Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

(SKKN 2022) Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.3 KB, 17 trang )

1
MỤC LỤC
Mục
1

Nội dung

Trang

Mở đầu

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

1

1.3

Đối tượng nghiên cứu

1


1.4

Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

1

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

2.1

Cơ sở lí luận.

2

2.2

Thực trạng về kĩ năng phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của
từ nhiều nghĩa ở học sinh lớp 5

3

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

4

2.4


Hiệu quả của sáng kiến

9

3

Kết luận và kiến nghị

10

3.1

Kết luận

10

3.2

Kiến nghị

10

2

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tà
Tiếng Việt là mơn học rất quan trọng đối với học simh tiểu học. Nó là một
trong những môn học thiết yếu giúp học sinh học tốt các môn học khác.
Môn Tiếng Việt rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy,sáng tạo, hình

thành phẩm chất, trí tuệ của con người. Vì lẽ đó, nó đã trở thành một
phần khơng thể thiếu của nền văn hóa phổ thơng. Mơn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học
có vị trí rất đặc biệt. Thơng qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn
luyện cho học sinh các thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán
đốn… ), cung cấp những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về
văn hóa,văn học của Việt Nam và nước ngồi để từ đó:
- Góp phần bồi dưỡng tình u cái đẹp, cái thiện, lịng trung thực,
lịng tốt, lẽ phải và sự cơng bằng xã hội; góp phần hình thành lịng u mến và
thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt.
- Góp phần hình thành nhân cách con ngườiViệt Nam hiện đại: có tri
thức, biết tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết rèn luyện lối sống lành
mạnh, ham thích làm việc và có khả năng thích ứng với cuộc sống xã hội sau
này.
1.2. Mục đích nghiên cứu


2
Với mục tiêu dạy học Tiếng Việt như trên, môn Tiếng Việt đóng vai trị hết
sức quan trọng trong giáo dục, làm cơ sở ban đầu cho trẻ chiếm lĩnh tri thức
mới, có được năng lực sử dụng ngơn ngữ, sử dụng thành thạo Tiếng
Việt, cùng các mơn khác góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học bao gồm các phân môn: Học vần,
Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn. Trong đó, nội
dung về nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ
và câu. Một tiết cung cấp về nội dung lý thuyết, một tiết rèn kỹ năng luyện tập
(mỗi tiết dạy 35 – 40 phút). Vì vậy khi dạy những kiến thức này, tôi cũng như
nhiều đồng nghiệp ở trong tổ nhận thấy rằng: Kỹ năng hiểu nghĩa của từ nói
chung và đặc biệt là kỹ năng phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong bài “Từ
nhiều nghĩa” của học sinh có rất nhiều hạn chế.
Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm giảng dạy lớp 5, bản thân tơi đã tìm

tịi và thử nghiệm một số biện pháp nhằm giúp học sinh phân biệt đúng nghĩa
gốc - nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Vì thế, tơi đã mạnh dạn nghiên cứu để
tìm ra “Một vài giải pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt nghĩa gốc và nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa ”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt nghĩa gốc và
nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp kiểm tra đánh giá thực tiễn
- Phương pháp xử lí số liệu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp luyện tập
- Phương pháp giao tiếp
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Về khái niệm.
Nghĩa gốc - nghĩa chuyển là 2 loại nghĩa của từ nhiều nghĩa. Nói về nghĩa
gốc nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
* Theo tài liệu của tác giả Lê Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng thì khái niệm
nghĩa gốc- nghĩa chuyển của một từ nhiều nghĩa được hiểu như sau:
- Nghĩa gốc: Là nghĩa cơ bản, là nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ.
Trong từ điển, nghĩa gốc được nói đến đầu tiên.
- Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc, có mối quan
hệ mật thiết với nghĩa gốc. Trong từ điển, nghĩa chuyển được nói đến sau nghĩa
gốc.
Ví dụ: Đối với từ chân nghĩa “chi dưới của động vật”, đối với từ nhà
nghĩa “cơng trình kiến trúc để ở”, đối với từ chạy “dời chỗ bằng chân với tốc



3
độ cao”, đối với từ chín nghĩa “chỉ trạng thái của quả cây” là nghĩa gốc thì
các nghĩa cịn lại của các từ này đều là nghĩa chuyển.
Mặt khác các từ trong một phạm vi biểu vật thường chuyển nghĩa theo
một hướng nên nghĩa gốc và nghĩa chuyển có tính chất giống nhau.
Ví dụ: Nếu xem nghĩa “bộ phận cơ thể của người, động vật” là nghĩa
gốc của từ tay thì đó cũng là nghĩa gốc của các từ: đầu, mặt, cổ, chân, cánh,
lưng, bụng….và các nghĩa của từ trên trong các tổ hợp sau đây là nghĩa chuyển
của chúng: tay nghề, tay áo, đầu bút, đầu sóng, mặt bàn, tai chén, cổ áo, cổ chai,
lưng ghế, lưng đồi, chân bàn, chân trời, …
* Theo tài liệu “Lý luận - Phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng Việt trong
nhà trường của PGS-TS Nguyễn Đức Tôn cũng viết:
- Nghĩa gốc - nghĩa chuyển: Đây là cách gọi theo quan điểm lịch đại, nhìn
nhận theo quá trình phát triển ý nghĩa của từ. Nghĩa gốc là nghĩa vốn có của từ
ngay từ khi xuất hiện, từ đó làm nảy sinh ra nghĩa khác. Nghĩa được nảy sinh ra
từ một nghĩa nào đó gọi là nghĩa chuyển.
Nghĩa chính - Nghĩa phụ: Đây là tên gọi theo quan điểm đồng đại. Nghĩa
chính là nghĩa được người ta nghĩ đến đầu tiên khi đọc hoặc nghe thấy một từ.
- Nghĩa phụ là nghĩa bị phụ thuộc vào vị trí của từ. Nghĩa từ chỉ khi kết
hợp với những từ đặc thù nhất định thì nghĩa này mới được hiểu.
Ví dụ: Từ “mũi” dùng để chỉ bộ phận cơ thể người hoặc động vật thì đây
là nghĩa chính (mũi người, mũi lợn, mũi dọc dừa, mũi tẹt…). Còn từ “mũi” dùng
để chỉ bộ phận giống với mũi người ở một số vật thì đó là nghĩa phụ (mũi của
chiếc thuyền, mũi dao….)
2.1.2. Quy luật chuyển nghĩa của từ:
* Quy luật nhận thức của con người:
Quá trình nhận thức của con người bao gồm hai mặt: cảm tính và lý tính.
Trong đó nhận thức cảm tính là nhận thức đầu tiên. Điều này có nghĩa là tư duy
của con người bao giờ cũng đi từ cụ thể, trực quan, cảm tính đến trừu tượng lý

tính. Dựa vào quy luật trên, ta có thể rút ra thủ pháp nhận diện, phân biệt nghĩa
gốc và nghĩa chuyển của một từ như sau: Trong 2 nghĩa của từ, nếu nghĩa nào cụ
thể hơn (tức là với nghĩa này, từ chỉ có hiện tượng trực quan cảm tính) thì đó là
nghĩa gốc. Nghĩa nào có tính chất trừu tượng hơn (chỉ hiện tượng trừu tượng
thuộc nhận thức lý tính), thì đó là nghĩa chuyển.
Ví dụ: Nghĩa của từ “chín” khi nói về quả là nghĩa chính, cịn khi nói về
sự suy nghĩ của con người thì đó là nghĩa chuyển.
* Quy luật nhận thức của từ:
Tất cả các sự chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ trong ngơn ngữ đều xuất
phát từ những thuộc tính của con người và từ hiện thực gần gũi nhất đối với con
người đến toàn bộ thế giới còn lại. Dựa vào quy luật này, ta có thể thấy: Trong 2
ý nghĩa của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con người, động vật hoặc nói về
các hành động, tính chất của con người thì thường là nghĩa có trước (nghĩa gốc)
cịn nghĩa nói về các hiện tượng khác cịn lại thường là nghĩa chuyển.
Ví dụ: “Răng” trong răng người, răng chuột là nghĩa chính còn “Răng”
trong răng bừa, răng cào là nghĩa chuyển.


4
Cũng có khi từ chuyển nghĩa bằng cách lấy tên gọi bộ phận cơ thể thay
cho cả cơ thể, cho cả người hay cả tồn thể.
Ví dụ: chân, tay, miệng là tên gọi bộ phận cơ thể nhưng trong các tập hợp
sau “có chân trong đội bóng đá”, “một tay cờ xuất sắc”, “gia đình bảy tám
miệng ăn” chúng chỉ cả người, cả cơ thể trọn vẹn.
2.2. Thực trạng về kĩ năng phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của
từ nhiều nghĩa ở học sinh lớp 5
2.2.1.Thuận lợi:
- Đội ngũ giáo viên cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về cách
phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong Tiếng việt.
- Đa số học sinh có đủ Sách giáo khoa và các đồ dùng học tập và được nhà

trường quan tâm tạo mọi điều kiện trong học tập.
2.2.2. Khó khăn, hạn chế.
- Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ sai,
lúng túng và cịn lủng củng.
Học sinh khơng nắm chắc khái niệm nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ,
không hiểu thế nào là từ một nghĩa, thế nào là từ nhiều nghĩa.
- Học sinh xác định lẫn lộn giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển.
Đặt câu có sử dụng từ theo nghĩa gốc, nghĩa chuyển chưa hay, chưa đúng
với nét nghĩa yêu cầu.
Ví dụ: Với dạng bài tập có yêu cầu: Trong các từ in đậm ở các dòng sau,
từ nào được dùng theo nghĩa gốc, từ nào được dùng theo nghĩa chuyển?
a. Quả cam này ngọt.
b. Trẻ em ưa nói ngọt khơng ưa nói xẵng.
c. Ngơi nhà đẹp q!
d. Nhà tơi đi vắng.
- Đối với bài tập yêu cầu đặt câu với mỗi loại nghĩa của từ (nghĩa gốcnghĩa chuyển), học sinh lại mắc lỗi diễn đạt ý không rõ ràng cụ thể. Vì thế,
người đọc khó xác định “từ trong văn cảnh” được dùng theo nghĩa gốc hay
nghĩa chuyển.
Ví dụ: Em hãy đặt một câu theo nghĩa gốc, một câu theo nghĩa chuyển
của từ “đi”. Nhiều em học sinh đã làm bài như sau:
* Trường hợp 1:
a. Em bé đã đi. (Nghĩa gốc)
b. Ông ấy đã đi. (Nghĩa chuyển).
Đúng ra, trong trường hợp này, các em phải đặt từ “đi” trong văn bản cụ
thể hơn:
a. Em bé đã đi (1) được vài bước. (Nghĩa gốc)
b. Vì bệnh nặng, ơng ấy đã đi (2) hôm qua. (Nghĩa chuyển). Trong 2 câu
trên đi (1): tự di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác bằng những bước chân nhấc
lên, đặt xuống liên tiếp.), đi (2): mất, chết, qua đời, khơng cịn tồn tại).
* Trường hợp 2:

a. Em đi học sớm mỗi ngày. (Nghĩa gốc)
b. Chú tôi đi bộ đội.
(Nghĩa chuyển)


5
Còn ở trường hợp này, lẽ ra từ “đi” ở trong câu a phải được hiểu theo
nghĩa chuyển (hay có thể gọi đó là nghĩa chuyển dần từ nghĩa gốc sang nghĩa
chuyển (Theo tài liệu “Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học”
- Tác giả Lê Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng. Trường hợp này ngay ở một
số giáo viên cũng thường nhầm lẫn.
- Ngoài những hạn chế trên, học sinh còn hay lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa
(nghĩa gốc - nghĩa chuyển) với từ đồng âm.
Ví dụ: Đặt câu theo những nghĩa khác nhau của từ “chín” và cho biết từ
nào được dùng theo nghĩa gốc, từ nào được dùng theo nghĩa chuyển thì học sinh
làm như sau:
a. Bài kiểm tra tốn cuối kì I em được chín (1) điểm. (Nghĩa gốc)
b. Bạn nên suy nghĩ cho chín (2) rồi hãy nói. (Nghĩa chuyển)
Thực ra, hai từ “chín” ở 2 câu trên khơng phải là từ n hiều nghĩa mà
chúng là những quan hệ đồng âm, vì nghĩa của hai từ này khơng hề có mối liên
hệ với nhau vì: “ Chín” (1) là số tự nhiên đứng liền sau số 8 cịn “Chín” (2) là
suy nghĩ kĩ để đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình dạy học tơi nhận thấy học sinh trong lớp cịn gặp nhiều
khó khăn và có nhiều hạn chế trong việc phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển
nên sau khi học bài “Từ nhiều nghĩa” (Tuần 7, Tuần 8), tôi đã tiến hành khảo sát
nhanh và kết quả đạt như sau:
Kết quả
Thời gian
Khảo sát đầu
năm


Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

2

7.4

6


22.2

11

40.8

8

29.6

2.2.3. Ngun nhân khó khăn, hạn chế.
Qua tìm hiểu ngun cứu, bản thân tôi nhận thấy rằng những hạn chế trên
chủ yếu do mấy nguyên nhân sau:
a. Thời lượng để học sinh tiếp cận và rèn luyện kỹ năng về từ nhiều nghĩa
là quá ít so với nội dung tương đối khó. Mặt khác do các bài tập trong SGK
nhiều, đa dạng và cấu tạo tương đối khó đối với học sinh.
b. Do học sinh không hiểu quy luật chuyển nghĩa của từ.
c. Do học sinh không nhận ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa gốc và nghĩa
chuyển của từ.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Về mặt lí luận, phương pháp
a. Giáo viên phải nắm vững kiến thức để phân biệt nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa.
Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến thức
cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều song lại yêu cầu giáo viên phải nắm
vững kiến thức sâu sắc, để hướng dẫn làm trọng tài khoa học cho học sinh. Đối
với các tiết Luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa đặc biệt là phân biệt nghĩa gốc,
nghĩa chuyển thì vốn kiến thức của giáo viên là rất quan trọng. muốn có được



6
điều này thì giáo viên phải bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu kĩ, đặc biệt phải nắm
rõ các nghĩa của một từ một cách chính xác.
Ví dụ: Khi đặt câu với từ “mũi” theo nghĩa gốc và nghĩa chuyển thì giáo
viên phải nắm thêm các nét nghĩa như:
1. Bộ phận của cơ quan hô hấp.
2. Phần trước của tàu thuyền.
3. Bộ phận nhọn của vũ khí: mũi dao, mũi súng.
4. Phần đất nhơ ra ngồi biển: mũi đất, mũi Cà Mau.
5. Năng lực cảm giác về mũi.
6. Đơn vị quân đội: mũi quân bên trái.
b. Thiết kế hệ thống bài tập
Phiếu học tập cho cả nhóm hoặc cá nhân là một trong những hình thức học
tập rất hữu hiệu giúp học sinh có thể tích cực, chủ động trong học tập. Mặt khác
nó cịn giúp giáo viên nắm được kết quả ngược từ học sinh một cách chính xác,
từ đó giáo viên có thể linh hoạt trong việc giảng dạy, học sinh nắm vững nội
dung bài học. Phiếu học tập có thể thiết kế bằng hệ thống các bài tập trắc
nghiệm khách quan như: nối, đúng- sai, nhiều lựa chọn…
c. Cần sử dụng phương pháp dạy học mới:
Để dạy tốt các tiết học về từ nhiều nghĩa, giáo viên cần đưa các phương
pháp dạy học mới như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đặt vấn đề,
phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trị chơi…
Phương pháp thảo luận nhóm: Nhằm giúp học sinh tham gia tích cực, chủ
động vào q trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để
cùng giải quyết một vấn đề khó khăn nào đó.
Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề: Nhằm mục đích đưa học
sinh vào tình hướng có vấn đề, từ đó kích thích sự hứng thú học tập của học sinh
vào việc giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh: Đặt câu có từ chạy theo nghĩa gốc và

nghĩa chuyển.
HS đặt được câu theo nghĩa gốc nhưng không đặt được câu theo nghĩa
chuyển. Lúc này giáo viên phải nêu ra một số nét nghĩa để gợi ý cho học sinh
đặt câu theo nghĩa chuyển như:
- Hoạt động của máy móc.
- Khẩn trương di chuyển vật nào đó vào nơi an tồn…
d. Cần chuẩn bị tốt tâm thế học tập cho học sinh.
Giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng, kích thích hứng
thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng. Ngồi ra giáo
viên cần kiểm tra bài vở học sinh để cả học sinh học tốt lẫn học sinh học chưa
tốt để tất cả các em cùng học tập, tránh tình trạng vì kiến thức q khó nên một
vài học sinh khơng học tập hoặc học tập không hiệu quả.
2.3.2. Về mặt thực tiễn
Với mục tiêu giúp học sinh phân biệt nghĩa gốc - nghĩa chuyển và xác
định được nghĩa gốc - nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa tơi đã tìm ra một số biện
pháp như sau:


7
Giải pháp 1: Giúp học sinh nhận biết từ một nghĩa và nhiều nghĩa.
Để học sinh nhận biết thế nào là một nghĩa, thế nào là từ nhiều nghĩa
trước hết giáo viên có thể lấy ví dụ để phân biệt từ một nghĩa.
Ví dụ: Em hãy giải thích nghĩa của từ “ xe xích lơ”
HS: Xe xích lơ là một phương tiện giao thơng sử dụng sức người, có 3
bánh dùng để vận chuyển khách hoặc hàng hóa, thường có một hoặc hai ghế cho
khách và một chỗ cho người lái xe.
Như vậy, nghĩa trên là nghĩa duy nhất của từ “xe xích lơ”. Hay nói cách
khác: Từ “xe xích lơ” chỉ có khả năng gọi tên một sự vật duy nhất. Vậy, có thể
nói từ “xe xích lơ” là từ chỉ có một nghĩa. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tìm
thêm một số từ chỉ có một nghĩa

Ví dụ: Em hãy nêu nghĩa của từ chạy trong các câu sau:
a. Việt đang chạy (1) thi 100 mét.
b. Cái đồng hồ này chạy (2) chậm quá!
c. Bà con khẩn trương chạy (3) muối.
d. Mặt hàng này bán rất chạy. (4)
HS: - Chạy (1) là di chuyển cơ thể bằng những bước nhanh.
- Chạy (2) là hoạt động của máy móc.
- Chạy (3) là chuyển muổi vào nơi cất giữ muối để tránh mưa.
- Chạy (4) là bán nhanh hết.
Từ “chạy” có khả năng gọi tên nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau, nhiều
hoạt động khác nhau ta nói từ “chạy” là từ có nhiều nghĩa.
Với cách hướng dẫn nhận diện này, các em sẽ phân biệt từ một nghĩa và
từ nhiều nghĩa một cách dễ dàng hơn, trước khi dẫn đến hình thành khái niệm
nghĩa gốc - nghĩa chuyển như SGK đã trình bày. Nếu học sinh cịn lúng túng,
giáo viên có thể lấy ví dụ về từ nhiều nghĩa trong các kết hợp từ khác nhau.
Ví dụ: Đi
- Nó chạy cịn tơi đi
- Chân nó khơng đi giày.
- Ca nơ đi nhanh hơn thuyền.
Đối với ví dụ này, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét được từ đi
trong câu thứ nhất có nghĩa là di chuyển từ nơi này sang nơi khác bằng những
bước chân. Từ đi trong câu thứ 2 nghĩa là mang hay đeo vào. Từ đi trong câu
thứ 3 có nghĩa là chuyển động của phương tiện giao thông. Như vậy cũng là từ
đi nhưng ở mỗi trường hợp nó lại mang nghĩa khác nhau.Vậy từ đi cũng là từ
nhiều nghĩa.
Giải pháp 2: Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để phân biệt
nghĩa gốc- nghĩa chuyển.
a. Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó
dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, tơi đã hướng dẫn học sinh thông qua
cách nhận biết trực quan như sau:

- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em có thể cảm nhận được bằng giác
quan thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.


8
- Từ nào có ý nghĩa trừu tượng hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện
tượng hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em không thể cảm nhận được
bằng giác quan thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ:
a. Bạn Nam đang ăn (1) cơm.
b. Xe này ăn (2) xăng quá!
c. Ông ấy là người làm cơng ăn(3) lương.
d. Con đường này ăn( 4) sang xóm bên.
- Ăn (1): chỉ hoạt động đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong câu
a, là hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) Từ “ăn” trong câu a được dùng theo
nghĩa gốc .
- Ăn (2): chỉ hoạt động tiêu thụ năng lượng để máy móc hoạt động. Hành
động “ăn” trong câu b là hành động trừu tượng (Không dùng miệng). Từ ăn
trong câu b được dùng theo nghĩa chuyển.
- Ăn (3): là hình thức nhận lương. Hành động ăn trong câu c, là hành
động trừu tượng (không dùng miệng). Từ “ăn” trong câu c, được dùng theo
nghĩa chuyển.
- Ăn (4): chỉ sự lan ra, hướng sang xóm khác, là hành động trừu tượng
(không dùng miệng). Từ “ăn” trong câu d, được dùng theo nghĩa chuyển.
Như vậy, từ “ăn” nào chỉ hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) thì từ đó
được dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những
từ dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ:
a. Thanh sắt cứng q khơng uốn cong được.

b.Tay nghề của anh ấy rất cứng.
c. Nó rất cứng đầu.
- Cứng: khó bị biến dạng. Từ “cứng” ở câu a chỉ tính chất cụ thể (có thẻ
cảm nhận bằng giác quan cầm, nắm để nhận ra. Vậy từ “cứng” ở câu a là nghĩa
gốc.
- Cứng: có trình độ cao, vững vàng. Từ “cứng” ở câu b, chỉ tính chất trừu
tượng (không thể sờ nắm được). Từ “cứng” này được dùng theo nghĩa chuyển.
- Cứng: bướng bỉnh, khó bảo. Từ “cứng” ở câu c, chỉ tính chất trừu tượng
(khơng thể sờ nắm được). Từ “cứng” ở câu c này cũng được dùng theo nghĩa
chuyển.
Như vậy, qua cách nhận diện trên, từ “cứng” chỉ tính chất cụ thể (dùng tay
để sờ, nắm được) thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc. Từ “cứng” chỉ tính chất
trừu tượng (khơng thể sờ nắm được) là từ được dùng theo nghĩa chuyển.
b. Nếu cả hai nghĩa đều cụ thể, khó phân biệt được nghĩa nào cụ thể hơn,
nghĩa nào trừu tượng hơn, thì có thể hướng dẫn học sinh dựa vào các dấu hiệu
sau:
- Nếu nghĩa của từ nào nói đến bản thân con người (hoặc động vật), hoặc
tính chất hành động của con người thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Nếu nghĩa của từ nói đến các đồ vật, vật có hình dáng, tính chất, hành
động gần giống con người thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển


9
Ví dụ 1:
a. Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
b. Cái ấm này đã sứt tai.
- Tai: cơ quan hai bên đầu người, động vật. Từ “tai” dùng chỉ bộ phận cơ
thể người. Từ “tai” ở câu a được dùng theo nghĩa gốc.
- Tai: bộ phận của vật có hình dáng giống cái tai. Từ “tai” chỉ bộ phận của
vật. Từ “tai” ở câu a được dùng theo nghĩa chuyển.

Ví dụ 2:
a. Bé reo lên: “Mẹ về!”
b. Hàng thơng reo trước gió.
- Reo: kêu lên tỏ ý vui mừng, phấn khởi. Từ “reo” ở câu a, chỉ tiếng kêu
của người. Từ “ reo” được dùng theo nghĩa gốc.
- Reo: phát ra tiếng kêu đều, nghe vui tai. Từ “reo” ở câu b, chỉ tiếng kêu
của vật. Từ “ reo” được dùng theo nghĩa chuyển.
Với cách làm này, các em dễ dàng phân biệt nghĩa của từ: “chân” trong
chân gà với “chân” trong chân giường, chân núi; “mắt” trong mắt em bé với
“mắt” trong mắt tre, mắt lưới…
Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh phát hiện ra mối liên hệ ý nghĩa
giữa nghĩa chuyển với nghĩa gốc của từ:
Để nhận diện được một từ nào đó có phải là nghĩa chuyển được hiểu rộng
từ nghĩa gốc của từ đó hay khơng. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra những
nét giống nhau trong ý nghĩa của các từ. Nếu từ đó có nét giống so với nghĩa ban
đầu thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển. Nếu từ đó có nghĩa hồn tồn khác
xa với nghĩa ban đầu thì từ đó là từ đồng âm.
Ví dụ 1:
a. Nó bị đau chân.
(Chân: bộ phận cuối cùng của cơ thể người hoặc động vật để đi, đứng)
b. Chân tường bị mốc.
(Chân: bộ phận cuối cùng của vật, tiếp giáp với mặt nền).
c. Ở phía chân trời xa, những cánh chim đang tìm đường về tổ.
(Chân: Phần cuối cùng của một vật, tiếp giáp và bám chặt với mặt nền)
Từ “chân” trong 3 câu trên cùng có nét nghĩa giống nhau: cùng chỉ bộ
phận dưới cùng.Vậy, “chân” trong chân tường, “chân” trong chân trời là nghĩa
chuyển của từ “chân” trong chân người.
Ví dụ 2:
a. Ngoài đường, đám thanh niên đang hú nhau.
(Hú: cất lên tiếng kêu to,vang, kéo dài để gọi nhau )

b. Tiếng cịi tàu hú vang trong đêm.
c. Ngồi trời gió hú từng cơn.
(Hú: Phát ra tiếng kêu như tiếng hú.)
Từ “hú” trong 3 câu trên có nét nghĩa giống nhau: cùng phát ra âm
thanh.Vậy “hú” trong còi hú, “hú” trong gió hú là nghĩa chuyển của “hú” trong
người hú.
Giải pháp 4: Hướng dẫn phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm:


10
Để giúp học sinh không nhầm lẫn giữa từ nhiều nghĩa và từ cùng âm khác
nghĩa, có thể cho học sinh dựa vào một số dấu hiệu phân biệt sau đây:
Dấu hiệu
phân biệt

TỪ NHIỀU NGHĨA
TỪ ĐỒNG ÂM
(Nghĩa gốc – nghĩa chuyển)
- Đọc giống nhau, viết giống
- Đọc giống nhau, viết giống nhau.
Giống nhau
- Dựa vào văn cảnh để xác định
nhau - Dựa vào văn cảnh để xác định
nghĩa của từ.
nghĩa của từ.
Khác
- Luôn luôn cùng từ loại
- Thường khác từ loại
nhau
Ví dụ:

Ví dụ:
Lan ăn cơm
Chúng nó tranh nhau quả bóng
ĐT
ĐT
Tàu vào bến ăn than.
Mọi người đang xem tranh.
ĐT
DT
* Nếu cùng từ loại thì phần lớn là
danh từ.
Ví dụ:
Tấm vải này khổ quá rộng.
DT
Ba mươi ngàn một cân vải.
DT
- Giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển - Các từ đồng âm có nghĩa khác xa
của từ ln có mối quan hệ về
nhau.
nghĩa.
- Một số từ đồng âm xuất hiện từ
- Tất cả nghĩa chuyển đều xuất quy luật chuyển từ loại.
phát từ quy luật chuyển nghĩa của Ví dụ:
từ.
Bố đẽo cày (1).
Ví dụ:
Bố đang cày ngồi đồng (2).
Ngơi nhà (1) vừa mới xây xong. Cày (1): Danh từ chỉ 1 loại nông cụ.
Cà nhà (2) vui vẻ trò chuyện .
Cày (2): Động từ dùng chỉ cày để lật

Nhà (1): chỉ nơi ở.
đất lên (chuyển loại từ danh từ sang
Nhà (2): Chỉ những người sống động từ)
trong nơi ở đó.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, học sinh đã xác định đúng nghĩa
gốc, nghĩa chuyển của từ và phân biệt giữa từ nhiều nghĩa với từ đồng âm, kết
quả tiếp thu và chất lượng học tập của học sinh có những tiến bộ như sau:
- Học sinh phân biệt được từ một nghĩa với từ nhiều nghĩa một cách dễ
dàng.
- Nhờ dựa vào dấu hiệu cụ thể và trừu tượng của các từ mà học sinh phân
biệt chính xác được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong nhiều văn cảnh khác
nhau.


11
- Nhờ hiểu nghĩa của từ nên học sinh đặt câu hỏi đúng, phù hợp với ý
nghĩa của mỗi từ theo nghĩa gốc hoặc nghĩa chuyển.
- Nhờ nắm bắt được mối quan hệ về nghĩa của từ nhiều nghĩa và các dấu
hiệu phân biệt giữa từ nhiều nghĩa với từ đồng âm, học sinh đã có kỹ năng nhận
diện tốt từ nhiều nghĩa và từ đồng âm. Điều này giúp cho các em không những
học tốt kiến thức về “Từ nhiều nghĩa” mà cịn có tác dụng giúp các em tiếp thu
nhanh bài “Từ đồng âm” trong chương trình
- Hiểu được ý nghĩa và tác dụng của nghĩa bóng tu từ, giúp các em phát
hiện nhanh, đúng các tín hiệu nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ thể hiện trong
văn cảnh, góp phần nâng cao khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của bài văn, bài
thơ. Đồng thời giúp các em biết sử dụng đúng các nghĩa bóng tu từ trong khi thể
hiện bài văn viết của mình một cách cụ thể sinh động và giàu hình ảnh. Bằng các
nội dung và phương pháp thực hiện nêu trên, các em HS lớp 5D do tôi chủ

nhiệm đã tiến bộ vượt bậc so với đầu năm. Cụ thể kết quả đạt được như sau:
Kết quả
Kết quả (đánh
giá ở tuần 30)

Điểm 9-10
SL
TL
8

29,6

Điểm 7-8
SL
TL
11

40,8

Điểm 5-6
SL
TL
8

29,6

Điểm dưới 5
SL
TL
0


0

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để giúp HS phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5, trong quá trình dạy học người giáo viên cần:
- Giúp HS nắm được sự khác nhau của từ một nghĩa và từ nhiều nghĩa.
- Giúp học sinh nhận ra mối quan hệ giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển
trong từ nhiều nghĩa
- Giúp học sinh hiểu qui luật chuyển nghĩa của từ.
Ngoài ra, giáo viên cần phải xác định đúng mục đích, yêu cầu của bài dạy.
Tham khảo thêm những tài liệu có liên quan đến việc dạy phân biệt nghĩa gốc,
nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
- Giáo viên cần tìm tịi, học hỏi để vốn từ của bản thân thật phong phú và
phải có khả năng sử dụng từ ngữ... Nắm vững kiến thức về nghĩa gốc - nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa. Phải thiết kế hệ thống bài tập hợp lí, nhất là phải
ln đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp
mình giảng dạy.
3.2. Kiến nghị
Lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc Tiểu học, vì vậy các em cần có kiến thức
vững chắc về phân biệt nghĩa gốc - nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa để có thể
học tốt ở THCS.Với mục đích là nâng cao kết quả giảng dạy và hịan thành tốt
chun mơn của người giáo viên Tiểu học, tơi xin có một số đề nghị sau:
- Mở lớp chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối
với các bài về phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa để giáo viên
học hỏi kinh nghiệm khi dạy các nội dung này vì đây là phần kiến thức khó đối
với học sinh.



12
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học phù hợp nhằm giúp
giáo viên nâng cao chất lượng các tiết học này.
Trên đây chỉ là vài điều rất nhỏ mà tôi thấy cần lưu ý để dạy tốt các bài về
phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
Tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp sẽ có những đóng góp thêm cho bài
viết của tơi được hoàn chỉnh hơn, để chúng ta dạy học sinh đạt kết quả khả quan
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 05 tháng 4 năm 2022
CAM KÊT KHƠNG COPPY
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Người thực hiện

Trần Thị Xuân

MỤC LỤC
Mục
1

Nội dung

Trang

Mở đầu

1


1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

1

1.3

Đối tượng nghiên cứu

1

1.4

Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

1

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

Cơ sở lí luận.


2

2
2.1


13
2.2

Thực trạng về kĩ năng phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của
từ nhiều nghĩa ở học sinh lớp 5

3

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

4

2.4

Hiệu quả của sáng kiến

9

3

Kết luận và kiến nghị


10

3.1

Kết luận

10

3.2

Kiến nghị

10

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 - Tập 1, 2 - NXBGD VIỆT NAM.
2. Vở Bài tập Tiếng Việt 5 - Tập 1, 2 - NXBGD VIỆT NAM.
3. Sách giáo viên Tiếng Việt 5 – Tập 1, 2 - NXBGD VIỆT NAM.


14

DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN,
TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Xuân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường Tiểu học Kim Đồng, huyện
Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

TT


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
cấp huyện,

Kết quả
Năm học
đánh giá đánh giá xếp
xếp loại
loại
(A, B


15
1
2

3
4

Rèn kĩ năng viết văn cho học
sinh lớp 4.
Một số kinh nghiệp giúp học
sinh lớp 4 rèn kỹ năng viết
văn mưu tả.
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 4 phân biệt từ ghép có

nghĩa Phân loại - Tổng hợp
Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho
học sinh lớp 5.

Tỉnh)

hoặc C)

Huyện

B

2007 – 2008

Huyện

B

2009 – 2010

Tỉnh

C

2011 – 2012

Huyện

B


2013 – 2014


16

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GD&ĐT TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5
PHÂN BIỆT NGHĨA GỐC VÀ NGHĨA CHUYỂN
CỦA TỪ NHIỀU NGHĨA

Người thực hiện: Trần Thị Xuân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Kim Đồng
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Tiếng Việt

THANH HỐ NĂM 2022


17



×