Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

(SKKN 2022) một số giải pháp giúp HS lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.16 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

TT
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
2.1
2.2
2.3
Giải pháp 1
Giải pháp 2
Giải pháp 3
Giải pháp 4
Giải pháp 5
Giải pháp 6
2.4
3.
3.1
3.2

NỘI DUNG
Mục lục
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm


Cơ sở lí luận của SKKN
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
GV cần nắm vững kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa
Giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, xây dựng thói quen tích
lũy kiến thức
Sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Dựa vào văn cảnh và các yếu tố từ loại giúp HS nhận diện
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
Xây dựng hệ thống bài tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
và bài tập phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
Bản thân tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ
trong giảng dạy .
Hiệu quả của SKKN
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

TRANG
1
1
1
1
1
3
3
4

5
5
7
9
11
14
16
18
19
19
20

0


1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong chương trình Tiểu học, mơn Tiếng Việt giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng. Bởi vì nó vừa là mơn khoa học, vừa là mơn cơng cụ giúp học sinh có kĩ
năng lĩnh hội những kiến thức của các môn học khác, là phương tiện giúp các
em trau dồi và phát triển ngôn ngữ, sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong hoạt
động giao tiếp hàng ngày, qua đó rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết. Trong đó, nội dung Luyện từ và câu được học từ lớp 2 đến lớp 5, mạch
kiến thức về từ và câu được mở rộng và nâng cao dần theo từng chủ điểm. Trong
môn Tiếng Việt, học sinh được học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Đây là nội
dung kiến thức quan trọng trong phần luyện từ và câu- Tiếng Việt 5. Tuy nhiên,
mảng kiến thức này khá trừu tượng đối với học sinh do vốn sống, vốn hiểu biết,
khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Với khái niệm đơn giản về từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa ở sách giáo khoa lớp 5, các em cứ ngỡ rằng từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa giống nhau nhưng thực tế lại không phải vậy. Hơn nữa tài liệu tham

khảo dành cho giáo viên và học sinh tiểu học về các lớp từ ít, nội dung chương
trình lại giảm tải đi một số bài như bài "Dùng từ đồng âm để chơi chữ" mà thực
tế sử dụng các từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong các văn cảnh, trong cách nói
của người Việt Nam lại nhiều. Vì vậy, việc dạy - học từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa gặp rất nhiều khó khăn.
Trong q trình dạy học, tơi nhận thấy các em học sinh gặp khó khăn
trong việc giải nghĩa từ, sự tương đồng ở nhiều mặt của hai loại từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa cũng làm cho học sinh thường xuyên nhầm lẫn, không phân biệt
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa; việc xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ
nhiều nghĩa còn rất lúng túng. Vậy chúng ta cần dạy như thế nào để học sinh
nắm chắc được khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và vận dụng để làm tốt
các bài tập; vận dụng vào viết văn và giao tiếp trong cuộc sống. Xuất phát từ yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy Luyện từ và câu lớp 5; xuất phát từ thực tế giảng
dạy của nhà trường tôi đang dạy và đặc biệt xuất phát từ nhu cầu công tác của
bản thân, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5
phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” nhằm cải thiện thực trạng dạy - học
về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa góp phần nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ
và câu lớp 5 nói riêng và phân mơn Tiếng Việt lớp 5 nói chung ở đơn vị đang
cơng tác.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu nội dung, kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
trong chương trình Luyện từ và câu lớp 5 để tìm ra các biện pháp và một số kinh
nghiệm trong giảng dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa; góp phần nâng cao chất
lượng dạy học Tiếng Việt lớp 5 nói riêng và phân mơn Tiếng Việt trong nhà
trường nói chung.
1.3 Đới tượng nghiên cứu
1


Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều

nghĩa.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tơi đã tiến hành
nghiên cứu, đọc, phân tích các tài liệu có liên quan đến từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa và phương pháp dạy phần từ đồng âm, nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Tôi quan sát hoạt động dạy của giáo viên
và học của học sinh trên lớp, kết hợp dự giờ giáo viên cùng khối để học hỏi và
nắm bắt thực trạng của việc dạy- học về từ đồng âm, nhiều nghĩa.
- Phương pháp điều tra: Tôi đã tiến hành điều tra chất lượng học tập, thu
thập thông tin, đồng thời lấy ý kiến của đồng nghiệp về việc dạy từ đồng âm,
nhiều nghĩa của học sinh lớp 5 trong nhà trường.
- Phương pháp thống kê toán học: Trong quá trình thực nghiệm các biện
pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa tôi đã thu thập
các dữ liệu liên quan, thống kê, xử lí các dữ liệu để đối chứng tính hiệu quả của
các biện pháp đang thực nghiệm.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm từ Đồng âm
Theo tài liệu “Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học”
(Tác giả Lê Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng) khái niệm từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa được hiểu như sau:
- Từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau,
nhưng nghĩa hồn tồn khác nhau. Do đó, các từ đồng âm không bị chi phối bởi
các quy luật ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Hiện tượng đồng âm là hiện tượng mang
tính phổ qt xuất hiện trong nhiều ngơn ngữ trên thế giới
2.1.2 Khái niệm nghĩa gốc - nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
Theo tài liệu “Lý luận - Phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng Việt trong
nhà trường của PGS - TS Nguyễn Đức Tôn cũng viết:
- Nghĩa gốc - nghĩa chuyển: Đây là cách gọi theo quan điểm lịch đại, nhìn
nhận theo quá trình phát triển ý nghĩa của từ. Nghĩa gốc là nghĩa vốn có của từ

ngay từ khi xuất hiện, từ đó làm nảy sinh ra nghĩa khác. Nghĩa được nảy sinh ra
từ một nghĩa nào đó được gọi là nghĩa chuyển.
- Nghĩa chính - nghĩa phụ: Đây là tên gọi theo quan điểm đồng đại. Nghĩa
chính là nghĩa được người ta nghĩ đến đầu tiên khi đọc hoặc nghe thấy một từ.
Nghĩa phụ là nghĩa bị phụ thuộc vào vị trí của từ. Nghĩa từ chỉ khi kết hợp với
những từ đặc thù nhất định thì nghĩa này mới được hiểu.
Tất cả các sự chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ trong ngơn ngữ đều xuất
phát từ những thuộc tính của con người và từ hiện thực gần gũi nhất đối với con
người đến tồn bộ thế giới cịn lại. Dựa vào quy luật này, ta có thể thấy: Trong 2
ý nghĩa của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con người, động vật hoặc nói về
các hành động, tính chất của con người thì thường là nghĩa có trước (nghĩa gốc)
cịn nghĩa nói về các hiện tượng khác cịn lại thường là nghĩa chuyển.
2


2.1.3 Nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5
Từ đồng âm: Được dạy trong 2 tiết ở tuần 5 và tuần 6
Ở tuần 5 các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài về từ đồng
âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các
từ đồng âm. Tuần 6, các em được học cách dùng từ đồng âm để chơi chữ, bài tập
thực hành ở phần này chủ yếu là tìm các từ đồng âm để chơi chữ và đặt câu với
từ đồng âm. Tuy nhiên, nội dung chương trình lại giảm tải đi bài: "Dùng từ đồng
âm để chơi chữ" ở tuần 6.
Từ nhiều nghĩa: được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8
Tiết 1 tuần 7 các em được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập
thực hành chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và các từ mang nghĩa
chuyển. Hai tiết còn lại học sinh được luyện tập về từ nhiều nghĩa với các dạng
bài tập như giới thiệu nghĩa của từ và yêu cầu học sinh tìm từ đúng với nghĩa
cho trước. Đặt câu phân biệt nghĩa gốc nghĩa chuyển, nêu nét nghĩa khác nhau
của một từ. Duy nhất có 1 bài tập là bài 1 (trang 82- TV5 – tập 1) có dạng phân

biệt, nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng bài tập thực
hành giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cịn ít, trong khi đó
khả năng tư duy trừu tượng của các em còn hạn chế.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng đề tài
Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp
thu và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ
nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ
có quan hệ đồng âm, các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn
cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài tập sai nhiều. Lúc đầu, khi đang còn
dạy tách bạch từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các em
làm bài tập trong sách giáo khoa tương đối đạt yêu cầu. Nhưng khi bài làm có
yêu cầu xác định từ nào là từ đồng âm, từ nào là từ nhiều nghĩa dạng tổng hợp
thì các em rất lúng túng.
Để kiểm tra khả năng phân biệt chính xác từ đồng âm và từ nhiều nghĩa,
tôi đã cho học sinh lớp 5B (năm học 2021- 2022) làm bài khảo sát sau:
Đề bài:
1. Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ
nào là từ nhiều nghĩa?
a) Vàng:
- Giá vàng ở trong nước tăng đột biến.
- Tấm lịng vàng.
- Ơng nội mua một vàng lưới mới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.
b) Bay:
- Bác thợ nề cầm bay xây trát tường nhanh thoăn thoắt.
- Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời.
- Đạn bay rào rào.
- Chiếc áo này đã bay màu.
2. Đặt câu để phân biệt từ cân với các nét nghĩa:
3



- Dụng cụ đo lường (cân là danh từ)
- Hoạt động đo khối lượng bằng cái cân (cân là động từ)
- Có hai phía ngang bằng nhau, khơng lệch (cân là tính từ)
Sau khi thu bài chấm, kết quả học sinh làm bài được tổng hợp như sau:
Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Tổng số
học sinh

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

32

5


15,6%

20

62,6%

7

21,8%

Qua bảng khảo sát trên, tôi nhận thấy việc phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa của các em chưa tốt. Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ
và câu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn:
- Học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng...
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính. sai rất
nhiều
- Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa chưa chính xác, chưa
hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
Nguyên nhân
Sở dĩ học sinh dễ nhầm lẫn giữa hai loại từ này vì các nguyên nhân sau:
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống
nhau đọc - viết giống nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa.
- Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai
kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh nắm rõ bản chất và biết
cách phân biệt.
- Học sinh chưa có thói quen dùng từ điển Tiếng Việt để tra cứu nghĩa của
từ, chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
- Vốn từ vựng của các em học sinh cịn hạn chế.
- Phụ huynh thường ít chú ý đến việc mua cho con các loại sách khác
ngoài chương trình như từ điển Tiếng Việt.

Về việc dạy từ đồng âm từ nhiều nghĩa của giáo viên:
Theo các trình tự nội dung được biên soạn trong sách giáo khoa và trình
tự dạy học luyện từ và câu, nhìn chung các đồng chí giáo viên lớp 5 đều làm
đúng vai trị là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nắm kiến thức về hai nội
dung từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tuy nhiên, qua dự giờ đồng nghiệp và qua
thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy đôi khi giáo viên chưa thực sự chú trọng đến
việc giải nghĩa từ cho học sinh hiểu. Việc xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển
trong từ nhiều nghĩa chưa gắn nhiều vào thực tế. Hơn nữa, do thời lượng 1 tiết
có hạn, nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa trong các bài học được. Mặt khác, khi giảng dạy nội dung này, việc lấy
thêm một số ví dụ cụ thể từ bên ngồi sách giáo khoa để minh họa phân biệt từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa đối với một số giáo viên cịn khó khăn.
Về việc học từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của học sinh:
4


Học sinh học trên lớp và giải quyết xong các bài tập của tiết học đó. Nếu
giáo viên khơng có thêm bài tập và thời gian để luyện tập về từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa thì các em chỉ dừng lại ở kiến thức trong sách giáo khoa không thể
mở rộng thêm được kiến thức.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ
dạy, không gây hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy tôi đã áp dụng một
số biện pháp giúp các em học sinh biết cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa khi dạy - học phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Bản thân giáo viên cần nắm vững, nắm sâu kiến thức về
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến thức
cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều song lại yêu cầu giáo viên phải nắm
vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho học sinh. Đối

với các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa, vốn kiến thức của giáo viên lại
đặc biệt quan trọng. Muốn có điều này giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng,
nghiên cứu tài liệu kĩ, đặc biệt phải nắm rõ các nghĩa của từ một cách chính xác.
Từ đồng âm: là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về
nghĩa (theo sách giáo khoa Tiếng Việt 5- tập 1- trang 51). Ví dụ:
+ Bị trong kiến bị: Là động từ chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng
xuống nền bằng cử động của toàn thân hoặc những cái chân ngắn.
+ Bò trong trâu bò: Là danh từ chỉ lồi động vật nhai lại, sừng ngắn, lơng
thường có màu vàng, được ni để lấy sức kéo, thịt, sữa, …
- Đối với giáo viên Tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới
trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm:
+ Từ đồng âm ngẫu nhiên: nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm
ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng khơng có mối quan hệ
nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau như trường hợp “câu” trong
“câu cá” và “câu” trong “đoạn văn có 5 câu”.
+ Từ đồng âm chuyển loại: nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ
âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hóa từ
loại của từ.
Ví dụ: cuốc (danh từ): cái cuốc; cuốc (động từ): cuốc đất;
đá (danh từ): hòn đá; đá (động từ): đá bóng
Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên (gió
bay, bọn bay, cái bay), do chuyển nghĩa quá xa mà thành (lắm kẻ vì, vì lý do gì),
do từ vay mượn trùng với từ có sẵn (đầm sen, bà đầm; la mắng, nốt la), do từ rút
gọn trùng với từ có sẵn (hụt mất hai ly, cái ly; hai ký, chữ ký...) Trong giao tiếp
cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng với
nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
Từ nhiều nghĩa: là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa
chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
(sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 1- trang 67). Ví dụ :
5



+ Từ “mắt” trong câu “Đôi mắt của bé mở to.” (bộ phận quan sát của con
người mọc ở trên mặt) là nghĩa gốc.
+ Từ “mắt” trong câu “Quả na mở mắt.” là nghĩa chuyển.
Muốn phân tích được nghĩa của từ nhiều nghĩa, trước hết phải nắm vững
các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa. Nghĩa của từ
phát triển thường dựa trên hai cơ sở:
Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có ba dạng sau :
Dạng 1: Dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng
Ví dụ : mũi ( mũi người) và mũi( mũi thuyền).
Dạng 2: Dựa trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng, của các sự vật,
đối tượng .
Ví dụ : cắt (cắt cỏ) với cắt (cắt quan hệ )
Dạng 3: Dựa trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với
con người.
Ví dụ: đau (đau vết mổ ) và đau (đau lòng )
Theo cơ chế hốn dụ có các dạng :
Dạng 1: Dựa trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
Ví dụ: Chân, Tay, mặt là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ
cái toàn thể: Anh ấy có chân trong đội bóng.
Tay bảo vệ của nhà máy số ba có mặt trong hội nghị.
Dạng 2: Dựa trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.
Ví dụ : Nhà là cơng trình xây dựng (Anh trai tơi đang làm nhà)
Nhà là gia đình (Cả nhà có mặt)
Dạng 3: Dựa trên nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm được làm ra từ
ngun liệu hay cơng cụ đó hoặc hành động dùng ngun liệu hay cơng cụ đó.
Ví dụ: Muối là nguyên liệu (Một ki- lô- gam muối).
Muối chỉ hành động làm cho thức ăn lên men (Chị ấy muối dưa
ngon lắm).

Việc giáo viên nắm vững ngữ nghĩa của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa sẽ
giúp cho giáo viên làm chủ được kiến thức, làm chủ được nội dung dạy- học, từ
đó sẽ giúp học sinh nắm chắc phần kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, vận
dụng tốt để làm các bài tập.
Giải pháp 2: Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, xây dựng thói
quen tích lũy kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Trước hết, để học sinh học tốt mảng kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa, tôi đã dạy cho các em nắm vững khái niệm thế nào là "Từ đồng âm" và
"Từ nhiều nghĩa". Cụ thể:
a. Từ đồng âm:
Tôi đã hướng dẫn các em đặt các từ đó vào lời nói hoặc câu văn cụ thể.
Đặc biệt đối với học sinh học tốt, tôi đã giới thiệu phương thức dùng từ đồng âm
để chơi chữ là phương thức dùng âm thanh, từ ngữ, hàm ý tạo ra nhiều bất ngờ
thú vị cho người đọc, người nghe,… Hiểu được biện pháp chơi chữ trong từ
đồng âm, học sinh sẽ vận dụng vào viết văn hay hơn.
6


Ví dụ: Một nghề cho chín (1) cịn hơn chín(2) nghề.
- chín (1): chỉ sự thành cơng.
- chín (2): chỉ số tự nhiên đứng liền trước số 10
Khi dạy, tôi luôn lưu ý cho học sinh trường hợp những từ phát âm giống
nhau nhưng viết khác nhau cũng là từ đồng âm.
Ví dụ: dữ (hung dữ)- giữ (giữ trẻ)
dày (dày mỏng)- giày (giày dép)
b. Từ nhiều nghĩa:
Tôi hướng dẫn cho các em nắm vững: Trong Tiếng Việt, một từ có thể có
một nghĩa gốc nhưng nhiều nghĩa chuyển.
+ Nghĩa gốc: Nghĩa chính vốn có của từ.
+ Nghĩa chuyển: Nghĩa suy rộng ra từ nghĩa gốc.

Trong hai nghĩa của từ, nếu nghĩa nào cụ thể hơn (tức là với nghĩa này, từ
chỉ có hiện tượng trực quan cảm tính) thì đó là nghĩa gốc. Nghĩa nào có tính chất
trừu tượng hơn (chỉ hiện tượng trừu tượng thuộc nhận thức lý tính), thì đó là
nghĩa chuyển.
Ví dụ: Nghĩa của từ “chín” khi nói về quả, hạt hoặc hoa là nghĩa chính,
cịn khi nói về sự suy nghĩ của con người thì đó là nghĩa chuyển.
Hoặc trong hai ý nghĩa của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con người,
động vật hoặc nói về các hành động, tính chất của con người thì thường là nghĩa
có trước (nghĩa gốc) cịn nghĩa nói về các hiện tượng khác còn lại thường là
nghĩa chuyển. Người ta thường chuyển nghĩa của từ so với nghĩa gốc bằng cách
thêm hoặc bớt nét nghĩa.
Ví dụ: “răng” trong răng người, răng chuột là nghĩa chính.
“răng” trong răng bừa, răng cào là nghĩa chuyển.
Ngoài phần kiến thức trong sách giáo khoa, tơi cịn cung cấp thêm cho
học sinh một số kiến thức về từ nhiều nghĩa, đó là:
- Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm
trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ
nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau.
- So sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa.
+ Từ nào có tên gọi của một sự vật hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì
từ ấy chỉ có một nghĩa.
Ví dụ: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng
sức người đạp cho quay bánh. Đó là nghĩa duy nhất thơng dụng của từ xe đạp.
Vậy có thể nói từ xe đạp là từ chỉ có một nghĩa.
+ Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm
thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.
Ví dụ: Từ ăn có các nghĩa sau đây:
+ ăn cơm: tự cho vào cơ thể thức ăn để nuôi sống cơ thể.
+ ăn cưới: ăn uống nhân dịp cưới
+ tàu ăn hàng: tiếp nhận hàng để chuyên chở

+ ăn hoa hồng: nhận lấy để hưởng
7


+ Da ăn nắng: hấp thụ cho thấm vào, nhiễm vào.
+ Sơn ăn mặt: làm hủy hoại dần từng phần
+ ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên trong ảnh
Như vậy từ ăn là một từ nhiều nghĩa.
Sau mỗi bài học lí thuyết về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tôi đều yêu cầu
học sinh chép nội dung ghi nhớ vào Sổ tay Tiếng Việt những ví dụ hay, điển
hình để khắc sâu, hệ thống kiến thức về các loại từ này. Thói quen đó đã giúp
học sinh tích lũy được vốn từ, giúp các em có thêm cẩm nang trong nói và viết
văn. Đồng thời tạo được niềm say mê, hứng thú cho các em u thích mơn Tiếng
Việt, góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Giải pháp 3: Sử dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học có
sự lồng ghép, gợi mở kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài mới, dạy khái niệm.
Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận
xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được
những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng
hợp kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là học sinh có khả năng,
giáo viên có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp
các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Sang phần luyện tập, tiếp tục tổ chức các
hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau
mỗi bài tâp giáo viên lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài
học, liên hệ thực tế…
Tổ chức cho học sinh thi đua thuộc và hiểu ghi nhớ, chuẩn bị tốt tâm thế
học tập cho học sinh
Trong q trình dạy học tơi ln giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng,
kích thích hứng thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng.

Bởi tâm lí học sinh ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư
duy. Biết vậy tôi cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ, cho đọc nối tiếp rồi
ghép lại cho đọc tồn phần, đọc theo nhóm đơi, có lúc thi đua xem ai nhanh
nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó
(về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các
em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 26/32 học
sinh thuộc ghi nhớ, phát biểu được một cách trơi chảy, lấy được ví dụ minh họa
về từ đồng âm - từ nhiều nghĩa ngay tại lớp, chỉ cịn 6 em có thuộc song cịn ấp
úng, chưa tự tin. Ngồi ra tơi cịn kiểm tra bài vở học sinh, kể cả học sinh chưa
hoàn thành lẫn học sinh có khả năng. Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm
để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời phát động các phong trào thi đua để tất
cả các em cùng học tập, tránh tình trạng vì kiến thức q khó nên một vài học
sinh không học tập hoặc học tập không hiệu quả.
Dạy học kết hợp dùng tranh ảnh, vật thật để minh hoạ cho từ nhằm giúp
các em hiểu đúng nghĩa và phân biệt được từ.

8


Trong quá trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi đã sử
dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ nhằm giúp học sinh dễ dàng phân
biệt nghĩa của từ.
Ví dụ: Khi dạy bài từ đồng âm sách giáo khoa Tiếng Việt 5 tập 1 trang 51
- Để phân biệt nghĩa từ đồng trong bài tập: Cánh đồng - tượng đồng - một
nghìn đồng. Tơi đã đưa bức ảnh chụp cánh đồng, một pho tượng làm bằng đồng
và tờ tiền một nghìn đồng cho học sinh xem để các em nắm nghĩa của các
từ đồng. Học sinh nêu nghĩa từng từ rồi từ đó tự rút ra kết luận : Đó là những từ
đồng âm.
Vận dụng linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học.
Trong qúa trình dạy học tơi vận dụng nhiều phương pháp, hình thức dạy

học, trong đó có những phương pháp dạy học mới nhằm giúp học sinh có hứng
thú với mơn học, học tập tích cực, nắm vững kiến thức, vận dụng làm tốt các bài
tập mà tôi đưa ra.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Với bài tập có dạng tìm nghĩa gốc và
nghĩa chuyển của từ trong các câu văn, tơi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm,
phát biểu ý kiến của mình sau khi học sinh đã rút ra được kết quả đúng. Tơi cịn
u cầu học sinh tìm thêm một số câu hay từ chứa tiếng đó mang nghĩa chuyển.
Ví dụ:
- Mắt: mắt kính, mắt tre, mắt lưới, mắt xích
- Chân: chân bàn, chân lưới, chân núi, chân mây
- Đầu: chải đầu, đầu tàu hỏa, đầu đũa, đầu người (thành viên trong một
gia đình)
Với phương pháp này tơi nhận thấy học sinh tham gia tính cực chủ động
vào quá trình học tập. Các em đã biết chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để cùng
các bạn giải quyết vấn đề khó khăn trong bài tập.
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Tôi đưa học sinh và tình huống có
vấn đề.
Ví dụ: Bài “ Luyện tập về từ nhiều nghĩa” trang 73:
Tôi yêu cầu học sinh:
Đặt một câu có từ chạy .
Sau khi học sinh đặt câu, tơi hỏi: Từ chạy trong câu trên có nghĩa là gì?
Học sinh khơng giải thích được, lúc này tơi tổ chức cho học sinh làm bài
tập 1 sách giáo khoa. Từ đó, học sinh kích thích sự hứng thú học tập, bị cuốn
vào việc giải quyết vấn đề mà tơi đưa ra.
- Phương pháp trị chơi:
Đối với các bài tập tìm nghĩa ở cột A ứng với nghĩa ở cột B tơi tổ chức
cho học sinh chơi trị chơi học tập như: “Nhà giải nghĩa giỏi”, “Ai nhanh hơn”,
“Ai giỏi hơn”. Đồng thời sau khi học sinh chơi phải u cầu học sinh nêu lí do
vì sao em làm như vậy.
Tơi nhận thấy các em rất hào hứng, có tính thi đua, hứng thú học tập.

Dạy học có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức
9


Sau mỗi tiết luyện tập để củng cố kiến thức cho học sinh, tôi đưa ra thêm
một số dạng bài tập mới. mục đích của các bài tập này là củng cố, mở rộng kiến
thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
Ví dụ: Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm
hay khơng ?
- Mẹ hay đi bộ vào buổi tối để giảm béo.
- Bố mới đi Hà Nội về.
- Hè này, cả nhà em đi du lịch.
- Cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi.
- Anh đi con mã, tôi đi con tốt.
- Thằng bé đã đến tuổi đi học.
Bài tập này chủ yếu yêu cầu học sinh nhận diện từ “đi” trong các câu
văn trên là hiện tượng đồng âm hay không phải đồng âm. Tôi gợi mở, yêu cầu
các em về nhà suy nghĩ tìm hiểu sách giáo khoa các tiết luyện từ và câu sau sẽ
giúp các em tìm câu giải đáp. Để không mất nhiều thời gian tiết học cho nội
dung trên, tôi viết sẵn nội dung câu hỏi gợi mở ra bảng phụ và tiến hành sau khi
học sinh lấy ví dụ về từ đồng âm để khẳng định lại ghi nhớ. Lúc đó tự các em sẽ
có một sự so sánh giữa các ví dụ về từ đồng âm với ví dụ trên đây, đồng thời tơi
kích thích đươc tư duy của học sinh. Trước khi kết thúc tiết học, tôi cũng không
quên nhắc học sinh về nhà tiếp tục suy nghĩ trả lời giải thích về hiện tượng từ
“đi” trong các câu văn đã cho.
Trong bài dạy “Từ nhiều nghĩa” tôi lấy thêm một hai trường hợp về từ
nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ về từ đồng âm cho học sinh nhận định
về các từ trong ví dụ.
Ví dụ: Cái kim sợi chỉ- chiếu chỉ- chỉ đường- một chỉ vàng. Từ chỉ trong
các trường hợp sau là từ đồng âm hay nhiều nghĩa? Vì sao ?

Ở câu hỏi này, tơi u cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định
kiến thức và khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau
khi học sinh trả lời tôi chốt lại từ chỉ trong các trường hợp trên có quan hệ đồng
âm vì nghĩa của từ chỉ trong mỗi trường hợp khác nhau, khơng có quan hệ với
nhau. Với nội dung trên, tôi tiến hành trong khoảng 2-3 phút, dành thời gian cho
các em làm bài tập phần luyện tập. Cuối tiết học nhấn mạnh: “Các em cần lưu ý
phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai
hiện tượng này”.
Giải pháp 4: Dựa vào văn cảnh và các yếu tố từ loại để tìm ra dấu hiệu
chung giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Dựa vào văn cảnh cụ thể để giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa.
Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, chủ yếu tôi
thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố,
nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa… Điều đặc biệt
của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau (nói, đọc giống nhau
viết cũng giống nhau).
10


“ đường”(1) trong “đường rất ngọt”
“ đường” (2) trong “ đường dây điện thoại”
“ đường” (3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp”
Để có thể giải nghĩa chính xác các từ đường như trên, các em phải có vốn
từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy trong dạy học tất cả các môn, tôi luôn chú
trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho
mình vốn sống và u cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển Tiếng
Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt. Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa,
khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ
“đường”.

Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy:
Đường (1): (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt.
Đường (2): (đường dây điện thoại) chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ
cho việc thông tin liên lạc.
Đường (3): (ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các
phương tiện, người, động vật.
Vậy “ đường”(1) với “ đường” (2) và “ đường” (1) với “đường” (3) có
quan hệ đồng âm, cịn “đường” (2) với “đường” (3) có quan hệ nhiều nghĩa.
Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa.
Ví dụ: Xét câu văn sau: “Hơm nay tơi đánh rơi mười nghìn đồng ngay
đoạn cánh đồng làng”. Các từ trong câu có mối quan hệ với từ ‘đồng’ thứ nhất
gồm “đánh rơi” “mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn thì người
đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định
rõ giá trị số tiền đánh rơi. Có từ “đồng” ngay sau cụm từ “đánh rơi mười nghìn
đồng” thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt Nam và xác định được giá
trị của nó. Vậy từ “đồng” thứ nhất là đơn vị tiền Việt Nam, từ “đồng” thứ 2 nằm
trong mối quan hệ với từ “qua”, “cánh”, “làng”, “đồng” trong “cánh đồng” là
khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoặc hoa màu.
Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với
từ nhiều nghĩa, hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.
Ví dụ:Từ “đi” trong các trường hợp sau đều là động từ: đi bộ; đi chơi; đi
ngủ; đi máy bay. Vì vậy gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học
sinh khơng được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa
mà phải suy nghĩ thật kĩ. Giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh, tìm ra
điểm khác nhau hồn tồn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa.
Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi, có một số trường hợp giống nhau
về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa.
Ví dụ: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế nào?
a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống

b) Trong veo, trong vắt, trong xanh
c) Thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành
Ở nhóm (a): “đánh cờ” (một trị chơi),
11


“đánh giặc” (chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách)
“đánh trống” (dùng dùi hoặc tay đánh vào mặt trống cho
phát ra âm thanh)
Các từ “đánh” đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ thì nghĩa của
chúng có liên quan đến nhau, đều tác động đến một sự vật khác, làm cho sự vật
đó có sự thay đổi, vì vậy các từ “đánh” ở nhóm (a) có quan hệ nhiều nghĩa.
Tuy nhiên các từ “trong” ở nhóm (b) cũng là các từ có cùng từ loại tính từ
được dùng để chỉ ra mức độ trong khác nhau của từng sự vật nên chúng lại có
quan hệ đồng nghĩa với nhau. Trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi để
giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, tôi yêu cầu các em luôn nắm chắc
nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, không được bộp chộp ngộ
nhận hoặc mới chỉ hiểu nghĩa mang máng mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa
các từ đã cho.
Xét về từ loại thì nhóm (c) các từ “đậu” có quan hệ đồng âm với nhau vì:
đậu “trong thi đậu” là tính từ (đỗ, trúng tuyển)
“đậu” trong “xôi đậu” là danh từ (chỉ một loại quả, củ dùng làm lương
thực, thức ăn)
“đậu” trong “chim đậu trên cành” là động từ “nghỉ, tạm dừng lại”.
Lập bảng so sánh tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa
Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cùng với các bài luyện
tập, có thể giúp học sinh rút ra sự so sánh như sau:
+ Giống nhau: Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều đọc giống nhau, viết
giống nhau, đều dựa vào văn cảnh để xác định nghĩa của từ.

+ Khác nhau:
Từ nhiều nghĩa
(Nghĩa gốc – nghĩa chuyển)
- Luôn luôn cùng từ loại
Ví dụ:
Lan ăn cơm.
ĐT
Xe ăn hàng ở cảng.
ĐT

Từ đồng âm

- Thường khác từ loại.
Ví dụ:
Chúng nó tranh nhau quả bóng.
ĐT
Mọi người đang xem tranh.
DT
- Nếu cùng từ loại thì phần lớn là danh
từ.
Ví dụ:
Tấm vải này dày q.
DT
Nam nay, quê em được mùa vải.
DT
- Giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển - Các từ đồng âm có nghĩa khác xa nhau.
của từ ln có mối quan hệ về
12



nghĩa.
- Tất cả nghĩa chuyển đều xuất phát
từ quy luật chuyển nghĩa của từ.
Ví dụ:
Ngơi nhà (1) vừa mới xây xong.
Cà nhà (2) vui vẻ trò chuyện .
nhà (1): Chỉ nơi ở.
nhà(2): Chỉ những người sống
trong nơi ở đó.
- Từ nhiều nghĩa trong nghĩa
chuyển có thể thay thế bằng từ
khác.
Ví dụ:
Hãy nghĩ cho chín rồi mới nói.
Hãy nghĩ cho kỹ rồi mới nói.

- Một số từ đồng âm xuất hiện từ quy
luật chuyển từ loại.
Ví dụ:
Bố đẽo cày(1).
Bố đang cày(2) ngồi đồng.
cày(1): Danh từ chỉ 1 loại nơng cụ.
cày(2): Động từ dùng chỉ cày để lật đất
lên (chuyển loại từ danh từ sang động từ)
- Từ đồng âm không thể thay thế trong
nghĩa chuyển
(Không thể thay thế bởi các từ khác vì
trong từ đồng âm các từ đều là nghĩa
gốc.)


Giải pháp 5: Xây dựng hệ thống các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa và hướng dẫn học
sinh trong “Câu lạc bợ Tiếng Việt”.
Như trên đã nói, các tiết dạy về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong chương
trình chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, nhận diện được từ đồng
âm, từ nhiều nghĩa còn muốn học sinh nắm vững hơn cần phải có thêm thời
gian. Đầu năm, nhà trường đã thành lập “Câu lạc bơ Tiếng Việt” cho nên tơi có
thêm thời gian củng cố, khắc sâu, mở rộng thêm kiến thức về từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa cho học sinh.
Phiếu học tập cho nhóm hoặc cá nhân là một trong những hình thức học
tập rất hữu hiệu giúp học sinh có thể tích cực, chủ động trong học tập. Mặt khác
nó còn giúp giáo viên nắm được kết quả ngược từ học sinh một cách chính xác,
từ đó giáo viên có thể linh hoạt trong việc giảng dạy, học sinh nắm vững nội
dung bài học. Phiếu học tập cần được thiết kế bằng hệ thống các bài tập trắc
nghiệm khách quan như: nối, đúng - sai, nhiều lựa chọn. Tôi đã tiến hành tập
hợp, phân loại các dạng bài tập để giúp học sinh nắm chắc phần kiến thức này.
Dạng 1: Phân biệt nghĩa của từ
Đối với từ đồng âm:
Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: cánh đồng (1);
tượng đồng (2); một nghìn đồng (3)
Ở bài tập này tôi yêu cầu các em đánh số sau đó giải nghĩa của các từ
đồng trong từng trường hợp:
đồng (1): Khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cày cấy, trồng trọt.
đồng (2): Là kim loại có màu đỏ, dẽ dát mỏng và kéo thành sợi.
đồng (3): Là đơn vị tiền Việt Nam
Sau đó yêu cầu học sinh rút ra kết luận: Nghĩa của các từ đồng này hoàn
toàn khác nhau, chúng là những từ đồng âm.
13



Đối với từ nhiều nghĩa:
Trong các câu sau câu nào có từ chân mang nghĩa gốc và câu nào có từ
chân mang nghĩa chuyển?
a. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân (1).
b. Bé đau chân (2).
Tôi yêu cầu các em đánh số sau đó nêu nghĩa của từ chân và xác định
nghĩa gốc, nghĩa chuyển.
Từ chân (1): Chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng. (nghĩa chuyển)
Từ chân (2): Một bộ phận của cơ thể, đỡ và di chuyển cơ thể (nghĩa gốc)
Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa.
Đối với từ đồng âm.
Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước.
Ở bài tập này tôi hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít nhất là
hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
Ví du: Bàn: Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
Bố mẹ em đang bàn chuyện gia đình.
Đối với từ nhiều nghĩa.
Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng”
Tôi yêu cầu học sinh đặt câu và gợi ý nghĩa của các từ đứng như sau:
Nghĩa 1: Ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
Nghĩa 2: Ngừng chuyển động
Dựa vào gợi ý đó học sinh có thể đặt câu:
Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ.
Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.
Trời đứng gió.
Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa.
Ví dụ:
Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những
từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?
- Giá vàng ở nước ta tăng đột biến.

- Tấm lịng vàng.
- Ơng tơi mới mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.
Ở bài tập này tôi hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa các từ “vàng”, rồi xác
định mối quan hệ giữa chúng dựa vào định nghĩa của từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa.
Đáp án:
Từ “vàng” ở câu 1 và câu 2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ “vàng” ở câu 3 có
quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2.
Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho.
Đối với từ đồng âm:
Ví dụ:
Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B
14


A
1. Sao trên trời có khi mờ khi tỏ.
2. Sao lá đơn này thành ba bản.
3. Sao tẩm chè.
4. Sao ngồi lâu thế?
5. Đồng lúa mượt mà sao.

B
a. Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác
theo đúng bản chính.
b. Tẩm một chất nào đó rồi sấy khơ.
c. Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên
nhân.
d. Nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên,
thán phục.

e. Các thiên thể trong vũ trụ.

Đáp án: 1 - e ; 2 - a ; 3 - b ; 4 - c ; 5 - d
Đối với từ nhiều nghĩa:
Ví dụ:
Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A
A
B
a. Hoạt động của máy móc.
1. Bé chạy lon ton trên sân.
b. Khẩn trương tránh những điều không
2. Tàu chạy băng băng trên đường
may sắp xảy đến.
ray.
c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện
3. Đồng hồ chạy đúng giờ.
giao thông.
4. Dân làng khẩn trương chạy lũ.
d. Sự di chuyển nhanh bằng chân.
Đáp án:
1–d ; 2–c ; 3–a ; 4–b
Đối với những bài tập trên, tôi tổ chức cho học sinh thảo luận để nối
những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy
trước. Trường hợp khó cịn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận
dụng cả phương pháp loại trừ.
Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. Bên
cạnh đó mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng:
Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui:
Trùng trục như con chó thui
Chín mắt, chín mũi, chín đi, chín đầu.

(Là con gì?)
Hoặc dạng bài tập chỉ ra những từ đồng âm được dùng để chơi chữ trong
các câu sau:
a. Bác bác trứng, tôi tôi vôi.
b. Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa.
Với bài tập này tôi yêu cầu các em chỉ ra từ đồng âm và nêu cách hiểu của
mình về các câu trên.
Đối với từ nhiều nghĩa có dạng bài tập thay thế từ:
Tìm từ có thể thay thế từ ăn trong câu sau:
15


- Cả nhà ăn tối chưa?
(dùng bữa)
- Loại ô tô này ăn xăng lắm. (tốn, hao)
- Tàu ăn hàng ở cảng. (tiếp nhận)
- Bà Đào ăn lương rất cao
(hưởng)
- Cậu làm như vậy dễ ăn đòn lắm. (chịu)
- Da cậu ăn nắng q. (bắt)
- Hồ dán khơng ăn. (dính)
- Hai màu này rất ăn với nhau. (hợp)
- Rễ tre ăn ra tới ruộng. (lan)
Dạng 5: Phân biệt hiện tượng đồng âm với hiện tượng nhiều nghĩa trong
các văn cảnh cụ thể.
Trên cơ sở những dấu hiệu phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cách
nhận biết và mối liên hệ giữa nghĩa của từ nêu trên, tôi hướng dẫn học sinh phát
hiện đâu là hiện tượng đồng âm, đâu là hiện tượng nhiều nghĩa trong các văn
cảnh cụ thể.
Bài 1: Nghĩa của từ xuân trong trường hợp sau đây là gì? Đây là hiện tượng

đồng âm hay nhiều nghĩa?
Rằm xuân (1) lồng lộng trăng soi
Sông xuân (2) nước lẫn màu trời thêm xuân (3)
Hướng dẫn: - xuân (1): Chỉ mùa đầu tiên tươi đẹp, đầy sức sống của 1 năm.
- xuân (2), xuân (3): chỉ đặc điểm tươi đẹp, sáng trong, đầy sức
sống của dịng sơng, của bầu trời.
Như vậy: Đây là hiện tượng từ nhiều nghĩa vì chúng có nét nghĩa giống
nhau là đều chỉ sự tươi đẹp và đầy sức sống. (xuân là nghĩa gốc, xuân, xuân là
nghĩa chuyển).
Bài 2: Chỉ ra nghĩa của từ hay trong các câu sau và cho biết giữa chúng là
hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa?
- Học hay (1), cày giỏi.
- Cậu có hay (2) bây giờ mấy giờ rồi?
- Xào xạc lá dừa hay (3) tiếng gươm khua.
Hướng dẫn: - hay (1): tốt, giỏi (tính từ)
- hay (2): biết (động từ)
- hay (3): đồng nghĩa với, hoăc (quan hệ từ)
Vậy đây là hiện tượng từ đồng âm vì nghĩa của chúng khác hẳn nhau và
khác nhau về từ loại.
Với hệ thống bài tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, học sinh có thể luyện
tập và phân biệt từ tốt hơn. Từ đó giúp các em biết cách đặt câu, viết đoạn văn
có sử dụng đồng âm, nhiều nghĩa có hiệu quả hơn.
Giải pháp 6: Bản thân tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa trong c̣c sớng hàng ngày để có thêm vớn từ trong giảng dạy .
Trong các đề thi vào các trường chất lượng cao như trường Trần Mai
Ninh, thành phố Thanh Hóa hay các kì thi chọn học sinh giỏi Tốn- Tiếng Việt
có rất nhiều bài yêu cầu nhận diện từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa. Vì vậy trong
16



q trình dạy học, bản thân tơi cũng tự tích lũy các trường hợp hay nhầm lẫn,
trường hợp khó xác định để dạy cho học sinh
Đối với từ đồng âm:
a. bạc:
- Cái nhẫn bằng bạc
- Đồng bạc trắng hoa xòe
- Cờ bạc là bắc thằng bần
- Ơng Ba tóc đã bạc
- Đừng xanh như lá, bạc như vôi
- Cái quạt máy này phải thay bạc
b. đàn
- Cây đàn ghi ta
- Vừa đàn vừa hát
- Lập đàn để tế lễ
- Bước lên diễn đàn
- Đàn chim tránh rét trở về
c. đình
- Qua đình ngã nón trơng đình
- Cơng việc bị đình lại vì khơng có người làm
d. đơn
- Lan bị ốm, phải viết đơn xin nghỉ học
- Nhà đơn người, chỉ có một mẹ một con
e. mai
- Nếu miền bắc có hoa đào thì miền nam có hoa mai
- Rùa, mực, cua là các con vật có mai
- Nay đây mai đó
g. lồng
- Con ngựa đang đứng bỗng lồng lên
- Mua được con chim, bạn tơi nhốt ngay vào lịng
Một số trường hợp dùng từ đồng âm để chơi chữ :

Đối với từ nhiều nghĩa :
a. chạy
- Cầu thủ chạy đón quả bóng
- Đánh kẻ chạy đi, khơng ai đánh kẻ chạy lại
- Tàu chạy trên đường ray
- Đồng hồ này chạy chậm
- Mưa ào xuống, không kịp chạy lúa phơi ngoài sân
- Nhà ấy chạy ăn từng bữa
Con đường mới mở chạy qua làng tôi
17


b. lá
- Lá bàng đang đỏ ngọn cây
(Tố Hữu)
- Lá khoai anh ngỡ lá sen
(ca dao)
- Lá cờ căng lên vì ngược gió
(Nguyễn Huy Tưởng)
- Cầm lá thư này lịng hướng vô Nam
(bài hát)
c. quả
- Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
(Trần Đăng Khoa)
- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
(ca dao)
- Trăng trịn như quả bóng
(Trần Đăng Khoa)
- Quả đất là ngôi nhà chung của chúng ta
- Quả hồng như thể quả tim giữa đời

d. cứng
- Lúa đã cứng cây
- Lí lẽ rất cứng
- Học lực loại cứng
- Cứng như thép. Thanh tre cứng quá, không uốn cong được
- Quai hàm cứng lại, chân tay tê cứng
- Cách giải quyết hơi cứng, thái độ cứng quá
e. sườn
- Nó hích vào sườn tơi
- Con đèo chạy ngang sườn núi
- Tơi đi qua phía sườn nhà
- Dựa vào sườn của bản báo cáo…
g. xuân
- Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân
(Hồ Chí Minh)
- Ngày xuân con én đưa thoi
(Nguyễn Du)
- Sáu mươi tuổi hãy cịn xn chán
So với ơng Bành vẫn thiếu niên
(Hồ Chí Minh)
- Khi người ta đã ngồi 70 xn thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp.
Với việc tự tích lũy các trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, bản thân
tơi đã giúp mình vững vàng hơn trong kiến thức về phần này đồng thời khi
18


truyền đạt cho học sinh, học sinh cũng thấy dễ hiểu và dần hình thành kĩ năng
làm bài chính xác.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

Việc dạy kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm
với từ nhiều nghĩa theo một số biện pháp trên đây là một thử nghiệm của bản
thân tôi trong hai năm học 2020- 2021; 2021- 2022. So với năm học trước
thì năm học này học sinh tiếp thu kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đã có
nhiều tiến bộ. Giữa học kì 2 năm học 2021- 2022, tôi chọn ngẫu nhiên ở hai lớp
5A (lớp không được thực nghiệm) và 5B (lớp được thực nghiệm) mỗi lớp 25 học
sinh để làm bài khảo sát về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong thời gian 40 phút
và thu được kết quả như sau:
Lớp/Tổng
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
số học
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
sinh
5A
7
28%
17
68%
1
4%
(25HS)
5B
13

52%
12
48%
0
(25HS)
Sau khi áp dụng các biện pháp hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm,
từ nhiều nghĩa, tôi nhận thấy các em học sinh lớp được thực nghiệm đã nắm
vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và làm tốt hệ thống bài tập mà tôi
đã xây dựng. Các em không những hoạt động tích cực, có tiến bộ rõ rệt, có hứng
thú học tập mà cịn u thích giờ học Luyện từ và câu hơn, biết vận dụng từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa vào trong giao tiếp, từ đó chất lượng dạy học Tiếng
Việt trong nhà trường cũng được nâng cao hơn. Tôi cũng đã mạnh dạn trao đổi
các biện pháp dạy học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa với giáo viên trong khối 5,
được các đồng nghiệp đánh giá cao và cùng áp dụng các biện pháp vào trong
quá trình giảng dạy ở lớp mình phụ trách.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận:
Sau khi áp dụng những kinh nghiệm tích lũy nêu trên vào thực tế giảng
dạy, tơi nhận thấy học sinh đã biết xác định đồng âm, nhiều nghĩa. Xác định
đúng nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa, biết phân biệt hiện tượng
đồng âm với hiện tượng nhiều nghĩa và tích cực viết sổ tay Tiếng Việt. Với sự nỗ
lực nghiên cứu của bản thân, cùng với sự cộng tác giúp đỡ của đồng nghiệp, tổ
chuyên môn cũng như Ban giám hiệu nhà trường, được sự hưởng ứng nhiệt tình,
ham học hỏi của học sinh, việc ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế
giảng dạy đã thu được kết quả khả quan. Kết quả thi định kì cho thấy khả năng
tiếp thu và chất lượng học tập của học sinh về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đã
nâng lên rõ rệt. Qua đó góp phần nâng chất lượng mơn học Tiếng Việt nói riêng
và chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung.

19



Qua quá trình nghiên cứu đề tài và thực tế dạy học, tôi nhận thấy để nâng
cao hiệu quả học từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5 thì giáo viên
cần đảm bảo một số điều kiện sau:
- Giáo viên phải bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh đối với nội dung từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa
- Giáo viên phải nắm vững các khái niệm cơ bản.
- Giáo viên phải nghiên cứu, lập kế hoạch dạy học từ lý thuyết đến bài tập.
- Khi dạy cần cung cấp kiến thức đúng, đủ, vừa sức đối với các em. Các bài
tập đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ở những bài đầu cần khai thác và
củng cố chắc chắn. Ở những bài sau cần chốt lại kiến thức đó nhiều lần.
- Khuyến khích học sinh tích cực tự học
- Giáo viên cần chấm chữa bài thường xuyên, liên tục trước lớp và từng cá
nhân.
- Thường xuyên ra các đề kiểm tra để nhận được thông tin phản hồi từ học
sinh để điều chỉnh cách dạy cho phù hợp.
- Có những hình thức tổ chức linh động hợp lý như làm bài cá nhân, làm
nhóm đơi để tăng hứng thú học cho học sinh, cho học sinh tự chấm bài của bạn
và của mình để tự đánh giá bản thân.
-- Mỗi người thầy, cơ phải là người gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt
thông qua các bài giảng, thông qua sự giao tiếp hằng ngày.
3.2 Kiến nghị:
Sau khi hoàn thành nghiên cứu, tơi có một số kiến nghị sau:
a. Đối với Phòng Giáo dục:
- Hàng năm, Phòng Giáo dục tổ chức các đợt tập huấn, chuyên đề dành
riêng cho giáo viên trực tiếp dạy lớp 4,5 và những GV dạy bồi dưỡng học sinh
năng khiếu về nội dung, phương pháp dạy học Tiếng Việt nói chung và kiến thức
Luyện từ và câu nói riêng để nâng cao năng lực chuyên môn và kĩ năng sư phạm
cho đội ngũ giáo viên thành phố.

- Giới thiệu trên phạm vi rộng những sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp
cấp tỉnh, cấp thành phố mang tính vận dụng cao góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả giảng dạy mơn Tiếng Việt 4 nói riêng, ở tiểu học nói chung.
b. Đối với nhà trường:
- Tổ chức sinh hoạt chuyên đề phân môn Luyện từ và câu; đặc biệt là phần
từ ghép, từ láy ở lớp 4; từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm
ở lớp 5 vì các kiến thức này khó đối với học sinh.
- Thường xuyên tổ chức các tiết dạy minh hoạ về phương pháp dạy học
mới nói chung và dạy Luyện từ và câu nói riêng để giáo viên được trao đổi kinh
nghiệm, học hỏi lẫn nhau.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi, rất mong nhận được sự chia
sẻ, ủng hộ, đóng góp của các đồng chí chỉ đạo chun mơn và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Đông Hải, ngày 30 tháng 3 năm 2022
20


NHÀ TRƯỜNG
........................................................
........................................................
.........................................................

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trịnh Thị Huyền


NHỮNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐẠT GIẢI GẦN NHẤT
TT
Tên sáng kiến
Xếp loại
1 Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho Loại A cấp thành
học sinh lớp 5 qua môn Tiếng Việt
phố
2 Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho Loại C cấp Tỉnh
học sinh lớp 5 qua môn Tiếng Việt
3
Hướng dẫn học sinh lớp 5 kĩ năng sử
Loại B cấp
dụng bản đồ để học tốt phân môn Địa lí.
thành phố
4 “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học
Loại C cấp
tốt kiến thức về từ láy”
thành phố

Năm học
2017-2018
2017-2018
2019-2020
2020-2021

21




×