Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

(SKKN 2022) Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.71 KB, 24 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XII cũng
như trong mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước giai đoạn đến năm 2020 đều
xác định mục tiêu là nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học, trong đó chú trọng
tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất năng lực cơng dân, chú
trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, trong đó kĩ năng giao tiếp là kĩ năng vơ
cùng quan trọng là nền tảng đề phát triển các kĩ năng sống khác cho học sinh. Để
học sinh có được kĩ năng giao tiếp tốt thì việc vơ cùng quan trong là nâng cao năng
lực sử dụng Tiếng Việt cho học sinh trong giao tiếp.
Việc hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường sống là một mục tiêu quan
trọng của môn Tiếng Việt. Để thực hiện mục tiêu đó, phân mơn luyện từ và câu đã
góp phần khơng nhỏ giúp học sinh ngày càng có kĩ năng giao tiếp tự nhiên. Nội
dung phân môn luyện từ và câu ở lớp 5 khá phong phú. Việc dạy cho học sinh “Từ
nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển” trên cơ sở kế thừa
chương trình 165 tuần cịn được mở rộng và đi sâu hơn về các loại câu.
Khi dạy học về các kiểu từ nói trên, khơng phải giáo viên nào cũng có
phương pháp, biện pháp phù hợp để hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm cũng
như phân biệt được từ nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, phân biệt nghĩa gốc, nghĩa
chuyển; cũng không phải học sinh nào cũng dễ dàng xác định hay nhận dạng, phân
biệt ngay được các kiểu từ trên. Qua thực tế giảng dạy và trực tiếp kiểm tra kết quả
học tập của học sinh hàng ngày, tơi nhận thấy nhiều học sinh cịn nhầm lẫn khi xác
định từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa và từ mang nghĩa gốc nghĩa chuyển, trong giao
tiếp còn lẫn lộn.
Về phía giáo viên, một số giáo viên việc đổi mới phương pháp dạy học cịn
chậm, chưa nhiệt tình, chưa chịu khó học hỏi đồng nghiệp, việc tích lũy nghiệp cịn
hạn chế, chưa chịu khó tìm tịi tài tài liệu nghiên cứu sâu về các dạng bài tập về từ
nhiều nghĩa để có phương pháp giảng dạy hiệu qủa hơn.
Vây làm thế nào để giáo viên có biện pháp giảng dạy có hiệu quả hơn? Làm
thế nào để giúp học sinh tránh nhầm lẫn hoặc giảm được nhầm lẫn, khi xác định từ


đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển? Khi xác định từ đó
trong ngữ cảnh đó là những trăn trở của bản thân cũng như đồng nghiệp muốn
nghiên cứu tìm ra biện pháp hữu hiệu khi giảng dạy ở nội dung này.
Chính vì những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 trên 15 năm
tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt nghĩa
gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa ” nhằm tìm ra các biện pháp dạy học hiệu
quả để nâng cao chất lượng dạy- học cho học sinh lớp 5 học về nghĩa của từ hiệu
quả hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đề tài này giúp bản thân tôi cũng như đồng nghiệp có điều kiện
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và có những hiểu biết cơ bản về cơ sở lí luận và cơ


2

2

sở thực tiễn của việc dạy học về nghĩa của từ cho học sinh lớp 5. Từ đó tìm ra
phương pháp dạy học hiệu quả nhất về dạy học cho học sinh lớp 5.
- Nghiên cứu của đề tài này, tơi mong muốn tìm ra các biện pháp dạy học có
hiệu quả nhất nhằm đạt được kết quả là mỗi học sinh đều nắm được bản chất của
các từ, biết cách phân biệt từ đồng nghĩa; từ nhiều nghĩa và nghĩa gốc, nghĩa
chuyển từ đó giúp học sinh nhận biết được chính xác khơng bị nhầm lần giữa từ
đồng nghĩa; từ nhiều nghĩa và nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa và từ đó
biết sử dụng chính xác hợp lí các từ này này trong đặt câu, viết văn và trong cuộc
sống giao tiếp hằng ngày. Từ đó nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh, bồi
dưỡng tình u Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
Tiếng Việt. Giúp học sinh càng thêm yêu cuộc sống và yêu quê hương đất nước
Việt Nam.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

- Học sinh lớp 5A trường Tiểu học Quảng Lưu - Quảng Xương - Thanh Hóa.
- Các biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển
của từ nhiều nghĩa trong trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Các phương pháp tôi đã sử dụng trong khi thực hiện đề tài này bao gồm:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thơng tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm, đối chứng kết quả.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học các kiểu câu kể cho học sinh lớp 5.
2.1.1. Vị trí, vai trị của mơn Tiếng Việt và phân môn luyện từ và câu.
Như chúng ta đã biết, trong giáo dục Tiểu học mỗi môn học đều có vị trí, vai
trị quan trọng riêng. Song để học được các mơn học đó thì trước tiên chúng ta phải
học tiếng mẹ đẻ - đó là Tiếng Việt - chìa khố của nhận thức, của học vấn, của sự
phát triển trí tuệ đúng đắn, nó cần thiết cho tất cả các em khi bước vào cuộc sống.
Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người Việt Nam, nó phản ánh
tư duy của con người. Đồng thời mơn Tiếng Việt cịn góp phần lớn giúp học sinh
phát triển về Đức - Trí - Thể- Mỹ [1]. Do vậy môn Tiếng Việt là một môn quan
trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương trình. Mơn học này trong trường Tiểu học
chiếm một khối lượng kiến thức lớn nhất và thời lượng nhiều nhất so với các môn
học khác. Trong đó Luyện từ và câu là một phân môn khá quan trọng trong bộ môn
Tiếng Việt, phân môn này đã cung cấp cho học sinh các đơn vị của ngôn ngữ: tiếng,
từ, ngữ, câu, cách phân loại từ, câu, giúp học sinh chọn từ ngữ chuẩn diễn đạt ngắn
gọn, đủ ý, giữ phép lịch sự trong giao tiếp... như vậy người nghe, người đọc hiểu
đúng thông tin.
Phân môn Luyện từ và câu góp phần rèn luyện tư duy, phát triển ngơn ngữ và
hình thành nhân cách cho học sinh, tạo cho HS có vốn từ phong phú.
2



3

3

2.1.2. Mục đích, yêu cầu của dạy dạng bài từ nhiều nghĩa ở lớp 5 [2]
- Giúp học sinh hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc và nghĩa chuyển
trong từ nhiều nghĩa.
- Phân biệt được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong một số
câu văn.
- Phân biệt được từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
- Biết đặt câu phân biệt nghĩa của một số từ nhiều nghĩa là động từ, tính từ.
2.1.3. Nội dung, sự phân bố nội dung dạy nghĩa của từ trong chương
trình lớp 5 [3], [4]
Xét về các loại từ và nghĩa của từ: Nội dung về từ và nghĩa của từ được học
ở đầu kỳ I (10 tiết).
Cụ thể như sau:
Tuần 1:
2 tiết: Từ đồng nghĩa
Luyện tập về Từ đồng nghĩa
Tuần 2:
1 tiết: Luyện tập về Từ đồng nghĩa
Tuần 3:
1 tiết: Luyện tập về Từ đồng nghĩa
Tuần 4:
2 tiết: Từ trái nghĩa
Luyện tập về Từ trái nghĩa
Tuần 5:
1tiết: Từ đồng âm
Tuần 6:

1 tiết: Dùng từ đồng âm để chơi chữ
Tuần 7:
2 tiết: Từ nhiều nghĩa
Luyện tập về từ nhiều nghĩa
Những tiết luyện tập gồm tập hợp 3 - 4 bài tập. Còn lại các bài cung cấp kiến
thức mới đều có cấu trúc giống nhau: Gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập.
Việc sắp xếp nội dung các bài học cũng được cấu trúc tương tự nhau.
2.2. Thực trạng việc dạy- học về nghĩa của từ ở trường tiểu học Quảng
Lưu trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Những việc đã làm được
- Về giáo viên: Trường tiểu học Quảng Lưu, trong những năm học vừa qua,
đã chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các mơn học trong đó
có phân mơn Luyện từ và câu(LTVC). Hằng năm đều tổ chức dạy đối chứng
chuyên đề, thăm lớp dự giờ đồng nghiệp để giáo viên nâng cao tay nghề. Đặc biệt
trong nhiều năm tôi được ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy lớp 5, tơi
đã tìm hiểu chun sâu về mơn phân mơn LTVC, trong q trình giảng dạy bản
thân ln được phân cơng dạy chuyên đề đối chứng về phân môn Tập đọc, bản thân
ln tự học để tích luỹ kinh nghiệm, thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng ghi chép
và trao đổi các dạng bài khó để có phương pháp và hình thức tổ chức cho hiệu quả.
- Về học sinh: Lớp 5A tơi phụ trách có 35 học sinh, đa số các em ngoan,
chăm học. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã quán triệt tinh thần về việc
chuẩn bị các điều kiện cho con em mình học tập tốt nên lớp tơi 100% học sinh có
đủ sách giáo khoa phục vụ các mơn học. Trong lớp có khoảng 4 - 5 em trong diện
3


4

4


tiếp thu bài nhanh và phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa tương
đối tốt. Tôi đã xây dựng được nề nếp học tập trong lớp nhờ đó các em đã có thói
quen học tập theo nhóm, hỗ trợ nhau cùng tiến bộ. Vì vậy khi tổ chức học tập nhóm
các em rất chủ động và hào hứng và tích cực tham gia.
- Về phụ huynh: Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em.
Mua sắm đầy đủ sách vở và các dụng cụ phục vụ học tập. Thường xuyên liên lạc
với giáo viên để nắm bắt tình hình học tập của các em.
2.2.2. Những việc chưa làm được và tồn tại, hạn chế
* Về giáo viên
- Các tiết dạy về nghĩa của chất lượng chưa cao, vẫn còn một số lúng túng
trong việc hướng dẫn học sinh nắm được bản chất của từng nghĩa của từ, đặc biệt là
việc sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh nhận diện, phân loại chính
xác và sử dụng hợp lí trong việc đặt câu, viết văn cũng như trong giao tiếp hằng
ngày.
- Việc nhận xét đánh giá học sinh chưa cụ thể cịn đánh giá chung chung,
chưa động viên khuyến khích kịp thời đối với những học sinh có tiến bộ về nhận
diện, phân loại được nghĩa gốc, nghĩa chuyển. Chủ yếu là các giờ dạy thao giảng,
đối chứng chuyên đề thì giáo viên mới quan tâm đến việc uốn nắm nhận xét tuyên
dương thường xuyên cho học sinh. Chưa thường xuyên tạo cơ hội cho học sinh
được đánh giá bạn.
* Về học sinh
-Với những kiến thức đòi hỏi khả năng tư duy thì đa số học sinh cịn lúng
túng. Việc xác định nghĩa của từ là một dẫn chứng cho sự lúng túng đó của học
sinh. Bên cạnh đó, một số học sinh vẫn cịn phải đơn đốc, nhắc nhở rất nhiều trong
quá trình học tập, ý thức tự giác chưa cao.
* Về phụ huynh
Do đặc thù địa phương, một số phụ huynh đi làm ăn xa, chưa có nhiều thời
gian gần gũi chăm sóc con cái nên việc nhắc nhở, kiểm tra đôn đốc học tập cũng
như rèn làm bài ở nhà. Hầu như phó mặc cho ơng bà và giáo viên chủ nhiệm. Hơn
nữa một số phụ huynh không có khả năng để hướng dẫn hoặc hỗ trợ học bài cho

con em mình.
Qua khảo sát thực tế về phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa (lớp thực nghiệm) tơi chủ nhiệm và lớp 5B do thầy Đồn Văn Hải chủ nhiệm
đầu năm học 2021 - 2022 kết quả khảo sát như sau:
Bảng 1: Bảng khảo sát thời điểm tháng 9/2021
Học sinh phân
Học sinh phân biệt đúng
Học sinh chưa phân
Tổng số biệt đúng nghĩa nghĩa gốc, nghĩa chuyển
biệt đươc nghĩa
gốc, nghĩa
học
của
từ
nhiều
nghĩa
Lớp
gốc, nghĩa chuyển
sinh
chuyển của từ nhưng còn chậm, đơi khi
của từ nhiều nghĩa
cịn lẫn lộn
nhiều nghĩa
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4



5

5

8
23.5
12
35.3
9
26.4
34 em
9
27.2
11
33.3
8
24.2
33 em
Qua khảo sát cho thấy lớp 5A số học sinh phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa có 8 em/23.5%; phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển
của từ nhiều nghĩa nhưng cịn chậm, đơi khi còn lẫn lộn 12 em/35.3%; chưa phân
biệt đươc nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa là 8 em/23.5%.
Lớp 5B số học sinh phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa của lớp 5B có 9 em/27.2%; phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ
nhiều nghĩa nhưng cịn chậm, đơi khi cịn lẫn lộn 11 em/33.3%; chưa phân biệt
đươc nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa là 9 em/26.4 %. Như vậy số học
sinh chưa phân biệt đươc nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa còn tương đối
nhiều

2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trên
- Về giáo viên
+ Giáo viên chưa áp dụng đồng bộ một số giải pháp để hướng dẫn học sinh
nắm được bản chất về nghĩa của từ; bên cạnh đó, việc vận dụng hệ thống câu hỏi
gợi mở để giúp học sinh nhận diện chính xác về nghĩa của từ này chưa được linh
hoạt.
+ Một số giáo viên chưa nhiệt tình, chưa chịu khó, trăn trở tìm tịi tài liệu
cũng như học hỏi đồng nghiệp để tích lũy nghiệp vụ khi dạy các dạng bài này thế
nào để hiệu quả.
+ Chưa đổi mới phương pháp dạy học, hình thức tổ chức đơn điệu chưa tạo
được hứng thú học tập cho học sinh. Vẫn cịn tình trạng dạy chay.
- Về học sinh
+ Thời lượng để học sinh tiếp cận và thực hành về từ nhiều nghĩa là quá ít
(so với nội dung tương đối khó)
+ Học sinh khơng hiểu quy luật chuyển nghĩa của từ. Một số em còn hay lẫn
lộn giữa từ nhiều nghĩa (nghĩa gốc - nghĩa chuyển) với từ đồng âm.
+ Học sinh không nhận ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển
của từ nên chưa phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển.
+ Vốn từ vựng của các em còn hạn chế.
2.3. Biện pháp nâng cao chất lượng day- học về từ nhiều nghĩa cho học
sinh lớp 5
Xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của từ nhiều nghĩa, xuất phát từ những
khó khăn mà học sinh cịn gặp phải khi học các tiết học về từ nhiều nghĩa và
nguyên nhân của những khó khăn đó, để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều
nghĩa trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, qua nghiên cứu và thử nghiệm tôi xin đề
xuất một số giải pháp sau:
2.3.1. Cần thực hiện tốt yêu cầu cần thiết đối với giáo viên dạy lớp 5
- Là giáo viên giảng dạy lớp 5 là khối cuối cấp nên giáo viên phải nhận thức
đúng đắn về vai trị, vị trí và tầm quan trọng của mơn tiếng việt nói chung và phân
5

5A
5B


6

6

mơn Luyện từ và câu nói riêng. Vì phân mơn Luyện từ và câu là phân môn cung
cấp vốn từ cho học sinh để phát triển tốt năng lực lời nói, diễn đạt trơi chảy, logic
trong giao tiếp và trong văn bản viết giúp học sinh có khả năng học tập tốt các môn
học khác và giúp học sinh tự tin trong giao tiếp và giúp các em có khả năng học tập
tốt hơn môn ngữ văn ở bậc THCS.
- Tìm hiểu và nắm vững cấu trúc, nội dung dạy các bài về từ nhiều nghĩa ở
lớp 5. Nội dung chương trình phân mơn luyện từ và câu ở lớp 5 được sắp xếp xen
kẽ các bài mở rộng vốn từ với các bài học có nội dung lý thuyết. Qua các bài lý
thuyết, các em được cung cấp kiến thức từ dễ đến khó.
- Giáo viên phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa để hướng dẫn, làm
trọng tài khoa học cho học sinh. Đối với các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa
vốn kiến thức của giáo viên lại đặc biệt quan trọng. Muốn có điều này
giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu kỹ, đặc biệt phải nắm rõ các
nghĩa của từ một cách chính xác.
- Nắm vững quy trình, phương pháp và hình thức tổ chức khi dạy luyện từ
và câu ở lớp 5. Phân môn luyện từ và câu ở lớp 5 được dạy dưới hai kiểu:
* Kiểu bài lí thuyết: bào gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Thông
thường, giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giáo
viên gợi mở giúp học sinh rút ra ghi nhớ. Từ ghi nhớ, học sinh vận dụng bài làm
bài tập ở phần luyện tập dưới hình thức cá nhân hay nhóm để khắc sâu kiến thức
cho học sinh.
* Kiểu bài luyện tập và mở rộng vốn từ: Bao gồm tập hợp các bài tập. Chủ

yếu, giáo viên tổ chức cho học sinh các hoạt động dạy học theo cách thức linh hoạt
(trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân) theo trình tự:
+ Hướng dẫn HS tìm hiểu yêu cầu bài tập.
+ Hướng dẫn mẫu cho học sinh một phần hoặc một bài.
+ Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập.
+ Tổ chức đánh giá, nhận xét kết quả bài làm (Tự mình đánh giá, đánh giá
cho bạn, giáo viên đánh giá)
- Tham khảo các tiết dạy và ý kiến đồng nghiệp:
Trong quá trình giảng dạy nói chung và giảng dạy LTVC nói chung, nếu có vấn đề
gì cịn băn khoăn, tơi thường tham khảo ý kiến đồng nghiệp, xin ý kiến chỉ đạo của
phụ trách chuyên môn, học hỏi thêm kinh nghiệm tổ chức dạy học của đồng nghiệp
trong trường. Qua đó, bản thân sẽ tích lũy được những kinh nghiệm thiết thực khi
dạy luyện từ và câu nói chung và dạy cho học sinh xác định đúng, phân biệt được
nghĩa của từ theo nghĩa gốc và nghĩa chuyển đã học nói riêng
2.3.2. Thiết kế bài dạy có sự đổi mới phương pháp phù hợp với đặc điểm
và tình hình thực tế học sinh trong lớp
Để có tiết dạy hiệu quả về từ nhiều nghĩa thì việc thiết kế bài dạy vơ cùng
quan trọng. Vì có thiết kế bài dạy thì mới nắm vững được mục tiêu, nội dung của
6


7

7

bài thì mới xây dựng được phương pháp, hình thức tổ chức cho từng hoạt động phù
hợp.
Ví dụ: Xây dựng kế hoạch bài dạy về từ nhiều nghĩa SGK lớp 5- trang 66(tập 1)
(Phụ lục bài soạn kèm theo) [3], [4]
2.3.3. Phương pháp dạy dạng bài lý thuyết “Từ nhiều nghĩa”

Mục tiêu của bài học này là giúp học sinh nắm vững khái niệm về từ nhiều
nghĩa, phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ. Xác định được nghĩa gốc và
nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Tìm được nghĩa chuyển của một số danh từ chỉ
bộ phận cơ thể người, động vật.
Để giúp học sinh hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, giáo viên hướng dẫn học
sinh từ nhận xét 1, học sinh có thể nêu ra một số ví dụ về nghĩa của từ đó. Ví dụ:
răng em bé, răng sữa, răng mèo…Để đến nhận xét 2, học sinh tìm thêm được từ
chứa tiếng mới: răng cào, từ đó giúp học sinh hiểu được răng của chiếc cào không
nhai được như răng người hay động vật nhưng vẫn gọi là răng vì chúng chỉ vật
nhọn, sắc, sắp đều nhau thành hàng. Sau đó u cầu học sinh tìm thêm các từ chứa
tiếng răng có nghĩa như răng cào: răng cưa, răng bừa…Tiếp theo đó yêu cầu học
sinh nhận xét được từ răng qua nhận xét 1 và 2 có 2 nghĩa:
- Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa gốc.
- Nghĩa ở nhận xét 2 là nghĩa chuyển.
Hai nghĩa này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Sau khi học sinh nắm vững nhận xét 1 và 2 cần đặt câu hỏi vấn đáp để giúp
học sinh nhớ khái niệm từ nhiều nghĩa, yêu cầu học sinh lấy ví dụ về từ nhiều
nghĩa. Giáo viên cùng học sinh phân tích từ vừa tìm được. Nếu học sinh cịn lúng
túng, giáo viên có thể lấy ví dụ về từ nhiều nghĩa trong các kết hợp từ khác nhau.
Ví dụ: Đi
- Nó chạy cịn tơi đi.
- Chân nó khơng đi giày.
- Ca nơ đi nhanh hơn thuyền.
- Đối với ví dụ này giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét được từ đi trong
câu 1 có nghĩa là di chuyển từ nơi này sang này sang nơi khác bằng những bước
chân. Từ đi trong câu thứ 2 có nghĩa là mang hay đeo vào. Từ đi trong câu thứ 3 có
nghĩa là chuyển động của các phương tiện giao thông. Để rút ra kết luận đi trong
câu 1 là nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động của cơ thể người, từ đi trong câu 2, câu 3 là
nghĩa chuyển vì nghĩa của nó được suy ra từ nghĩa gốc và nó có mối
liên hệ về nghĩa với từ đi trong câu 1.

- Với bài tập có dạng tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong các câu văn
giáo viên nên cho học sinh thảo luận, phát biểu ý kiến của mình sau khi học sinh đã
rút ra được kết quả đúng. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm thêm một số câu hay
từ chứa tiếng đó
mang nghĩa chuyển.
Ví dụ: Với từ: - Mắt: mắt kính, mắt tre, mắt lưới,mắt xích…
7


8

8

- Chân: chân trời, chân lưới, chân núi, chân mây…
- Đầu: đầu hàng, đầu tàu hỏa, đầu nguồn, đầu người( thành
viên trong một gia đình)… [3]
- Với bài tập 2 của phần luyện tập của tiết học yêu cầu học sinh tìm sự
chuyển nghĩa của từ cổ, tay, lưng, lưỡi, miệng. Giáo viên giúp học sinh ghi nhớ
được nhận xét các từ chỉ bộ phận cơ thể người và động vật là những từ nhiều nghĩa
và nó ln là nghĩa gốc của từ.
2.3.4. Phương pháp dạy dạng bài “Luyện tập về từ nhiều nghĩa”
Trong SGK Tiếng Việt 5, sau khi học bài khái niệm từ nhiều nghĩa có 3 tiết
dành để luyện tập về từ nhiều nghĩa. Ở các tiết luyện tập này giáo viên cần củng cố
cho học sinh về khái niệm về từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc và nghĩa chuyển. mối liên
hệ về nghĩa của từ nhiều nghĩa.
* Đối với các bài tập yêu cầu học sinh đặt câu để phân biệt từ nhiều nghĩa là
động từ hay tính từ, giáo viên nên hướng dẫn học sinh tìm từ ứng với từng nghĩa rồi
đặt câu với những từ vừa tìm được. Nên khuyến khích học sinh tìm được nhiều từ,
có khi đó là những từ có nghĩa khác với yêu cầu nhưng như vậy cũng tốt vì như thế
học sinh sẽ nắm vững nghĩa hơn sau khi được giải thích từ giáo viên .

Ví dụ : Đi [3]
+ Nghĩa 1: Tự di chuyển bằng hai chân: đi bộ, tập đi
+ Nghĩa 2: Mang, xỏ vào chân hoặc tay để che, giữ.
Học sinh có thể đặt câu:
+ Nghĩa 1: Nam đi bộ đến trường.
Bé Nam đang tập đi.
+ Nghĩa 2: Em đi dép quai hậu đến trường
Mùa đông phải đi tất để giữ ấm đôi chân.
Nhận xét: Đi nghĩa 1 mang nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động di chuyển bằng hai
chân của con người. Còn đi nghĩa 2 là nghĩa chuyển, mặc dù nó khơng chỉ hoạt
động di chuyển bằng hai chân của con người nhưng đều chỉ hoạt động mang, xỏ cái
gì đó vào chân, tay.
Song song với biện pháp trên đối với dạng bài tập này để giúp học sinh phân
biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển, giáo viên nên sử dụng một số câu hỏi để giúp học
sinh hình dung ra nghĩa ban đầu của nó.
Ví dụ:
? Nhắc đến ngọt ta có cảm giác thế nào? (ngọt của đường, mật)
? Từ ăn gợi cho ta hoạt động gì của bộ phận nào? (hoạt động đưa thức ăn vào
miệng)
? Từ đi gợi cho ta hoạt động của cái gì? (sự di chuyển của hai chân)
Nhờ thế học sinh sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong dạng
bài tập này và cũng nhờ thế nên chắc chắn học sinh sẽ dễ dàng đặt câu theo yêu cầu
bài tập hơn rất nhiều.
8


9

9


* Dạng bài tập yêu cầu phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa là một dạng
bài tập khó đối với học sinh vì học sinh rất khó khăn trong việc gọi ra nét nghĩa của
từng từ trong các kết hợp khác nhau. So sánh nó với các kết hợp bên cạnh để xác
định nó là đồng âm hay nhiều nghĩa.
Trước khi làm bài tập giáo viên phải yêu cầu học sinh nêu khái niệm về từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa. Mối quan hệ về ý nghĩa của từ đồng âm (khác nhau
hoàn toàn), nghĩa của từ nhiều nghĩa( bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau).
Sau mỗi tiết luyện tập để củng cố kiến thức cho học sinh, giáo viên có thể
đưa ra thêm một số dạng bài tập mới. mục đích của các bài tập này là củng cố, mở
rộng kiến thức từ nhiều nghĩa.
Dạng bài tập 1: Tìm từ đồng nghĩa có thể thay thế từ nhiều nghĩa trong các
câu văn.
Ví dụ : Tìm từ có thể thay thế từ ăn trong câu sau:
- Nhà em ăn tối chưa?
(dùng bữa)
- Loại ô tô này ăn xăng lắm.
(tốn, hao)
- Tàu ăn hàng ở cảng.
(tiếp nhận)
- Chị Lan ăn lương rất cao
(hưởng thụ)
- Em làm như vậy dễ ăn đòn lắm.
(chịu)
- Da em ăn nắng q.
(bắt)
- Hồ dán khơng ăn.
(kết dính)
- Hai màu này rất ăn với nhau.
(sự phù hợp)

- Rễ cây tre ăn ra tới ruộng.
(lan)
Dạng bài tập 2: Cho từ trong các kết hợp từ, tìm nghĩa của nó tương ứng.
Ví dụ: Trong thành ngữ: “ Chạy thầy chạy thuốc” dòng nào dưới đây nêu
đúng nét nghĩa của từ chạy ? Chọn câu trả lời đúng:
a. Di chuyển nhanh bằng chân.
b. Hoạt động của máy móc.
c. Lo liệu khẩn trương để được cái mình cần.
d. Khẩn trương tránh những điều khơng may xảy đến.
Dạng bài tập 3: Cho nghĩa của từ trong kết hợp từ, câu văn tìm câu có từ
dùng với nghĩa đó.
Ví dụ : Câu nào dưới đây từ đánh được dùng với nghĩa “Xoa hoặc xát lên bề
mặt của vật để vật sạch sạch, đẹp”
a. Bọn trẻ chơi trò đánh trận giả.
b. Các bác nông dân đang đánh trâu ra đồng.
c. Sau bữa tối, ông và bố thường đánh cờ.
d. Hàng tuần vào ngày nghỉ, bố thường đánh giày.
2.3.5. Giúp học sinh hiểu về từ nhiều nghĩa
Để học sinh nhận biết thế nào là từ nhiều nghĩa. Trước hết giáo viên có thể
cho học sinh ví dụ để phân biệt từ có một nghĩa.
9


10

10

Ví dụ 1: (?) Em hãy giải thích nghĩa của từ “xe đạp” ? [3]
HS: Xe đạp là một phương tiện cho người đi, có 2 bánh dùng sức người đạp
cho bánh quay. Như vậy, nghĩa trên là nghĩa duy nhất của từ “xe đạp”. Hay nói

cách khác: Từ “xe đạp ” chỉ có thể gọi tên một sự vật duy nhất. Vậy, có thể nói từ “
xe đạp” là từ chỉ có một nghĩa.
Ví dụ 2: (?) Em hãy nêu ý nghĩa từ “chạy” trong các câu sau:
- Nam đang chạy(1) bộ.
- Cái đồng hồ này chạy(2) nhanh 5 phút.
- Bà con khẩn trương chạy(3) lũ.
- Mặt hàng này bán rất chạy(4).
HS: Chạy(1): Di chuyển cơ thể bằng những bước nhanh.
Chạy(2): Hoạt động của máy móc.
Chạy(3): Đi nơi khác để tránh nguy hiểm.
Chạy(4): Nhanh, nhiều người mua.
Từ “chạy” có khả năng gọi tên nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau, nhiều
hoạt động khác nhau. Ta nói từ “chạy” là từ có nhiều nghĩa.
Với cách hướng dẫn nhận diện này, các em sẽ phân biệt từ một nghĩa và từ
nhiều nghĩa một cách dễ dàng hơn, trước khi dẫn đến hình thành khái niệm nghĩa
gốc - nghĩa chuyển như sách giáo khoa đã trình bày.
2.3.6. Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để hướng dẫn và khắc sâu
cho học sinh phân biệt nghĩa gốc - nghĩa chuyển một cách nhanh nhất, đúng nhất
[2]
* Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó dùng
theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, chúng tơi đã hướng dẫn học sinh thông qua
cách nhận biết trực quan như sau:
- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em có thể cảm nhận được bằng giác quan
thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc hành động, tính chất mà các em khơng thể cảm nhận bằng giác quan thì từ đó
được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ 1: a. Bữa tối, nhà em thường ăn cơm muộn.
b. Xe này ăn xăng quá.

c. Mẹ tôi là người làm công ăn lương.
- Ăn: chỉ hoạt động từ đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong câu a,
là hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) Từ “ăn” trong câu a, được dùng theo nghĩa
gốc.
- Ăn: chỉ hoạt động tiêu thụ (tiêu hao) năng lượng để máy móc hoạt động.
Hành động “ăn” trong câu b, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ “ăn”
trong câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
10


11

11

- Hành động ăn trong câu c, là hành động trừu tượng (không dùng miệng).
Từ “ăn” trong câu c, được dùng theo nghĩa chuyển.
Như vậy, từ “ăn” nào chỉ hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) thì từ đó được
dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những từ
dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ 2:
a. Thanh sắt cứng quá, không uốn cong được.
b. Tay nghề của cơ ấy rất cứng
c. Nó rất cứng đầu.
- Cứng: khó bị biến dạng. Từ “cứng” ở câu a, chỉ tính chất cụ thể (có thể cảm
nhận bằng cơ sở, nắm để nhận ra) => Từ “cứng” ở câu a, được dùng theo nghĩa
gốc.
- Cứng: có trình độ cao, vững vàng. Từ “cứng” ở câu b, chỉ tính chất trừu
tượng (không thể sờ, nắm) => Từ “cứng” được dùng theo nghĩa chuyển.
- Cứng: bướng bỉnh, khó bảo. Từ “cứng” ở câu c, chỉ tính chất trừu tượng
(khơng thể sờ, nắm) => Từ “cứng” được dùng theo nghĩa chuyển.

Như vậy, qua cách nhận diện trên, từ “cứng” chỉ tính chất cụ thể (dùng tay để
sờ, nắm được) thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc. Từ “cứng” chỉ tính chất trừu
tượng (không sờ, nắm được) là từ được dùng theo nghĩa chuyển.
* Nếu cả hai nghĩa đều cụ thể, khó phân biệt được nghĩa nào cụ thể hơn,
nghĩa nào trừu tượng hơn, thì có thể hướng dẫn học sinh dựa vào các dấu hiệu sau:
- Nếu nghĩa của từ nào nói đến bản thân con người (hoặc động vật), hoặc tính chất,
hành động của con người thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Nếu nghĩa của từ nói đến các đồ vật, vật có hình dáng, tính chất, hành động gần
giống con người thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ 1: Từ “tai”
a. Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
b. Chiếc ấm này, tai đã sứt.
- Tai: cơ quan hai bên đầu người, động vật. Từ “tai” dùng chỉ bộ phận cơ thể
người. Từ “tai” ở câu a, được dùng theo nghĩa gốc.
- Tai: bộ phận của vật có hình dáng giống cái tai. Từ “tai” chỉ bộ phận của
vật. Từ “tai” ở câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ 2: Từ “reo”
a. Bé reo lên: “Mẹ về!”.
b. Hàng thơng reo trước gió.
- Reo: kêu lên tỏ ý vui mừng, phấn khởi. Từ “reo” ở câu a, chỉ tiếng kêu của
người. Từ “reo” được dùng theo nghĩa gốc.
- Reo: phát ra tiếng kêu đều, nghe vui tai. Từ “reo” ở câu b, chỉ tiếng kêu của
vật. Từ “reo” ở câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
Với cách làm này, các em dễ dàng phân biệt nghĩa của từ: “chân” trong chân
gà với “chân” trong chân giường, chân núi; “mắt” trong mắt em bé với “mắt” trong
mắt tre, mắt lưới, ...
11


12


12

2.3.7. Giúp học sinh phát hiện ra mối liên hệ giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển
Để học sinh nhận diện được một từ nào đó có phải là nghĩa chuyển được hiểu
rộng từ nghĩa gốc của từ đó hay khơng. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra những
nét giống nhau trong ý nghĩa của các từ. Nếu từ đó có nét giống so với nghĩa ban
đầu thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển. Nếu từ đó có nghĩa hồn tồn khác xa
với nghĩa ban đầu thì từ đó là từ đồng âm.
Ví dụ 1:
a. Nó bị ướt từ đầu đến chân. (chân: bộ phận cuối cùng của cơ thể người
hoặc động vật để đi, đứng, di chuyển).
b. Chân giường bị gãy. (Chân: bộ phận cuối cùng của đồ dùng, có tác dụng
đỡ bộ phận khác).
c. Ở chân núi phía xa, bầu trời như thấp dần. (Chân: Phần cuối cùng của một
vật, tiếp giáp và bám chặt với mặt nền).
Từ “chân” trong 3 câu trên cùng có nét nghĩa giống nhau: cùng chỉ bộ phận
dưới cùng. Vậy, “chân” trong chân giường, “chân” trong chân núi là nghĩa chuyển
của từ “chân” trong chân người.
Ví dụ 2:
a. Tơi nghe tiếng hú của người bạn từ bên kia đồi. (hú: cất lên tiếng to, vang,
kéo dài để gọi nhau).
b. Tiếng còi tàu hú vang trong đêm. (hú:tiếng còi của tàu phát ra âm thanh)
c. Ngồi trời, gió hú từng cơn. (hú: phát ra tiếng kêu như tiếng hú)
Từ “hú” trong 3 câu trên có nét nghĩa giống nhau: cùng phát ra âm
thanh.Vậy “hú” trong cịi hú, “hú” trong gió hú là nghĩa chuyển của “hú” trong
người hú.
2.3.8. Hướng dẫn phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm
Để giúp học sinh không nhầm lẫn giữa từ nhiều nghĩa và từ cùng âm khác
nghĩa, có thể cho học sinh dựa vào một số dấu hiệu phân biệt sau đây:

Từ đồng âm
Dấu hiệu
Từ nhiều nghĩa
phân biệt
(Nghĩa gốc – nghĩa chuyển)
- Đọc giống nhau, viết giống nhau
- Đọc giống nhau, viết giống nhau.
Giống
- Dựa vào văn cảnh để xác định nghĩa - Dựa vào văn cảnh để xác định
nhau
của từ.
nghĩa của từ.
Khác
- Luôn luôn cùng từ loại
- Thường khác từ loại
nhau
Ví dụ: Lan ăn cơm.
Ví dụ: Chúng nó tranh nhau quả
ĐT
bóng.
ĐT
Xe ăn hàng ở cảng.
Mọi người đang xem tranh.
ĐT
DT
* Nếu cùng từ loại thì phần lớn là
danh từ.
Ví dụ:
12



13

13

Tấm vải này dày quá.
DT
Năm nay quê em được mùa vải.
DT
- Các từ đồng âm có nghĩa khác xa
- Giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhau.
ln có mối quan hệ về nghĩa.
- Một số từ đồng âm xuất hiện từ
- Tất cả nghĩa chuyển đều xuất phát từ quy luật chuyển từ loại.
quy luật chuyển nghĩa của từ.
Ví dụ:
Ví dụ:
Bố đẽo cày(1).
Ngơi nhà (1) vừa mới xây xong.
Bố đang cày ngồi đồng(2).
Cà nhà (2) vui vẻ trị chuyện .
Cày(1): Danh từ chỉ 1 loại nông cụ.
Nhà (1): chỉ nơi ở.
Cày(2): Động từ dùng chỉ cày để
Nhà(2): Chỉ những người sống trong nơi lật đất lên (chuyển loại từ danh từ
ở đó.
sang động từ)
2.3.9. Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học
Phân môn Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về TV bằng

con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu, kĩ năng nói và viết cho
học sinh. Chính vì thế, trong q trình dạy Luyện từ và câu nói chung và dạy các
dạng bài từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc nghĩa chuyển nói riêng chúng ta có thể sử dụng
nhiều phương pháp dạy học khác nhau để tích cực hóa hoạt động học tập, hình
thành kiến thức và kĩ năng cho HS. Tuy các phương pháp này khơng mới mẻ nhưng
ít GV sử dụng chưa đúng lúc, đúng bài, đúng hoạt động.
Từ chỗ dạy học theo phương pháp truyền thống, tôi đã thường xuyên vận
dụng linh hoạt các hình thức tổ chức trong một tiết học, như cá nhân, nhóm (nhóm
hai, nhóm 3, nhóm 4), tổ chức trị chơi, đố vui. Tăng cường UDCNTT vào dạy học
ở dạng bài này để học sinh hiểu được đúng nghĩa của từ.
Ví dụ: Hịn đá và đá bóng Giáo viên UDCNTT xuất hiện hình ảnh hịn đá và
một cầu thủ đá bóng trên ti vi, học sinh quan sát và nhận ra ngay từ nào là nghĩa
gốc, từ nào là nghĩa chuyển.
Trong SGK Tiếng Việt 5, sau khi học bài khái niệm từ nhiều nghĩa có 3 tiết
dành để luyện tập về từ nhiều nghĩa. Ở các tiết luyện tập này giáo viên cần củng cố
cho học sinh về khái niệm về từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc và nghĩa chuyển. mối liên
hệ về nghĩa của từ nhiều nghĩa.
* Để tránh sự nhàm chán, gây hứng thú cho học sinh, đối với các bài tập tìm
nghĩa ở cột A ứng với nghĩa ở cột B giáo viên nên tổ chức các trò chơi học tập như
trò chơi: “Nhà thông thái”, “Ai nhanh hơn”, “Ai giỏi hơn”. Đồng thời sau khi học
sinh chơi phải yêu cầu học sinh nêu lí do vì sao em làm như vậy.
13


14

14

Song song với các hình thức dạy học thì tơi thường sử dụng các phương pháp
vào dạy học như phương pháp thực hành, phương pháp sử dụng tình huống có vấn

đề, phương pháp đàm thoại, Phương pháp thảo luận nhóm…
- Việc lựa chọn, phối hợp, vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học ở từng
tiết dạy Luyện từ và câu đều có những đặc điểm riêng, khơng thể áp dụng một cách
máy móc, đồng loạt. Khơng có phương pháp nào là “vạn năng” là “tuyệt đối” đúng,
là có thể phù hợp với mọi khâu của tiết dạy Luyện từ và câu. Chỉ có sự tìm tịi sáng
tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới đạt được thành công trong mỗi
bài dạy. Vốn từ các em trở nên đa dạng, phong phú khi các em chủ động phát huy
tính tích cực, độc lập sáng tạo, tinh thần hợp tác làm việc, cùng với sự chỉ đạo sáng
suốt của người giáo viên sẽ đem lại một kết quả hoàn hảo nhất.
- Coi trọng các tiết dạy học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Vì nội dung kiến
thức này trìu tượng, khó với học sinh. Nên thơng qua các hình thức tổ chức và
phương pháp dạy học cần cho học sinh nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa. Biết kết hợp da dạng các phương pháp dạy học(chú ý phương pháp
dạy phân hóa đối tượng học sinh).
Tôi cùng với đồng nghiệp trong tổ khối, xây dựng tiết dạy đối chứng và tổ
chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học. Một số tiết dạy khó
được đưa ra trong buổi sinh hoạt chun mơn để mọi thành viên cùng chia sẻ kinh
nghiệm. Cứ như thế các giờ dạy nói chung và các giờ dạy về từ nhiều nghĩa nói
riêng khơng cịn là giờ khó với chúng tôi trên 25 năm giảng dạy.
2.3.10. Tăng cường kiểm tra, đánh giá học sinh
- Trong dạy học việc đánh giá học sinh là vơ cùng quan trọng. Vì có kiểm tra
đánh giá thì giáo viên mới nắm bắt được mức độ tiếp thu kiến thức của các học sinh
để điều chỉnh phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp. Giáo viên có thể
kiểm tra đánh giá bằng nhiều hình thức như đánh giá trực tiếp với từng học sinh,
uốn nắn sửa sai cho từng em, từng bàn cụ thể, sửa từng chi tiết nhỏ trong câu trả lời
của học sinh.
- Trong việc đánh giá câu trả lời của học sinh thì ý kiến của học sinh là quan
trọng. Song khơng phải chỉ có tơi là người duy nhất đánh giá câu trả lời của học
sinh mà tơi cịn tạo điều kiện cho các em tự đánh giá và nhận xét lẫn nhau.
- Đối với những học sinh cịn lúng túng khi tìm câu trả lời thì tơi sẽ có câu

hỏi gợi mở hoặc cho học sinh có khả năng xác định nghĩa của từ tốt nói trước, rồi
cho học sinh khác nhắc lại.
- Có những học sinh hiểu được ý, nhưng khi diễn đạt bằng lời thì lại lúng
túng và khi đó tơi phải tích cực gọi nhiều lần để khuyến khích tính tự tin, mạnh dạn
ở các em...
- Đối với những học sinh tiếp thu chậm, tơi chú ý đến các hình thức tổ chức
hoạt động, đưa ra yêu cầu phù hợp với đối tượng để các em hăng hái, tích cực học
tập. Nếu học sinh trả lời chưa đúng, hoặc thiếu ý thì tơi không khiển trách ngay mà
phải nhẹ nhàng, hướng dẫn để các em khỏi tự ti, mặc cảm với các bạn khác.
14


15

15

- Thường xuyên tạo cơ hội cho học sinh đánh giá học sinh, phụ huynh kiểm
tra đánh giá học sinh.
Trong nhận xét, đánh giá bài cho học sinh, người giáo viên phải thật cơng
bằng, vơ tư chính xác khi nhận xét bài cần chỉ ra những chỗ sai một cách cụ thể để
các em điều chỉnh sửa sai. Việc đánh giá, nhận xét, chữa bài không chỉ đạt ra trong
giờ luyện từ và câu mà còn phải đặt ra ở tất cả các mơn học. Bất kể mơn học gì,
giáo viên cũng nên xem đọc là một yêu cầu không thể thiếu được. Làm như vậy các
tác dụng khuyến khích các em, tạo ra ý thức thường xuyên rèn đọc ở tất cả các môn
học, ở mọi lúc mọi nơi, ở trường cũng như ở nhà. Tạo cơ hội cho học sinh được
kiểm tra đánh giá lẫn nhau, phát hiện ra lỗi sai để sửa cho bạn.
Đối với nhận xét phần xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ của
học sinh phải kết hợp hai yêu cầu đó là:
+ Nhận xét về xác định đúng nghĩa gốc và nghĩa chuyển
+ Nhận xét về cách trình bày, hoặc trả lời của bạn. Nếu bạn trả lời chưa đúng

thì trả lời lại cho bạn. Nếu bạn trả lời đúng thì nhắc lại nội dung của bạn vừa trình
bày.
Với những em học chậm tiến bộ, không xác định được đâu là nghĩa gốc, đâu
là nghĩa chuyển tôi đã chọn những em có kĩ năng học tốt ngồi cùng để thường
xuyên kèm cặp, giúp đỡ bạn. Ngồi ra tơi gặp gỡ phụ huynh tìm hiểu thêm và trao
đổi với phụ huynh để cuối mỗi buổi học giáo viên kèm thêm 15 đến 20 phút làm
thêm một số bài luyện tập về dạng về từ nhiều nghĩa, xác định nghĩa gốc và nghĩa
chuyển của từ cụ thể. Kết hợp cùng gia đình động viên khuyến khích thường
xuyên, nhắc nhở các em luyện làm bài tập thêm ở nhà. Kịp thời động viên khen
ngợi những cố gắng của các em (dù rất nhỏ) để các em có ý thức phấn đấu vươn
lên. Sau một thời gian tôi thấy các em tiến bộ vượt bậc về xác định được từ một
nghĩa, từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc, nghĩa chuyển…
Tóm lại: Trong q trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến
việc khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua một thời gian giảng dạy phân mơn LTVC nói chung và phần từ nhiều
nghĩa nói riêng với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên, hiệu quả giờ
dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt động tích cực hơn, các
em mạnh dạn tự tin hơn khi làm bài. Đặc biệt trong các giờ học các em đã hăng hái
phát biểu xây dựng bài các em tích cực chủ động trong học tập. Giờ học trở nên sôi
nổi, lôi cuốn được tất cả các em tham gia kể cả những em nhút nhát như em: Thái
Dương, Tuấn Tú... Nhiều em ý thức tự học hơn, mạnh dạn như em: Trang Anh, Phú
Quý, Huyền Trang...
- Học sinh phân biệt được từ một nghĩa với từ nhiều nghĩa một cách dễ dàng.
Nhờ dựa vào dấu hiệu cụ thể và trừu tượng của các từ mà học sinh phân biệt chính
15



16

16

xác được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong nhiều văn cảnh khác nhau như
em: Lê Linh A, Trúc Linh, Quốc An. Từ đó học sinh đặt câu hỏi đúng, phù hợp với
ý nghĩa của mỗi từ theo nghĩa gốc hoặc nghĩa chuyển. Các em nắm bắt được mối
quan hệ về nghĩa của từ nhiều nghĩa và các dấu hiệu phân biệt giữa từ nhiều nghĩa
với từ đồng âm, học sinh đã có kỹ năng nhận diện tốt từ nhiều nghĩa và từ đồng âm
như em: Ngọc Trâm, Nhật Vũ…. Điều này giúp cho các em không những học tốt
kiến thức về “Từ nhiều nghĩa” mà cịn có tác dụng giúp các em tiếp thu nhanh bài
“Từ đồng âm” trong chương trình.
- Hiểu được ý nghĩa và tác dụng của nghĩa bóng tu từ, giúp các em phát hiện
nhanh, đúng các tín hiệu nghệ thuật nhân hố, ẩn dụ, hốn dụ thể hiện trong văn
cảnh, góp phần nâng cao khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của bài văn, bài thơ.
Đồng thời giúp các em biết sử dụng đúng các nghĩa bóng tu từ trong khi thể hiện
bài văn viết của mình một cách cụ thể sinh động và giàu hình ảnh. Tháng 3 vừa qua
lớp tơi có 3 em được tham gia câu lạc bộ TTTT môn Tiếng việt đạt giải nhì và hai
giải ba.
Kết quả cuối học kì 2 lớp tơi khơng cịn học sinh chưa đạt u cầu về mơn
Tiếng việt nói chung và dạng bài phân biệt nghĩa của từ nói riêng. Bản thân tôi là
giáo viên chủ nhiệm cũng như các em học sinh trong lớp rất mừng. Đây là thành
quả giảng dạy của tôi cũng là hiệu quả của một phần đề tài mà trong năm học này
tôi nghiên cứu, đã mang lại hiệu quả rõ rệt.
Kết quả khảo sát đối chứng kết quả thực nghiệm chất lượng ở lớp 5B do
thầy Đồn Văn Hải chủ nhiệm và lớp 5A tơi chủ nhiệm nhiệm như sau:

Bảng 2: Kết quả thực nghiệm thời điểm cuối tháng 3 năm 2022
Học sinh phân biệt


Học sinh phân biệt đúng

Lớp

nghĩa gốc, Học sinh chưa phân
Tổng số đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển của biệt đươc nghĩa gốc,
học
nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa nghĩa chuyển của từ
sinh
từ nhiều nghĩa
nhưng cịn chậm, nhiều nghĩa
đơi khi cịn lẫn lộn

5A

34 em

5B

33 em

SL

TL

SL

TL

SL


TL

20

58.8

14

41.2

0

0

14

42.4

16

48.4

3

9.1

Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả khảo sát ở hai lớp 5A và 5B đã thấy
có sự khác biệt rõ ràng. Lớp 5B (Lớp không thực nghiệm) đạt vẫn còn 3 học sinh
16



17

17

chưa hồn thành, lớp 5A(Lớp tơi thực nghiệm) khơng cịn học sinh chưa hoàn
thành, hơn nữa tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt ở lớp 5B tăng cao.
Qua khảo sát cho thấy lớp 5A số học sinh phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa đầu năm có 8 em/23.5%, cuối năm có 20 em/58.8%,
tăng 12 em/36.3%; chưa phân biệt đươc nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa là 8 em/23.5%, cuối năm giảm xuống khơng cịn em nào.
Lớp 5B số học sinh phân biệt đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa của lớp 5B có 9 em/27.2%; cuối năm có 14 em/42.4%, tăng 6 em/18.1%;
chưa phân biệt đươc nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa là 9 em/26.4 %,
cuối năm còn 3 em/ 9.1%. Quan sát kết quả khảo sát của 2 lớp ta thấy số học sinh
phân biệt được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa tăng so với đầu năm
tương đối nhiều. Số học sinh chưa phân biệt được được nghĩa gốc, nghĩa chuyển
của từ nhiều nghĩa giảm xuống đáng kể.
So sánh chất lượng của lớp 5A cao hơn 5B rõ rệt. Như vậy, với một thời gian
ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi đã thực hiện thu được kết quả
khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện pháp này một cách thường
xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng học sinh phân biệt được nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa của các em được nâng lên.
Như vậy chất lượng của lớp 5B thấp hơn lớp 5A. Tơi rất mừng vì sau một
thời gian bản thân tôi cùng với đồng nghiệp đã nghiên cứu, trao đổi, thảo luận và
thực nghiệm cùng tìm ra giải pháp để nâng cao chất lượng dạy - học các dạng bài
về từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5 trường tiểu học Quảng Lưu nói chung và lớp
5A của tơi nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy- học môn Tiếng Việt trong
nhà trường năm học 2021-2022.

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu thử nghiệm tôi nhận thấy để dạy các tiết dạy học phân môn
LTVC đã có kết quả cao, hạn chế được những khó khăn của học sinh khi xác định
được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa, từ đồng âm khác nghĩa đồng thời
bổ sung vốn từ cho học sinh giúp các em vận dụng vào làm văn thêm sinh động và
sáng tạo hơn. Kích thích hứng thú học tập, nâng cao chất lượng giờ học cho học
sinh thì người giáo viên trước hết phải là người có lịng u nghề, mến trẻ, tự
nguyện, nhẹ nhàng, ân cần là người bố, người mẹ thứ hai ở trường vừa dạy văn hóa
vừa gần gũi, chăm sóc, theo dõi diễn biến tâm lí của học sinh để giúp các em tiến
bộ về mọi mặt. Cần phải nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, xác định những
khó khăn mà học sinh lớp mình gặp phải để từ đó có biện pháp khắc phục, nâng cao
hiệu quả các tiết học.
Trong giảng dạy phân môn LTVC nói chung và giảng dạy phần từ nhiều
nghĩa nói riêng, giáo viên cần nghiên cứu kỹ SGK, tài liệu tham khảo, khảo sát tình
hình thực tế những lỗi sai mà học sinh của lớp mình giảng dạy để áp dụng các biện
17


18

18

pháp khắc phục sử cho học sinh khi trong từng tiết dạy, ở tất cả các môn học chứ
không riêng mình phân mơn LTVC mới sửa lỗi.
Việc rèn kĩ năng xác định được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
cho học sinh lớp 5 là cả một quá trình lâu dài, chứ không phải một sớm một chiều
nên người giáo viên cần phải kiên trì, bền bỉ, khơng nên nóng vội làm theo thời
điểm hoặc làm theo cảm tính sẽ không mang lại hiệu quả cao.
3.2. Kiến nghị

a. Đối với giáo viên
- Nắm vững nội dung kiến thức về từ, nghĩa của từ, nghĩa gốc nghĩa chuyển
trong chương trình Tiếng Việt; nắm vững đặc điểm đối tượng học sinh.
- Nghiên cứu kĩ SGK và các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, chuẩn bị kĩ bài
dạy trước khi lên lớp. Vận dụng linh hoạt, đồng bộ các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học để mỗi tiết dạy đạt được chất lượng cao nhất.
- Không ngừng học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp và tự tích luỹ kinh nghiệm
cho bản thân.
b. Đối với nhà trường
- Chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn theo
hướng nghiên cứu bài học để giáo viên thường xuyên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm
dạy các bài khó.
- Tích cực tham mưu với địa phương, Hội cha mẹ học sinh để bổ sung cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học đảm bảo tốt hơn.
- Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ chức dạy đối chứng chuyên đề các
tiết Tập đọc nhiều hơn.
- Cần nâng giá trị thưởng cho những học sinh, những giáo viên động viên,
những lớp đạt tiêu biểu trong từng đợt thi đua và cuối năm học.
c. Đối với Phòng Giáo dục và cụm chun mơn
Phịng Giáo dục và Đào tạo và cụm chuyên môn nên tổ chức hội thảo chuyên
đề về nội dung, kinh nghiệm về từ, nghĩa của từ, nghĩa gốc nghĩa chuyển cho học
sinh nói chung và lớp 5 nói riêng để giáo viên các nhà trường có cơ hội học tập,
tham khảo, rút kinh nghiệm lẫn nhau giúp cho chất lượng cho học sinh về từ, nghĩa
của từ, nghĩa gốc nghĩa chuyển trong các nhà trường Tiểu học đạt kết quả cao hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân qua thực tế về nâng cao hiệu
quả về xác định được từ, nghĩa của từ, nghĩa gốc nghĩa chuyển học sinh lớp 5 trong
nhà trường Tiểu học Quảng Lưu. Hồn thành được đề tài này tơi được sự giúp đỡ
của các đồng chí trong Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp, các bậc phụ huynh
lớp 5A. Mặc dù đó cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn khơng tránh khỏi những
thiếu sót. Tơi rất mong được sự góp ý của các đồng chí trong Hội đồng khoa học

các cấp để đề tài này hoàn thiện hơn. Được áp dụng rộng rãi vào thực tế các nhà
trường Tiểu học trong huyện nhà, góp phần cho việc giảng dạy phân môn Luyện từ
và câu ngày một tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
18


19

19

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quảng Xương, ngày 01 tháng 4 năm
2022
Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác.
Lê Văn Bản

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Mấy vấn đề về lý luận và phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng Việt trong nhà
trường (Nguyễn Đức Tôn)
[2]. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học (Lê Hữu Thỉnh – Trần
Mạnh Hưởng)
[3].Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 tập 1
[4].Sách giáo viên Tiếng Việt 5 tập 1

19



20

20

MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

1

Mở đầu

1

2

Lí do chọn đề tài

1

3

Mục đích nghiên cứu

1

4


Đối tượng nghiên cứu

2

5

Phương pháp nghiên cứu

2

6

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

7

Cơ sở lí luận của việc dạy học các kiểu câu kể cho học
sinh lớp 5
Thực trạng việc dạy học về nghĩa của từ ở trường Tiểu
học Quảng Lưu trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học về từ nhiều
nghĩa cho học sinh lớp 5
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận, kiến nghị

2


8
9
10
11
12
13

3
5
16
18

Kết luận

18

Kiến nghị

19

Tài liệu tham khảo

20

TRANG


21


21

PHỤ LỤC BÀI SOẠN
MÔN: LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Bài : Từ nhiều nghĩa
I. MỤC TIÊU: Giúp HS:
- Hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa; nghĩa gốc, nghĩa chuyển trong từ nhiều
nghĩa.
- Phân biệt được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong một số
câu văn. Tìm được ví dụ về sự chuyển nghĩa của một số danh từ chỉ bộ phận cơ thể
người và động vật
của từ nhiều nghĩa.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
- Sưu tầm tranh ảnh về các vật, hiện tượng, hoạt động để minh hoạ cho nghĩa
- Máy tính, ti vi để trình chiếu hình ảnh minh hoạ.
- Bút dạ, gấy khổ lớn để HS làm bài tập.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU
A. Kiểm tra:
- GV gọi HS nêu lại phần Ghi nhớ về Dùng từ đồng âm để chơi chữ (trong
tiết học trước) và HS khác lấy ví dụ minh họa
- Hai HS lên bảng thực hiện theo yêu cầu của GV.
- GV nhận xét, đánh giá việc làm bài và học bài của HS ở nhà, tuyên dương
HS làm tốt.
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài
- GV chỉ và gọi tên các đồ vật trong lớp học và cho HS quan sát hình ảnh
chân trời, chân núi trên màn hình .VD: đây là chân bàn, đây là chân ghế, đây là
chân người, đây là chân tường,...
- GV nói với HS: chân của bàn khác với chân của ghế, khác với chân của
người, khác với chân của tường, càng khác xa so với chân núi, chân trời nhưng đều

được gọi là chân. Vì sao vậy? Tiết học hôm nay sẽ giúp các em hiểu một hiện
tượng thú vị khác trong tiếng Việt. Đó là từ nhiều nghĩa.
- HS lắng nghe.
21


22

22

- GV ghi tên bài lên bảng.
- HS nhắc lại tên đầu bài và ghi vào vở.
2. Phần Nhận xét
Bài tập 1:
- Yêu cầu một HS đọc to Bài tập 1 trong phần Nhận xét.
- Một HS đọc to bài. Cả lớp theo dõi đọc thầm trong SGK.
- GV yêu cầu HS làm việc cá nhân.
- HS đọc SGK, suy nghĩ làm bài.
- Yêu cầu HS trình bày kết quả.
- HS lần lượt trình bày kết quả, cả lớp theo dõi nhận xét.
- GV kết luận: Các nghĩa mà các em vừa xác định cho các từ răng, mũi,
tai chính là nghĩa gốc (nghĩa ban đầu) của mỗi từ đó.
- HS lắng nghe.
Bài tập 2,3:
- Gọi một HS đọc toàn Bài tập 2, 3.
- Một HS đọc bài, cả lớp theo dõi đọc thầm.
- Yêu cầu HS tự làm bài. Sau khi HS làm bài xong các em trao đổi với bạn
bên cạnh về kết quả bài làm của mình.
- HS làm việc cá nhân. Sau khi làm xong HS trao đổi theo nhóm đơi kết quả
bài làm của mình.

- Gọi HS trình bày kết quả bài làm của mình.
- Năm đến bảy HS lần lượt trình bày kết quả bài làm của mình.
- Gọi HS nhận xét chữa bài, chốt lại lời giải đúng.
- Nhận xét bài làm của bạn và chữa lại kết quả vào bài làm của mình (nếu sai).
Kết quả:
- Răng cào: Nghĩa của từ răng trong trường hợp này khác với nghĩa
từ răng ở Bài tập 1 là dùng để cào chứ không dùng để cắn. Nghĩa của từ răng ở bài
tập 2 và nghĩa của từ răng ở Bài tập 1 là giống nhau cùng đều chỉ vật nhọn, sắc, sắp
đều nhau thành hàng.
- Mũi thuyền: Nghĩa của từ mũi ở đây khác với nghĩa của từ mũi ở Bài tập 1
là mũi thuyền nhọn để rẽ nước chứ không dùng để thở và ngửi. Nhưng chúng giống
nhau là đều chỉ bộ phận có đầu nhọn nhơ ra phía trước.
- Tai ấm: Nghĩa của từ tai ở đây khác với nghĩa của từ tai ở Bài tập 1: tai ấm
giúp người ta cầm được ấm dễ dàng để rót nước, khơng dùng để nghe. Nhưng hai
từ này đều giống nhau là cùng chỉ bộ phận ở bên chìa ra (hình giống cái tai).
- GV kết luận: nghĩa của các từ tai, mũi, ấm ở Bài tập 1 được gọi là nghĩa
gốc. Nghĩa của những từ đó ở Bài tập 2 gọi là nghĩa chuyển. Các nét nghĩa của
từ tai, mũi, ấm ở Bài tập 2 và Bài tập 1 đều có liên quan với nhau.
- Vậy qua các VD trên em hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa?
- Từ nhiều nghĩa là từ có nghĩa gốc và nghĩa chuyển.Các nghĩa của từ nhiều
nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
22


23

23

3. Phần Ghi nhớ
- GV gọi HS đọc ghi nhớ trong SGK. Hai đến ba HS đọc phần Ghi nhớ.

- Gọi HS nhắc lại nội dung Ghi nhớ khơng nhìn sách và lấy ví dụ minh họa.
- HS lấy ví dụ minh họa.GV ghi bảng, nhận xét.
4. Phần Luyện tập
Bài 1:
- Yêu cầu một HS đọc toàn bài. HS nêu yêu cầu của bài.GV cho HS quan sát
màn hình một số hình ảnh như quả na, đơi mắt của em bé,…
- Một HS đọc toàn bài, cả lớp theo dõi đọc thầm.
- HS làm việc theo cá nhân, sau khi làm bài xong trao đổi kết quả với bạn
bên cạnh.
- HS làm bài vào giấy nháp, sau khi làm bài xong trao đổi bài với bạn.
- Gọi HS trình bày, GV theo dõi gọi HS nhận xét và cùng chốt lại ý kiến
đúng.
- HS lần lượt trình bày kết quả. Cả lớp theo dõi nhận xét, cùng GV chốt lại
lời giải đúng.
Kết quả:
a)Từ mắt trong câu "Đôi mắt của bé mở to" mang nghĩa gốc. Còn
từ mắt trong câu "Quả na mở mắt" mang nghĩa chuyển.
b)Từ chân trong câu "Bé đau chân" mang nghĩa gốc. Còn từ chân trong câu
"Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân" mang nghĩa chuyển.
c)Từ đầu trong câu "Khi viết, em đừng ngoẹo đầu" mang nghĩa gốc. Còn
từ đầu trong câu "Nước suối đầu nguồn rất trong" mang nghĩa chuyển.
GV chốt kết quả bài tập 1.
Bài 2:
- Một HS đọc toàn bài. HS khác nêu yêu cầu bài.
- GV nêu chỉ làm 3 từ lưỡi, miệng, cổ; còn hai từ sau các em về nhà làm.
- Cả lớp theo dõi đọc thầm.
- Yêu cầu HS làm bài theo nhóm đơi vào vở bài tập Tiếng Việt.
- HS trao đổi, thảo luận theo nhóm để làm bài.
- Gọi HS trình bày kết quả.GV chụp bài làm của HS trình chiếu trên màn hìn
ti vi.

- HS nhận xét bài làm của từng nhóm theo yêu cầu của GV
Lời giải:
- Lưỡi: lưỡi dao, trăng lưỡi liềm, lưỡi gươm, lưỡi búa, lưỡi lửa, lưỡi hái,...
- Miệng: miệng bát, miệng túi, miệng bình, miệng hố, miệng núi lửa,...
- Cổ: cổ chai, cổ lọ, cổ bình, cổ áo, cổ tay, ...
5. Củng cố, dặn dò:
- Hai HS nhắc lại nội dung Ghi nhớ.
- GV nhận xét giờ học, tuyên dương, động viên học sinh làm bài tốt và nhắc
nhở những em cần cố gắng.
23


24

24

- Dặn HS về nhà học nội dung Ghi nhớ và làm lại Bài tập 2 vào vở và chuẩn
bị bài sau.

CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
TT

24

VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

1


LTVC

Luyện từ và câu

2

TH

3

THCS

4

DT

Danh từ

5

ĐT

Động từ

6

SL

Số lượng


7

TL

Tỉ lệ

8

SGK

Sách giáo khoa

9

TTTT

Trí tuệ tuổi thơ

Tiểu học
Trung học cơ sở



×