý bao trùm
của đoạn. Các câu trong đoạn cùng làm
nổi bật ý đó.
+ Đoạn văn phải có hình ảnh. Chú ý áp
dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa cho
hình ảnh thêm sinh động.
+ Đoạn văn cần thể hiện cảm xúc của
người viết.
- Giáo viên treo bảng phụ (cánh đồng lúa)

Học sinh viết đoạn văn.

Nhận xét đoạn văn miêu tả cánh đồng lúa

Một số học sinh nối tiếp nhau đọc


chín.

đoạn văn.

- Câu mở đầu có nêu ý bao trùm cả đoạn

Học sinh 1 phát biểu.

không?
Đoạn văn có hình ảnh không?

Học sinh 2 phát biểu.

(Giáo viên có sửa chữa)
Giáo viên đánh giá và nhận xét.

Học sinh 3 phát biểu.

Treo bảng phụ (Cảnh công viên)
Nhận xét đoạn văn miêu tả cánh công

Học sinh 1 phát biểu.

viên.

Học sinh 2 phát biểu.
25



×