Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

(SKKN 2022) một số biện pháp sử dụng tài liệu văn học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần lịch sử việt nam cho học sinh lớp 8,9 trường THCS quảng thịnh, thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.66 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lí do chọn đề tài
Dạy học lịch sử ở trường phổ thơng là một q trình giáo viên cung cấp cho
học sinh những kiến thức cơ bản của lịch sử dân tộc nói riêng và lịch sử nhân loại
nói chung, nhằm phục vụ cho việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Lịch sử
vốn tồn tại khách quan và đã diễn ra trong quá khứ, cho nên muốn học sinh tiếp thu
được vấn đề đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau
sao cho đạt kết quả cao.
Với phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động lĩnh
hội tri thức, càng đòi hỏi người thầy giáo phải khai thác triệt để các phương pháp
dạy học tích cực để thu hút sự chú ý của học sinh. Đồng thời lôi cuốn sự ham mê
đối với học sinh học mơn lịch sử trong tình hình hiện nay.
Đặc thù của bộ môn Lịch sử là: dài, nhiều sự kiện với những mốc Lịch sử
khác nhau nên khó ghi nhớ. Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một
trong những bộ mơn có tầm quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho
học sinh một bức tranh sinh động về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc
Từ đặc điểm bộ môn và yêu cầu thực tế, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính
tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng
tâm.
Vì vậy người giáo viên phải sử dụng đến kiến thức liên môn các môn học
khác như: Địa, Ngữ văn,… như vậy làm cho giờ học lịch sử sống động hơn, hấp
dẫn học sinh hơn. Trong đó, nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu
văn, câu thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt
động của nhân vật, một cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp
học sinh yêu thích, hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô
khan của giờ học môn lịch sử. Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học
nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tơi đã chọn đề tài “Một số biện pháp sử
dụng tài liệu văn học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần lịch sử Việt
Nam cho học sinh lớp 8,9 trường THCS Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa
”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tơi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có


một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh tự giác, chủ động lĩnh hội kiến thức
và ngày càng u thích học mơn lịch sử, đem lại chất lượng, hiệu quả cho bộ mơn
lịch sử.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn học sinh lớp 8, lớp 9 trường
THCS Quảng Thịnh biết sử dụng tài liệu văn học để nâng cao chất lượng học tập
phần lịch sử Việt Nam . Góp phần định hướng nhận thức đúng đắn cho học sinh,
giáo dục tình yêu quê hương đất nước, học sinh tự giác, chủ động lĩnh hội kiến
1


thức và ngày càng u thích học mơn lịch sử, giúp giáo viên có một giờ dạy học có
hiệu quả tốt hơn đem lại chất lượng, hiệu quả cho bộ môn lịch sử.

1.3 Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp sử dụng tài liệu văn học nhằm nâng cao chất lượng dạy
học phần lịch sử Việt Nam cho học sinh lớp 8,9 trường THCS Quảng Thịnh, thành
phố Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thống kê thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo Trịnh Tùng, trong cuốn Phương pháp dạy học lịch sử (trang 164. NXB
Giáo Dục 1999) để sử dụng tài liệu văn học trong giờ dạy lịch sử, có thể tiến hành
theo cách sau:
Thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh hoạ
những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học được phong phú và giờ học thêm
sinh động.

Thứ hai: Dùng một đoạn trích để cụ thể hố sự kiện, nêu ra kết luận khái
quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử.
Thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại khoá
(Dạ hội lịch sử).Tuỳ vào nội dung bài học, tiết dạy và năng lực của mỗi giáo viên
mà chúng ta có thể sử dụng một trong những cách trên sao cho phù hợp.
Sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử giúp giờ học trở nên sinh động,
hấp dẫn lơi cuốn học sinh, giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối với một sự kiện,
một nhân vật, một hiện tượng lịch sử. Dễ dàng đưa kiến thức sử đến với học sinh.
Tuy vậy, theo tôi việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
Thứ nhất: Tài liệu văn học đó phải đảm bảo cả giá trị giáo dưỡng, giáo dục
và giá trị văn học.
Thứ hai: Tài liệu ấy phải là một bức tranh sinh động về những sự kiện, nhân
vật lịch sử đang học phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
Thứ ba: Đối với giáo viên trước khi sử dụng, cần có sự lựa chọn kĩ càng,
phải loại bỏ những yếu tố không phù hợp. Đặc biệt đối với tài liệu văn học dân
gian như thần thoại, cổ tích, ca dao, dân ca.... giáo viên cần loại bỏ những yếu tố
thần bí hoang đường giữ lại những điểm cơ bản, khoa học phục vụ bài giảng. Khi
sử dụng giáo viên chỉ đưa vào những nội dung phù hợp, tránh việc lạm dụng đưa
2


vào quá nhiều, làm loãng nội dung bài học lịch sử, biến giờ học sử thành giờ
giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập trung nhận thức của học
sinh vào những vấn đề đang học. Đồng thời, giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù
hợp với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện lịch sử cần minh hoạ phải đưa vào
bài giảng một cách hợp lí, lơgíc.... làm được điều đó thì tính thuyết phục, hấp
dẫn sẽ tăng lên rất nhiều.
Nói tóm lại, việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử là một trong
những cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy sử.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Về phía học sinh: Tâm lí học sinh vẫn xem nhẹ bộ môn Lịch sử, coi môn
Lịch sử là môn phụ, các em chưa thực sự tập trung tìm hiểu sâu bài học mà chỉ
dừng lại ở mức độ học thuộc những gì thầy cơ cho ghi, mặt khác bộ mơn Lịch sử
vốn khô khan, dễ nhàm chán, nhiều giáo viên chưa có phương pháp phù hợp, nên
các em khơng ưa thích, khơng hứng thú học tập.
Đầu năm học 2020-2021 để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài tơi có làm một
bài tập trắc nghiệm để tìm hiểu động cơ và thái độ học tập của 108 học sinh các lớp
8,9 trường THCS Quảng Thịnh như sau:
Hãy chọn phương án mà em cho là phù hợp với bản thân em?
Stt
Phương án
Đúng
Sai
1
2
3
4

Lịch sử chỉ là môn học phụ
Môn lịch sử rất khơ khan và dài dịng
Học lịch sử rất thú vị vì nó giúp em tìm hiểu
được lịch sử lồi người và lịch sử dân tộc
Học lịch sử chỉ cần học những gì thầy cơ cho ghi
là được, khơng cần phải tìm tịi thêm

Kết qủa thu được như sau:
Stt
Phương án


1
2
3
4

Số HS
trả lời
phương
án đúng
Lịch sử chỉ là môn học phụ
65
Môn lịch sử rất khơ khan và dài dịng
58
Học lịch sử rất thú vị vì nó giúp em tìm hiểu
45
được lịch sử lồi người và lịch sử dân tộc
Học lịch sử chỉ cần học những gì thầy cơ cho ghi
75
là được, khơng cần phải tìm tịi thêm

Số HS
trả lời
phương
án sai
43
50
63
33

3



Qua kết quả thu được từ bài tập trắc nghiệm chúng ta có thể kết luận: Đa số
học sinh vẫn coi Lịch sử là mơn phụ, khơ khan, dài dịng và chỉ cần học những gì
mà thầy cơ cho ghi là được.
Trong những năm gần đây kết quả các kì thi đại học, cao đẳng cho thấy đa số học
sinh không nắm được những kiến thức của Lịch sử dân tộc, tỉ lệ điểm môn lịch sử
đạt trên điểm trung bình rất thấp, điều đó làm cho chúng ta khơng khỏi băn khoăn
và càng thấy sự cấp bách của việc thay đổi phương pháp dạy học
Về phía giáo viên: Là giáo viên đã công tác được gần 20 năm trong ngành,
trong quá trình được tham gia tập huấn, dự giờ đồng nghiệp và hơn hết là có nhiều
năm trực tiếp giảng dạy bộ môn lịch sử tôi thấy nhiều giáo viên vẫn xem nhẹ bộ
mơn của mình, tâm lí mơn lịch sử là mơn phụ, đã làm cho khơng ít giáo viên có
suy nghĩ “dạy cho xong”, hoặc là chỉ truyền tải những gì trong sách giáo khoa yêu
cầu, mà không chú ý đến việc đầu tư chiều sâu cho bài giảng, mặt khác chương
trình lịch sử lớp 8, 9 vẫn còn dài, nặng về kiến thức, làm cho học sinh khó khăn
trong việc lĩnh hội kiến thức.
Bên cạnh đó, q trình đào tạo chính quy chun ngành lịch sử chỉ có ở bậc đại
học cịn ở bậc cao đẳng thì đào tạo mơn kép như: Sử - Giáo dục công dân, Sử Địa, Văn - Sử… đã làm cho chất lượng đội ngũ giáo viên chưa cao.
Từ những thực trạng trên và nhiều năm giảng dạy bộ môn lịch sử tôi muốn
chia sẻ với đồng nghiệp những kinh nghiệm “Một số biện pháp sử dụng tài liệu
văn học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần lịch sử Việt Nam cho học
sinh lớp 8,9 trường THCS Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa” và mong
muốn các em khơng được lãng quên lịch sử đồng thời nâng cao chất lượng môn
học, tạo sự hứng thú cho học sinh khi học bộ môn Lịch sử.
2.3. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
2.3.1. Hướng dẫn cách tìm kiếm các tài liệu văn học.
Tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông t rước
hết là các tác phẩm văn học với những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến
tư tưởng, tình cảm của học sinh, giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc sâu kiến

thức một cách dễ dàng hơn. Các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài giảng
thêm sinh động, hấp dẫn nâng cao, hứng thú của học sinh. Trong việc dạy học lịch
sử ở trường phổ thông tuỳ vào nội dung từng bài, từng phần mà giáo viên có thể
đưa vào bài giảng các loại tài liệu văn học khác nhau như: Tác phẩm văn học ra đời
vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử; Tiểu thuyết lịch sử; Hồi kí cách mạng.... Mỗi loại
lại có ý nghĩa khoa học riêng, dó đó khi sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài
giảng; với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo viên giúp học sinh lựa chọn đưa
vào. Cụ thể:
* Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử: Đối
với các tác phẩm văn học này, nó có ý nghĩa rất lớn nó làm quá khứ của sự
kiện lịch sử trở lên sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có sức
4


sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng. Trong quá trình lịch
sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt Nam, cũng như thân
phận của người nông dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều
tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng”
của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao.... để khắc sâu hình ảnh thân
phận người nơng dân trong lịng xã hội cũ. Như vậy có thể nói rằng các tác phẩm
văn học, xuất hiện cùng thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử, đã giúp học sinh thấy
được “bức tranh” sống động của lịch sử, làm cho các em nhận thức được sự kiện
đómột cách tồn diện hơn.
* Tiểu thuyết lịch sử: Tiểu thuyết lịch sử có vai trị khơng nhỏ đối với việc
dạy học lịch sử, vì các tiểu thuyết này có chủ đề gần với những sự kiện trong khố
trình lịch sử, giúp học sinh khơi phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện
nhân vật của q khứ. Ví như: Tiểu thuyết “Đêm hội long trì”; tác phẩm “Hồng
Lê Nhất Thống Chí”.....tuy nhiên khi dạy giáo viên cần lựa chọn, sáng lọc loại bỏ
những tiểu thuyết bịa đặt, ảnh hưởng xấu đến nhận thức lịch sử của học sinh
2.3.2. Hướng dẫn cách sử dụng tài liệu văn học khi dạy học một số bài ở

chương trình lịch sử Việt Nam lớp 8.
Bài 24: Cuộc kháng chiến chống từ năm 1858 đến năm 1873
Khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ
phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như
nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán
khắp nơi. Giáo viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai
đoạn này:
“Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng khơng
Đất trắng xóa ngồi đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Cịn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày”
Mục 2: Chiến sự ở Gia Định 1959.
- Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, qn triều đình nhanh
chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài thơ “Chạy
Tây”
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
5


Nỡ để dân đen mắc nạn này”
(Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963)
- Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn lại

lần lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ,
giáo viên có thể minh họa:
“Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hịa
Gió bụi địi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta”
(Cảm khái – Phan Văn Trị)
Mục 2: Kháng chiến lan rộng ra ba tỉnh miền Tây Nam Kì
- Để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, ba tỉnh
miền Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích một đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ
Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng
bộ....
.... Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy
đen xì, muốn ra cắn cỏ”.
.... Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo
dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ....”
- Khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đơng Nam Kì rồi chiếm ln ba tỉnh miền
Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh: đánh
chìm tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu diệt đồn
Kiên Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua hai
câu thơ sau:
“Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”
- Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ơng bị giặc đem đi
hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh
Tây” Vừa là ý chí chống giặc của ơng đồng thời là ý chí chống giặc của tồn dân
Việt Nam.

- Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến
đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc: “Đứng trước vũ khí của chúng ta,
những người An Nam chỉ có một phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ
các quyền tự do của họ. Họ đã bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm
tột đỉnh và trong số rất đông những người ngã xuống vì những viên đạn của các
đơn vị hành hình hay dưới làn gươm của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ
ghi nhận được một sự yếu đuối nào”.
6


Bài 25 “Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-1884)
- Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng
Cầu Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883),
chiến thắng này công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc
họa về tài cũng như tinh thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau:
“Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lịng bất khuất
Về Tàu còn nguyện giết Tây dương”
- Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân khơng chỉ
đánh Tây mà chống cả triều đình:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Mục II – phần 2: Nhân dân Bắc Kì tiếp tục kháng Pháp.
Để làm cho học sinh hiểu rõ tình cảnh rối ren của triều Nguyễn khi Tự Đức mất
cũng như hiểu tại sao Pháp lại không nhân nhượng triều Nguyễn như năm 1874
nữa. Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe hai câu ca dao sau:
“Một nhà sinh được Ba vua
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài”
(Ba vua này là Đồng Khánh (sống), Kiến Phúc (chết), Hàm Nghi chạy ra
Sơn phòng đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà))

Bài 29: Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển
biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam.
Phần I mục 1: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân
Pháp, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân
tích cuộc sống của người cơng nhân giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các nội dung
sau:
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo”
Hay: “Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
Phần I mục 2: Để mô phỏng cảnh nhân dân ta phải nộp sưu thuế, giáo viên có thể
sử dụng bốn câu ca dao sau:
“Ơi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thơn lính đầy”
Bài 30: Phong trào u nước chống Pháp từ đầu thếkỉ XX đến năm 1918.

7


Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực
hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh.
- Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương
đánh đuổi giặc Pháp giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân
phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Tr ung Quốc). Để khắc họa
hình ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác phẩm “Những
trò lố hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc:

“Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đơng Dương nhận chức Tồn quyền y hứa sẽ
chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ, thuyết phục,
nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ thái độ im lặng,
dửng dung, anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đơi ngọn râu mép của cụ
Phan nhếch lên một chút, nhân chứng thứ hai lại quả quyết cụ Phan đã nhổ vào
mặt Va-ren”.
- Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách về văn
hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh nghĩa
thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết hay bình văn thu hút được nhiều tầng lớp
tham gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nơng dân … một bài văn thời đó đã
viết:
“Buổi diễn thuyết, người đơng như hội
Kì bình văn, khách đến như mưa”
- Khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt Nam, cũng như thân phận của người nông
dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có
giá trị như: “Tắt đèn” của Ngơ Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công
Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao.... để khắc sâu hình ảnh thân phận người nơng dân
trong lịng xã hội cũ.
2.3.3. Hướng dẫn cách sử dụng tài liệu văn học khi dạy học một số bài ở
chương trình lịch sử Việt Nam lớp 9
Bài 14: Việt Nam sau chiến tranh Thế giới thứ nhất
Ở mục I. Chương trình khai thác lần thứ hai của thực dân Pháp
Khi giảng đến phần Thực dân Pháp tăng cường đầu tư vào nông nghiệp và khai
mỏ giáo viên có thể minh họa bằng câu thơ:
“Em đi ra Hịn Gai cuốc mỏ
Anh đi vào đất đỏ làm phu
Đổi thân được mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”
Hoặc: “Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”

Hay: “Cao su đi dễ khó về
8


Khi đi mất vợ, khi về mất con”
Hoặc: "Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vơ lí, làm cho dân ta nhất là dân cày và dân
buôn trở nên bần cùng.
Chúng khơng cho các nhà tư sản ngóc đầu lên, chúng bóc lột cơng nhân vơ cùng
tàn nhẫn…”
(Trích: "Tun ngơn độc lập")
Các câu thơ này và đoạn trích trong "Tuyên ngơn độc lập" giúp cho học sinh hiểu
được chính sách bóc lột của thực dân Pháp đối với nhân dân ta và giáo dục lòng
căm thù giặc cho học sinh, có thái độ thương u những người lao động chân
chính.
Ở mục II. Các chính sách chính trị, văn hóa, giáo dục
Khi giảng giáo viên có thể trích dẫn: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học,
chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi của ta, chúng tắm
những cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi
hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống
ta suy nhược…”
( Trích: " Tun ngơn độc lập")
Đây là dẫn chứng: chứng tỏ chính sách bóc lột thâm độc của thực dân Pháp đối
với nhân dân ta bác bỏ luận điệu “Khai phá văn minh” của mẫu quốc, qua đó giáo
dục lịng u nước, lịng căm thù giặc cho học sinh.
Bài 16: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm
1919- 1925.
Ở mục I. Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917- 1923)

Khi giảng giáo viên có thể trích dẫn Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8
điểm:
1. Tổng ân xá những người bản xứ bị tù chính trị.
2. Cải cách nền pháp lí Đơng Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền
hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu âu. Xóa bỏ hồn tồn những tịa án
đặc biệt dùng làm cơng cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong
nhân dân An Nam.
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
4. Tự do lập hội và hội họp.
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản
xứ.
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
9


8. Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.
( Trích: "Bản yêu sách của nhân dân An Nam")
Trên đây là dẫn chứng nhằm cung cấp thêm tư liệu cho học sinh về “Bản yêu sách
của nhân dân An Nam” của Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc-xai, qua các
dẫn chứng này, chúng ta còn giúp học sinh dễ nhớ được các mốc lịch sử và giáo
dục cho học sinh tình cảm của mình dành cho Bác Hồ.
Hoặc: Khi đọc luận cương của Lê-nin:
“…Luận cương đến Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng đất nước
“Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi”

Hình của Đảng lồng trong hình của nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười…”
Mục II. Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
“Tuyết Mát -cơ -va sáng ấy lạnh trăm lần
Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt
Lê Nin mất rồi nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lê Nin theo người về quê Việt
Biên giới cịn xa nhưng Bác đã đến rồi
Kìa bóng Bác đang hơn lên hịn đá
Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phơi thai”
(Trích: "Người đi tìm hình của nước" của Chế Lan Viên)
Hoặc: “Tháng giêng, Mạc Tư Khoa tuyết trắng
Một người đi quên rét buốt xương
Anh tìm ai? Lê-nin vĩ đại
Tinh hoa trên đất chất kim cương”
(Trích: "Theo chân Bác" của Tố Hữu)
Bài 17: Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Mục III. Việt nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)
Khi nói về chủ nghĩa “Tam dân” của Tơn Trung Sơn giáo viên có thể trích dẫn câu:
“Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc” trong quốc hiệu của nước ta và liên hệ cách mạng
Trung Quốc với cách mạng Việt Nam. Dân tộc: Độc lập; Dân quyền: Tự do; Dân
sinh: Hạnh phúc.
Bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm1930 -1935
Nhằm khắc sâu địa danh cách mạng trong thời kì này giáo viên đọc đoạn thơ trong
bài "Thơ cách mạng”:
“Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
10


Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên

Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi”
Mục II: Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo viên có thê đưa vào bài giảng đoạn trích
sau trong “Bài ca cách mạng” cụ thể là:
“.... Than ôi, nước mất nhà xiêu
Thế khơng chịu nổi, liệu chiều tính mau
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi....
..... Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Chiến trường một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng....”
Bài 22. Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
Mục I. Mặt Trận Việt Minh ra đời
Khi nói đến sự kiện Nguyễn Ái Quốc về nước ngày 28/1/1941 giáo viên liên hệ:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41!
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn nơ
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi”
(Trích: "Theo chân Bác" của Tố Hữu)
Qua bài thơ này học sinh dễ dàng nhớ được mốc thời gian Bác Hồ về nước là
mùa xuân năm 1941 và năm ra đi tìm đường cứu nước là 1911 ( ba mươi năm
ấy…)

Để thấy khơng khí cách mạng sơi sục dâng trào, ta liên hệ các câu thơ sau:
“Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp 3 miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay”
Học sinh thấy được vai trị quần chúng để làm nên lịch sử, củng cố nhận thức, tư
tưởng của các em làm cho các em càng khắc sâu truyền thống anh hùng của dân
tộc.
11


Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa.
Mục I: Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
Trong mục này giáo viên cần trích đoạn:
“Việt Nam độc lập đồng minh
Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây
Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền
....Rồi ra sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Khuyên ai nên nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh”
(Bản diễn ca: "Mười chính sách của Việt Minh" của Hồ Chí Minh)
Bản diễn ca này giúp cho chúng ta nắm được các chính sách của mặt trận Việt
Minh.
Mục III. Giành chính quyền trong cả nước
Nhân sự kiện Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập, nhà thơ Tố Hữu viết:
“Hơm nay sáng mồng hai, tháng chín
Thủ đơ hoa vàng nắng Ba Đình

Mn triệu tim chờ chim cũng nín
Bỗng vang lên câu hát ân tình
Hồ chí minh! Hồ chí minh!
...
Người đọc tun ngơn rồi chợt hỏi:
Đồng bào nghe tơi nói rõ khơng?
Ơi! Câu hỏi hơn một lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lịng
Cả mn triệu một lời đáp: Có !
Như Trường Sơn say gió Biển Đơng…”
Bài thơ này giúp học sinh dễ nắm không gian và thời gian Bác Hồ đọc bản “Tuyên
ngôn độc lập”, giáo dục cho học sinh tình cảm thân thương, gần gũi dành cho Hồ
Chủ Tịch; khắc họa hình tượng Bác Hồ vĩ đại, làm cho các em nhớ mãi không
quên ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
(1946- 1950).
Mục I. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ
Giáo viên dẫn: Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa
Hỡi đồng bào!
12


Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ơng, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, khơng chia tơn giáo, đảng
phái, dân tộc hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc
xuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến, ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước,
dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta.
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi mn năm!
(Trích: "Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến" của Hồ Chí Minh)
Lời kêu gọi của Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất ngắn gọn và súc tích, lời kêu gọi đã nói
rõ được âm mưu của thực dân Pháp và tinh thần đấu tranh vì độc lập của nhân dân
Việt Nam, qua đó học sinh biết được khí thế cách mạng của những năm đầu kháng
chiến chống Pháp.
Hoặc: Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau
Học sinh thấy rằng lời kêu gọi của Bác là tiếng gọi của non sông đất nước, là mệnh
lệnh của cách mạng tiến công dục dã soi đường chỉ lối cho mọi người Việt Nam
đứng dậy cứu nước.
Mục IV. Chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947
Qua thơ ca giúp học sinh xác định được các địa danh trong chiến dịch:
“Anh kể chuyện tôi nghe
Trận chợ Đồn chợ Rã
Ta đánh giặc chạy re
Hai đứa cười ha ha”
Bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
(1950- 1953)
Mục I. Chiến dịch Biên giới Thu- Đông 1950
Bác Hồ của chúng ta đã trực tiếp ra trận để chỉ đạo chiến dịch. Khi dạy bài này
giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh bài thơ “Đêm nay Bác không ngũ”
“Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi

Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ
……”
13


Bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc
(1953- 1954)
Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học viết về Điện Biên Phủ trong thời kì
này vào bài giảng như bài “Hoan hơ chiến sĩ Điện Biên” (Tố Hữu) giáo viên có
thể trích dẫn hai câu thơ sau để khắc sâu về hình ảnh chiến đấu dũng cảm của chiến
sĩ Điện Biên đó là: “Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt”
Máu trộn bùn non, gan khơng núng, chí khơng mịn.”
Mục 2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ từ lúc mở đầu ngày 13/3/1954 đến khi
kết thúc ngày 7/5/1954 giáo viên giảng thêm:
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan khơng núng, chí khơng sờn…”
Hoặc: “Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng”
Hay: “Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng…”
(Trích: “Hoan hơ chiến sĩ Điện Biên” Tố Hữu)
Qua các bài thơ này giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ thời gian diễn ra chiến dịch
Điện Biên Phủ (56 ngày đêm), chín năm kháng chiến chống Pháp (từ 1946 đến
1954) và làm cho học sinh hiểu rõ sự hi sinh, gian khổ và đã làm nên một Điện

Biên Phủ chấn động địa cầu. Niềm tự hào dân tộc, thôi thúc các em ra sức học tập
và rèn luyện nêm người...
Qua khổ thơ học sinh thấy được sự đồng lòng đồng sức của nhân dân ta trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ:
“Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lơ anh hị chị hát”
Hoặc: “Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rủ bùn đứng dậy sáng lồ”
(Nguyễn Đình Thi)
Mục III. Hiệp Định Giơnevơ năm 1954
“Sông Bến Hải bên bồi bên lỡ
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Cách chia mười mấy năm trường
Khi mô mới nối được đường vô ra”
14


Một giới tuyến quân sự tạm thời, nhưng đế quốc Mĩ đã âm mưu chia cắt đất nước
ta lâu dài Nam- Bắc ngăn cách nước:
“Nhưng súng gươm đâu ngăn được tình thương
Đâu ngăn được mặt trời đỏ rực
Khi lịng tơi đã hoá hướng dương”
(Lê Anh Xuân)
Bài 28: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh chống Đế Quốc Mĩ và
chính quyền Sài Gịn ở Miền Nam (1954-1965)
Với chính sách tố cộng, diệt cộng và đạo luật 10/59 của Mĩ - Diệm, qua khổ thơ
học sinh thấy được tộ ác của Mĩ- Ngụy
“Có những ơng già chúng khảo tra

Chẳng khai nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh khơng chịu nhục
Lấy vồ nó đập vọt thai ra”
(Tố Hữu)
Khi nói đến Miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961–1965 )
“ Hỡi Miền Bắc đó nặng đôi vai
Gánh cả non sông vượt dặm dài
Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Hoặc “Từ ngày anh đi ruộng đồng em đảm đang
Ruộng chẳng chăng dây cây lúa thẳng hàng
Đào đắp đê khơi nước vào làng”
Qua các khổ thơ trên học sinh thấy được sự quyết tâm thi đua giữa hậu phương và
tiền tuyến cùng đồng lịng chung sức lập cơng và tin tưởng ngày chiến thắng.
Bài 29. Phần IV-mục 2: Nhân dân miền bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (chiến
tranh phá hoại lần 2 của Mĩ với 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phịng…)
“Chúng muốn biến ta thành tro bụi
Ta hố vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ơ nhục
Ta làm sen thơm ngat giữa đầm….
Cả bốn biển hoan hơ Hà Nội
Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ”
(Tố Hữu)
Ngồi ra tài liệu văn học còn được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động
ngoại khóa cho mơn lịch sử, nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy
cho học sinh, muốn đưa tài liệu văn học vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại
khóa có hiệu quả thì giáo viên phải giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu
một số tác phẩm truyện hoặc thơ có liên quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên
15



có thể khơi dậy tính hiếu kì và lịng ham hiểu biết của học sinh bằng cách tóm tắt
sơ lược nội dung trong sách, kể một vài chi tiết, những đoạn nhỏ trong sách để kích
thích học sinh tiếp tục đọc để tìm hiểu.
Trên đây là một số dẫn chứng trong việc sử dụng yếu tố Văn học trong dạy học
Lịch sử, nội dung văn học gắn liền với sự kiện Lịch sử, Văn học phản ánh Lịch sử
dân tộc, nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt
kiến thức Văn học thì sẽ làm cho bộ môn đỡ khô khan, đỡ nhàm chán hơn cho các
em, gây cho học sinh sự thích thú tìm tịi, khai thác kiến thức Lịch sử và hơn hết là
giúp các em dễ nhớ, dễ thuộc.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiêm đối với hoạt động giáo dục của bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan,
khi sử dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn… minh họa cho một sự kiện
lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn, giờ học
đạt hiệu quả cao. Trong dạy học dùng thơ văn cho học sinh có vai trị tích cực, chủ
động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm những kiến thức đã học để
hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh cịn ơn tập, củng cố,
tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn. Kết quả năm học 2020-2021cụ thể như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL

%
8
67
18
26. 25
37.
23
34.3
1
1.6
8
3
9
41
10
24. 17
41.
14
34.3
0
0
3
4
Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy, kết quả đáng mừng là kích
thích được sự tìm tòi học tập của các em học sinh, số học sinh có hứng thú học tập
bộ mơn tăng, chất lượng dạy học bộ môn cũng tăng. Trong các năm học trước
nhiều em đã tích cực tham gia ơn tập và dự thi HSG môn sử cấp trường, huyện,
tỉnh đạt kết quả cao, tỉ lệ xếp loại môn Lịch sử cuối năm sau luôn cao hơn năm
trước, tỉ lệ khá, giỏi ngày càng tăng, tỉ lệ yếu kém ngày càng giảm xuống.
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy lịch sử sẽ đạt được kết quả cao

nhất của học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh
hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào thực
tế. Giáo viên khơng chỉ đóng vai trị tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ hội tìm
hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã biết để hiểu
kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh
trong học tập.
Khối

Sĩ số

16


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả cao
nhất của học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, giúp học sinh
hứng thú học tập, lĩnh hội kiến thức nhanh và vận dụng một cách sáng tạo vào thực
tế. Giáo viên không chỉ đóng vai trị tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ hội tìm
hiểu, chiếm lĩnh kiến thức mà còn phải biết vận dụng vốn kiến thức đã biết để hiểu
kiến thức mới, có như vậy mới phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh
trong học tập và rèn luyện đạo đức.
Tài liệu văn học được vận dụng trong các tiết dạy góp phần tạo cho học sinh nắm
được truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta, trong chiến đấu cũng như
trong lao động sản xuất. Là cơ sở hình thành nhân cách, lối sống và tự hào về
truyền thống dân tộc đây là nền tảng giúp học sinh hứng thú hơn trong việc học
tập bộ môn lịch sử, là cơ sở phương pháp luận để học sinh chủ động nắm bắt thông
tin cũng như, sưu tầm thơ ca nhằm tiếp cận các sự kiện lịch sử chính xác khoa học,
làm cho tiết học sôi nổi và đạt kết quả cao, khắc sâu vào tâm trí học sinh trong q
trình nhận thức cũng như trong giờ học lịch sử.

Mặt khác, học sinh nhận thức được vai trị của bộ mơn, nhiều em đã thay đổi suy
nghĩ coi Lịch sử là môn phụ và đầu tư nhiều thời gian hơn cho bộ môn, các em
không những tìm hiểu Lịch sử giới hạn trong sách giáo khoa mà cịn khai thác kiến
thức Lịch sử thơng qua báo chí, ti vi và các phương tiện thơng tin truyền thông
khác. Trách nhiệm và nghĩa vụ cơ bản của trường học là làm cho các em không
quên lịch sử và không để cho các em thờ ơ với lịch sử.
Dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là một hoạt động đặc thù giữa
thầy và trò. Muốn nâng cao chất lượng bộ mơn, địi hỏi sự nỗ lực của cả thầy và trị
khơng phải trong ngày một, ngày hai mà là cả một quá trình lâu dài, trong dạy học
Lịch sử đòi hỏi giáo viên phải biết sử dụng linh hoạt và kết hợp nhiều phương pháp
dạy học khác nhau, biết kích thích sự tìm tịi và giúp các em chiếm lĩnh được tri
thức.
Để đổi mới phương pháp dạy học: lấy học sinh làm trung tâm, khơng có nghĩa là
chúng ta phó mặc cho các em tự chiếm lĩnh tri thức. Ngược lại, giáo viên đóng một
vai trị vơ cùng quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù
hợp, đề tài này cũng chỉ dừng lại ở việc vận dụng, khai thác các yếu tố văn học,
nhằm bổ trợ cho quá trình dạy học Lịch sử phù hợp, thích ứng theo điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của từng trường; cốt lõi và chuẩn kiến thức bài dạy phải đảm bảo
yêu cầu.
3.2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên
- Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để chia sẻ kinh nghiệm,
tháo gỡ những khó khăn trong q trình dạy học.
17


- Sưu tầm thêm các tác phẩm văn học, phim tài liệu có nội dung lịch sử phục vụ
việc giảng dạy của bản thân và sự học tập của học sinh.
* Đối với cấp trường:
- Thường xuyên tổ chức báo cáo các chuyên đề Lịch sử để rút kinh nghiệm, cần

đầu tư trang bị, xây dựng phịng học bộ mơn để phục vụ cho công tác dạy học.
- Bổ sung tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hóa, các chân dung nhân
vật lịch sử. Cung cấp nhiều tư liệu,phương tiện để giảng dạy tốt phần lịch sử địa
phương
- Tổ chức những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình học tập
của học sinh trường THCS Quảng Thịnh nên khả năng áp dụng thực tiễn có thể cịn
hạn chế nhất định. Kính mong q thầy cơ đóng góp ý kiến thêm. Tơi chân thành
cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Quảng Thịnh, ngày 02 tháng 04 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
khơng sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thu Hương

18



×