Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

(SKKN 2022) Một số giải pháp rèn kỹ năng lập dàn ý cho bài văn tự sự lớp 6 ở trường TH&THCS Mỹ Lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.52 KB, 18 trang )

1

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ngữ văn là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội cho nên có tầm
quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh, đồng
thời cịn là một mơn học thuộc nhóm cơng cụ, mơn Ngữ văn cịn thể hiện rõ mối
quan hệ với các mơn học khác. Học văn là học cách nói lời hay, làm việc tốt
trong cuộc sống. Cấu trúc của môn Ngữ văn các cấp gồm 3 phân môn: Văn học,
Tiếng việt, Tập làm văn. Phân mơn Tập làm văn trong chương trình Trung học
cơ sở giữ vai trò quan trọng. Đây là mơn học mang tính thực hành để tạo lập một
văn bản viết và văn bản nói. Mỗi bài Tập làm văn mà các em viết ra, nói ra là
sản phẩm sáng tạo của chính các em. Làm tốt Tập làm văn để các em thành thạo
và vững vàng tự tin trước mọi tình huống trong cuộc sống.
Khi dạy phân mơn Tập làm văn giáo viên thường ngại dạy vì nó là một
đề tài khó, khơ, cứng; học sinh hường hay nhàm chán vì thế giờ dạy khó thành
cơng. Đổi mới phương pháp dạy học đối với phân môn Tập làm văn thì hiện
nay các trường tổ chức các chuyên đề, hội thảo để đưa ra các phương pháp dạy
phân môn Tập làm văn mà đặc biệt là phần lập dàn ý cho bài văn chưa nhiều.
Cho nên việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên còn hạn chế.
Lập dàn ý là thao tác quan trọng vì nó là khâu quyết định hướng dẫn cho
học sinh viết được một bài văn đầy đủ, hoàn chỉnh, chặt chẽ. Việc lập dàn ý còn
thể hiện khả năng tư duy của từng cá nhân người học. Giáo viên là người hướng
dẫn chỉ đạo để học sinh hình thành kỹ năng tạo lập văn bản. Từ thực tế giảng
dạy của bản thân và thực tế giảng dạy môn Ngữ văn đặc biệt là phần lập dàn ý
cho bài văn tự sự đây là phần mà bản thân người dạy thường ngại dạy, chưa chú
trọng, chưa quan tâm đầu tư, còn học sinh do xu thế xã hội môn Ngữ văn đang
dần mất đi vị thế của nó cho nên học sinh chưa chú trọng đến việc học môn
Ngữ văn mà đặc biệt là thường bỏ qua khâu lập dàn ý khi viết bài cho nên chất
lượng bài viết của học sinh còn kém.
Hơn nữa, phụ huynh trên địa bàn xã Mỹ Lộc điều kiện kinh tế cịn khó


khăn cho nên chưa quan tâm sát sao, chăm sóc đến con em mình, học sinh ít
mặn mà với bộ mơn Ngữ văn và chỉ coi đó là mơn học bắt buộc để thi vào lớp
10.
Đó là những lí do mà bản thân tơi đã trăn trở trong mỗi giờ lên lớp là làm
sao để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Và từ việc
tìm tịi, học hỏi, rút kinh nghiệm từ bạn bè, đồng nghiệp rồi rút ra cho mình
những giảp pháp rèn luyện kĩ năng lập dàn ý cho bài văn tự sự cho học sinh đã
đem lại kết quả khả quan, chất lượng phân mơn Tập làm văn nói riêng và mơn
Ngữ văn nói chung có những bước tiến triển. Vì thế tơi mạnh dạn chọn đề tài


2

nghiên cứu: “ Một số giải pháp rèn kỹ năng lập dàn ý cho bài văn tự sự lớp 6 ở
trường TH& THCS Mỹ Lộc”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Việc lập dàn ý trước khi viết bài văn tự sự sẽ:
- Hướng dẫn các em có sự suy nghĩ, động não, có sự cân nhắc suy tính và
chọn lựa những kiến thức cần thiết trọng tâm để triển khai trong văn bản.
- Hệ thống được các ý chính để có định hướng đúng khi viết bài, tránh
thiếu ý, trùng lặp ý.
- Sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí khi viết bài.
Để từ đó giúp các em tạo lập được một bài văn hoàn chỉnh đạt hiệu quả
cao đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay mà ngành Giáo
dục đã đề ra.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài hướng tới đem lại hiệu quả cho việc làm văn của học sinh lớp 6 nên
Một số giải pháp rèn kỹ năng lập dàn ý cho bài văn tự sự lớp 6 ở trường TH
& THCS Mỹ Lộc chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài
1.4. Phương pháp nghiên cứu.

Phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm: Thầy là người hướng
dẫn đưa ra những vấn đề, trị chủ động tìm tịi kiến thức.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp thống kê: Xử lý kết quả thực nghiệm lên biểu mẫu thống kê
phân tích kết quả thu được, rút ra nhận xét.
Khảo sát, thực nghiệm, phương pháp nêu ví dụ, phương pháp tổng phân
hợp, vận dụng một số phương pháp chung của bộ mơn. Từ đó đưa ra các kỹ
năng đã áp dụng trong thực tế giảng dạy và đã đạt hiệu quả trong giảng dạy.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong những năm gần đây vấn đề dạy học theo phương pháp đổi mới đã
và đang thực hiện một cách đồng bộ ở tất cả các cấp học, các mơn học.Nằm
trong hệ thống các mơn văn hóa cơ bản của cấp học Trung học cơ sở, bộ môn
Ngữ văn cũng đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng” Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh”.Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của người học. Tuy nhiên trong quá trình dạy học một phần bị
ảnh hưởng bởi thực trạng của đối tượng học sinh theo từng lớp, từng môn.
Đối với việc học môn Ngữ văn của học sinh Trung học cơ sở cần phải
phát huy tối đa sự sáng tạo cho các em nhất là kỹ năng cảm thụ sáng tạo một văn
bản nghệ thuật, từ việc tìm hiểu văn bản nghệ thuật học sinh tiếp tục phải chủ
động và sáng tạo trong việc tạo lập một văn bản nghệ thuật (Tập làm văn) như


3

thế mới phát huy được kỹ năng vận dụng lý thuyết vào thực hành. Nhưng đối
với học sinh lớp 6 thì việc tạo lập một văn bản trọn vẹn về nội dung và hồn
chỉnh về hình thức là rất khó. Bởi vậy rất cần thiết định hướng cho các em biết
cách xây dựng một dàn ý hoàn hảo trước khi tạo lập một văn bản theo yêu cầu.

Bài tập làm văn thực chất vẫn là một văn bản giao tiếp gián tiếp với một đối
tượng cụ thể. Nó vẫn phải trả lời được các câu hỏi như: Viết cái gì? Viết cho ai?
Viết để làm gì? Tất cả các lý thuyết và kinh nghiệm tạo lập văn bản được đưa
vào một kế hoạch làm văn, trong kế hoạch đó nhất thiết phải trải qua bước lập
dàn ý để thâu tóm hết những phần lý thuyết và kinh nghiệm của người viết. Qua
dàn ý học sinh có thể kiểm tra xem định hướng viết bài của mình đã phù hợp, đã
trả lời được các câu hỏi ở trên chưa. Như vậy để phân môn Tập làm văn thực sự
là môn học thực hành, để bài viết của học sinh thực sự có chất lượng chúng ta
cần hướng dẫn học sinh từ nhận thức về mục đích đến giải quyết các vấn đề về
phương pháp lập dàn ý trước khi viết bài văn.
Bản thân là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 6 tôi nhận thấy
rằng khi dạy các tiết về phân môn Tập làm văn đặc biệt là phần lập dàn ý trong
bài văn tự sự các em chưa thể vận dụng lý thuyết để rèn luyện kỹ năng, chưa
biết lựa chọn chi tiết, xây dựng nhân vật, dàn ý còn mắc nhiều lỗi.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Kết quả khảo sát thực trạng khi chưa thực hiện đề tài
Qua khảo sát chất lượng bộ môn Ngữ văn cuối học kì 2 đối với học sinh lớp 6
trường TH và THCS Mỹ Lộc qua năm học trước tơi thấy:
Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

Lớp



số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

6

27

0

0


6

22,2

13

48,1

6

22,2

2

7,5

Qua đó cho thấy, tỷ lệ học sinh ở mức khá cịn ít, tỷ lệ học sinh đạt điểm
yếu còn cao.
Từ kết quả bài làm của học sinh, hầu hết các em mắc chung lỗi chủ yếu là
kỹ năng lập dàn ý chưa tốt, còn lúng túng, các ý sắp xếp còn lộn xộn… Số học
sinh lập dàn ý tốt chủ yếu chỉ tập trung vào một số học sinh khá giỏi môn Ngữ
văn.
Đây là những con số đáng lo ngại. Qua q trình chấm bài tơi nhận thấy
học sinh thường mắc phải những lỗi:
- Về khả năng nhận thức yêu cầu của đề: Nhiều học sinh không xác định
đúng u cầu của đề bài, thậm chí khơng đọc kĩ đề bài, chỉ cần đọc qua loa,


4


không cần lập dàn ý thường đặt bút viết luôn dẫn đến đề yêu cầu một đằng
nhưng nội dung bài viết lại trình bày một nẻo.
- Về việc tuân thủ cách làm bài: Nhiều học sinh không tuân thủ cách làm
bài, tỏ ra không nắm vững cấu trúc mà kiểu bài quy định, một số học sinh
thường viết theo cảm tính và suy nghĩ chủ quan, điều này dẫn đến kết qủa
thường không cao, cho dù diễn đạt tốt cũng vậy.
- Tình trạng phổ biến nhất đối với học sinh lớp 6 hiện nay là vấn đề nhận
thức rất đơn giản và sơ lược khi tiến hành làm bài văn tự sự không cần thiết lập
dàn ý dẫn đến sắp xếp ý lộn xộn, lặp ý hoặc thiếu ý, thiếu thời gian và chưa có
động cơ thái độ đúng đắn trong học tập.
- Trong bài viết của các em, lỗi chính tả cịn nhiều, lỗi dùng từ và đặt câu
cịn rất phổ biến. Cá biệt có những học sinh khơng có ý thức về việc chấm câu
và nguyên tắc viết hoa. Nhiều học sinh chưa biết dựa vào dàn ý để phát triển
đoạn văn, bài văn, tình trạng sử dụng văn nói trong bài viết rất nhiều. Đa số các
em theo cảm tính chưa phối hợp các thao tác làm bài một cách nhuần nhuyễn để
bài viết có sức thuyết phục hơn.
Từ những thực trạng nói trên có thể coi là rào cản hạn chế chất lượng bộ
môn Ngữ văn 6 những năm gần đây, đòi hỏi giáo viên cấp thiết giúp học sinh
tìm cách khắc phục.
2.2.2. Nguyên nhân.
Thực trạng nói trên là do nhiều nguyên nhân, ở phạm vi đề tài này, tôi chỉ
nêu một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Trong chương trình Ngữ văn 6 hiện nay việc lập dàn ý cho đề văn tự sự môn Ngữ văn 6 không được tách ra riêng từng tiết dạy cụ thể mà chỉ gộp vào
trong các bài cách làm bài văn...
- Khả năng tư duy và yếu cầu kĩ năng lập dàn ý ở Tiểu học không được
hướng dẫn cụ thể dẫn đến lên cấp Trung học cơ sở cò nhiều em ngày càng đuối
sức khi tiến hành làm bài văn tự sự.
- Sự hướng dẫn của Sách giáo khoa chưa cụ thể khiến học sinh còn lúng
túng

- Học sinh nhận xét đề văn chưa đầy đủ, đọc đề chỉ lướt qua mà khơng tìm
được ý; thiếu sự tưởng tượng, sáng tạo, ít cảm xúc, nghèo vốn từ. Đồng thời một
số em chưa ý thức góp phần xây dựng bài chưa tích cực, độc lập.
- Giáo viên cũng chưa thực sự coi trọng việc rèn luyện kĩ năng lập dàn ý
cho học sinh.


5

- Một số học sinh chưa thực sự quan sát thực tế hoặc ước lượng thiếu
chính xác, dẫn đến khi làm bài sẽ bị lệch, dùng từ thiếu chính xác, sắp xếp các ý
khơng theo trình tự. Vì thế để có thể thấy được năng lực lập dàn ý của học sinh
cũng như phát hiện ra lỗi mà các em thường gặp tơi đã tiến hành tìm hiểu thực tế
ở khối 6.
Trên đây là những khó khăn cơ bản đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn
Trung học cơ sở nói chung và phân mơn Tập làm văn 6 nói riêng hiện nay, địi
hỏi phải có những giải pháp tháo gỡ nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1.Hệ thống kiến thức cơ bản liên quan đến lập dàn ý cho bài văn tự sự ở
lớp 6.
Trước khi rèn luyện kỹ năng lập dàn ý cho bài văn tự sự môn Ngữ văn 6
giáo viên cần giúp học sinh hiểu được khái niệm, vai trò, đặc đểm và các kiều
bài văn tự sự.
a. Khái niệm văn tự sự.
Tự sự còn gọi là kể chuyện, là một thể loại văn khá thông dụng và là một
hoạt động nghệ thuật có từ xa xưa.
Tự sự là phương thức chủ yếu để nhận thức được sự việc. Tự chữ Hán
nghĩa là “kể”, sự là “việc”, “chuyện”. Như vậy mục đích kể chuyện là để biết, để
nhận thức con người và cuộc sống.
Sách Ngữ văn 6 được biên soạn theo chương trình cải tiến của Bộ giáo

dục và đào tạo năm 2002 đã định nghĩa văn tự sự như sau: Tự sự (kể chuyện) là
phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia,
cuối cùng dẫn đến một kết thúc thể hiện một ý nghĩa. Mục đích của tự sự là trình
bày diễn biến sự việc nhằm giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và
bày tỏ thái độ khen chê của người kể.
Trong đề tài này tôi căn cứ vào định nghĩa này.
b. Vai trị: Khơng ngẫu nhiên mà văn tự sự lại chiếm một vị trí quan trọng
như vậy trong chương trình Ngữ văn 6 cấp Trung học cơ sở. Trong văn học tự sự
được xem là một thể loại văn sáng tác. Phương thức tự sự có mặt ở hầu hết các
thể loại như: Thơ, truyện ngắn, phóng sự, kịch…Vì vậy tự sự đã trở thành yếu
tố của thi pháp trong nhà trường Trung học cơ sở cùng với thể loại khác, văn tự
sự giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ một cách toàn diện. Lý thuyết về Tập làm
văn là lý thuyết về kỹ năng, lý thuyết các hoạt động giao tiếp, và các phương
thức biểu đạt, về các kiểu bài thực hành để đáp ứng giao tiếp và biểu đạt. Từ đó


6

các em sẽ được nâng cao nhận thức về tư tưởng, tình cảm để thực hiện tốt các
chức năng giáo dục, giáo dưỡng của quy trình đào tạo.
c. Đặc điểm của văn tự sự:
- Có chuyện để kể: Hai yếu tố tạo nên câu chuyện là sự việc có diễn biến
và ý nghĩa – điều muốn nói qua sự việc được kể lại. Sự việc là yếu tố quan trọng
là cốt lõi của văn tự sự, khơng có sự việc là khơng có tự sự. Sự việc có diễn biến
là các sự kiện, tình tiết, chi tiết, nhân vật có quan hệ với nhau tạo nên sự phát
triển liên tục từ khi bắt đầu câu chuyện cho đến khi kết thúc câu chuyện. Sự việc
có diễn biến tạo nên phần xác của câu chuyện. Đúng như tác giả Phạm Hổ đã
nói: Sự việc có diễn biến chỉ là phương tiện cịn ý nghĩa – điều muốn nói mới là
mục đich của câu chuyện.
- Có nhân vật, tình huống, tình tiết. Tạo nên sự việc có diễn biến trong câu

chuyện là các nhân vật và hành trạng của nhân vật. Các nhân vật trong câu
chuyện thường được miêu tả trong nhiều mối quan hệ với những người xung
quanh, với thiên nhiên và cuộc sống xã hội…
- Bên cạnh đó câu chuyện bao gồm nhiều tình huống. Có tình huống tạo
sự xung đột gay gắt, có tình huống tạo sự tương phản làm nổi bật tính cách nhân
vật hoặc hồn cảnh xã hội.
- Dựa trên một cách kể nhất định. Cách kể chuyện do nhiều yếu tố tạo
nên. Cách sắp xếp câu chuyện, cách mở đầu, kết thúc, cách thắt nút, cách lựa
chọn ngơi kể, giọng kể, lựa chọn chi tiết, tình huống.
d. Các kiểu bài văn tự sự.
Hiện nay ở cấp Trung học cơ sở người ta chia văn tự sự ra thành 2 loại:
- Kể chuyện đời sống, người thực việc thực.
Chuyện đời sống chỉ là những chuyện đời thường, đời thực. Gồm chuyện
kể về người thực, việc thực hay chuyện thuộc loại danh nhân của những người
nổi tiếng. Chuyện từ đời sống bao hàm cả những câu chuyện hư cấu, tưởng
tượng nhưng phản ánh cuộc sống bình thường hàng ngày, nhìn chung từ đời
sống là chuyện phản ánh đời sống hàng ngày có thực.
Ví dụ: Kể một kỉ niệm về thầy cô giáo làm em nhớ mãi.
- Kể chuyện tưởng tượng.
Tái hiện để nhớ lại sự việc cho sinh động và đầy đủ như vốn có của nó,
hoặc tưởng tượng sáng tạo để tạo ra những người, những sự việc chưa bao giờ
có. Trong tưởng tượng sáng tạo lại có nhiều cách: Hoặc là tưởng tượng một câu
chuyện hệt như có thật hoặc là tưởng tượng một câu chuyện mà tính chất tưởng
tượng rất lộ liễu, khơng che đậy…


7

Ví dụ: Tưởng tượng một cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh - Thủy Tinh.
2.3.2. Rèn kỹ năng lập dàn ý kiểu bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn

6
Hướng dẫn học sinh hình thành kỹ năng lập dàn ý tốt cần thực hiện các
giải pháp sau:
Giải pháp thứ 1:Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững các bước
tiến hành làm bài văn tự sự.
a. Bước Tìm hiểu đề.
Đề bài văn kể chuyện thường phức tạp hơn nhiều so với đề bài văn tường
thuật hay miêu tả.
Đề bài văn kể chuyện nội dung thường khơng có sẵn nhiều khi người làm
bài phải sáng tác ra. Vì vậy đề bài kể chuyện phải cung cấp đề tài, chủ đề, có khi
cung cấp cả cái sườn, sự việc để người làm phát triển thêm. Thiếu sự cung cấp
các dữ kiện, không thể triển khai làm bài tốt.
Ví dụ : Đã lâu lắm rồi em mới có dịp gặp cơ giáo cũ, người đã tận tình
dạy dỗ, chăm sóc hồi em vừa mới bắt đầu đi học. Hãy kể lại cuộc gặp gỡ đầy
xúc động đó.
Đây là đề bài kể chuyện từ đời sống.
Đề bài yêu cầu kể lại cuộc gặp gỡ xúc động giữa học trị với cơ giáo cũ
(thể hiện tình cảm thân thiết giữa cô giáo và học sinh).
- Cô giáo có đặc điểm gì khiến cuộc gặp gỡ xúc động?
+ Đã lâu lắm không gặp lại.
+ Cô giáo dạy lúc mới bắt đầu đi học tức là cô giáo lớp Một nay em đã
học lớp 6 thì cách nhau đã 5- 6 năm.
- Đã tận tình dạy dỗ, chăm sóc em, có nghĩa là em đã từng có khó khăn,
phải nhờ cơ tận tình dạy dỗ, chăm sóc mới vượt qua được, điều đó đã thành kỷ
niệm khó quên. Trường hợp nào khiến em cảm thấy được cô tận tình dạy dỗ và
chăm sóc em? Thế nào là cuộc gặp gỡ đầy xúc động? Chào hỏi đôi câu, hỏi thăm
một vài câu chuyện chưa thể là cuộc gặp gỡ đầy xúc động.
Như vậy tìm hiểu đề là lý giải đầy đủ, sâu sắc các dữ kiện mà đề đã cung
cấp để kể ra một câu chuyện phù hợp.
Tóm lại: Trong khâu tìm hiểu đề của bài kể chuyện, điều quan trọng nhất

là tìm hiểu sự quy định về chủ đề, tình huống, cách kể. Tìm hiểu hời hợt thì các
sự việc, chi tiết lựa chọn không đắt và câu chuyện định kể sẽ lạc đề, xa đề.
b. Bước 2: Tìm ý, chọn ý và xác định ý nghĩa cho câu chuyện.
* Xác định cốt truyện và ý nghĩa câu chuyện.
- Khi xây dựng cốt truyện, cần trình bày tồn bộ diễn biến câu chuyện.
Câu chuyện bắt đầu từ lúc nào? Các sự việc diễn biến ra sao? Lúc nào là cao
trào? Lúc nào là kết thúc?


8

Ví dụ: Khi làm đề bài: “Em đã học truyện cổ tích Thạch Sanh.( SGKNgữ văn 6, Tập 1), em hãy kể lại chuyện mẹ con Lý Thông lừa Thạch Sanh đi
giết Trăn Tinh.”
Với đề này khi xác định cố truyện người viết cần làm rõ:
- Câu chuyện bắt đầu khi mẹ con Lý Thông được tin báo đến lượt Lý
Thông phải ra miếu Trằn Tinh để nộp mạng. Chúng đã bàn mưu lừa Thạch Sanh
đi thay.
- Cao trào nhất là lúc Thạch Sanh gọi cửa báo tin đã giết được Trăn Tinh.
Mẹ con Lý Thơng khấn lạy rối rít. Nhưng sau khi biết được sự thật lại dọa và
đuổi Thạch Sanh đi.
- Câu chuyện kết thúc khi Thạch Sanh ra đi.
* Xây dựng nhân vật.
Nhân vật trong văn kể chuyện có thể được miêu tả cả ngoại hình lẫn nội
tâm, có tính cách, có tên tuổi, có tiểu sử. Trong câu chuyện có thể có nhiều nhân
vật: Nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Mối
quan hệ giữa nhân vật và cốt chuyện là mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau.
Xây dựng nhân vật là yếu tố cơ bản trong văn tự sự. Nhưng cịn phải biết
miêu tả nhân vật, có như thể người đọc mới hình dung rõ hành động nhân vật từ
đó giúp người đọc hình dung được tính cách nhân vật, ý nghĩa câu chuyện.
* Xây dựng tình tiết.

Xác định được tình tiết là quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn nữa là
phải liên kết các sự kiện, sự việc thành một hệ thống hoàn chỉnh thống nhất để
bộc lộ được ý nghĩa tư tưởng của chuyện. Một cốt chuyện bao gồm rất nhiều
tình tiết. Tình tiết phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp.
c. Bước 3: Lập dàn ý.
Lập dàn ý hay gọi là xây dựng bố cục cho bài văn, tức là làm kết cấu của
bài văn thể hiện trọng tâm, trọng điểm của bài văn đó. Kêt cấu là sự sắp xếp các
nhân tố nội dung. Với văn bản nghị luận thì bố cục của nó gồm 3 phần: Đặt vấn
đề, giải quyết vấn đề, kết thúc vấn đề.
- Phần mở bài: Thông thường khi kể một câu chuyện người ta thường bắt
đầu từ việc giới thiệu nhân vật và tình huống phát sinh câu chuyện gây sự chú ý
cho người đọc.
- Phần thân bài: Kể diễn biến các sự việc để thể hiện phẩm chất, tính
cách, con người hay ý nghĩa của sự việc. Sự việc này có thể được sắp xếp theo
nhiều cách.
- Phần kết thúc: Kết thúc sự việc, khép lại câu chuyện, nêu suy nghĩ, cảm
tưởng về câu chuyện hoặc nhân vật được kể.
d. Bước 4: Viết bài văn tự sự.


9

Đối với văn bản tự sự khó nhất là phần mở bài và phần kết thúc câu
chuyện. Có người ví mở đầu là mở cửa mời người đọc vào sống với câu chuyện.
Còn kết thúc là tiễn người đọc ra về, khép cửa lại. Nếu người đọc không muốn
bước chân qua cửa để vào nhà hoặc người đọc ra về mà khơng nhớ gì, khơng
suy nghĩ vui buồn một chút nào cùng câu chuyện vừa được nghe, kể hay vừa đọc
thì có nghĩa là người viết đã thất bại. Có rất nhiều cách mở bài và cũng có rất
nhiều cách kết thúc câu chuyện. Cách kết thúc chuyện thường hay gắn với chủ

đề của chuyện.
e. Bước 5: Đọc và sửa chữa
Để đánh giá bài văn, chúng ta cần thực hiện giai đoạn kiểm tra, sửa chữa,
hoàn thiện văn bản. Đồng thời tiến hành phân loại lỗi, gọi tên những thiếu sót
hoặc lỗi đã mắc trong bài. Một điều cần chú ý nữa là việc hồn thiện và điều
chỉnh có thể tiến hành, thực hiện ngay sau khi học sinh viết bài xong.
Giải pháp thứ 2: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho bài văn tự sự
a. Những yêu cầu cơ bản của kỹ năng lập dàn ý
Muốn lập dàn ý cho bài văn phải nắm được các yêu cầu cơ bản của dàn ý.
- Dàn ý phải đáp ứng đúng yêu cầu về nội dung, hình thức, thể loại, mục
đích, đối tượng và về cả những giới hạn mà đề bài xác định.
- Dàn ý phải đảm bảo tính chặt chẽ và hợp lô gic.
- Dàn ý phải cân xứng, hài hòa giữa các phần, các mục.
- Dàn ý cần trình bày sáng sủa, mạch lạc, dễ hiểu thơng qua các từ ngữ và
các ký hiệu thích hợp.
- Đối với dàn ý bài văn tự sự ở lớp 6 phải phù hợp với đối tượng học sinh
đầu cấp cơ sở. Nghĩa là dàn ý phải được trình bày rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu và
đúng thể loại.
b. Mục đích của dàn ý: Giúp học sinh hệ thống được toàn bộ nội dung và
phạm vi vấn đề do đề bài nêu ra. Trên cơ sở đó, học sinh xác định được các ý
lớn của bài và từ đó các em dựa vào cái sườn của dàn bài để phát triển đoạn;
đồng thời giúp người viết phân bố thời gian hợp lí trong q trình làm bài. Tất
cả đều phụ thuộc vào bố cục bởi dàn ý là cái tự xây dựng, mang tính sáng tạo,
rèn luyện được kĩ năng cho mỗi học sinh. Chắc chắn rằng các em sẽ thành cơng
trong việc tạo lập văn bản
c. Mơ hình lập dàn ý của bài văn tự sự.
Các tài liệu dạy học, làm văn thường đưa ra nhiều loại dàn ý trong đó có 2
loại cơ bản:
- Dàn ý đại cương ( sơ lược )
- Dàn ý chi tiết.

+ Dàn ý đại cương: Là loại dàn ý nêu lên những ý chính, ý lớn và những ý
bộ phận triển khai cho các ý chính đó.


10

+ Dàn ý chi tiết: Là loại dàn ý được phát triển tiếp tục các ý bộ phận ở dàn
ý sơ lược thành các ý chi tiết hơn, phong phú hơn.
Đối với bài văn tự sự, do đặc trưng của loại hình, việc lập dàn ý có thể
được trình bày theo nhiều cách khác nhau tùy theo quan niệm của mỗi người và
theo từng loại sách khác nhau. Sau khi tham khảo ở một số tài liệu tôi nêu ra.
* Mơ hình tổng qt như sau:
- Mở bài:
+ Giới thiệu hoàn cảnh phát sinh câu chuyện.
+ Giới thiệu nhân vật chính của chuyện.
- Thân bài: Trình bày diễn biến các sự việc.
+ Sự việc 1: Sự việc mở đầu.
+ Sự việc 2: Sự việc cao trào.
+ Sự việc 3: Sự việc thắt nút.( Hay sự việc đỉnh điểm)
+ Sự việc 4: Sự việc mở nút ( sự việc kết thúc )
- Kết luận:
+ Khép lại câu chuyện.
+ Nêu ý nghĩa của chuyện.
Từ mơ hình tổng qt chúng ta có các mơ hình dàn ý sơ lược và dàn ý
chi tiết như sau:
* Mơ hình dàn ý đại cương ( sơ lược):
- Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh, nhân vật, sự việc.
- Thân bài: Diễn biến sự việc.
+ Sự việc 1:…
+ Sự việc 2:…

+ Sự việc n:…
- Kết luận: Kết thúc chuyện – nêu cảm nghĩ.
Ví dụ : Lập dàn ý đại cương cho đề bài: Kể lại truyện truyền thuyết mà
em yêu thích bằng lời văn của em.
Đầu tiên giáo viên phải định hướng cho học sinh xác định yêu cầu đề:
+ Chọn một truyền thuyết để kể lại bằng ngơn ngữ của mình.
+ Bám sát chủ đề, bố cục, cốt truyện của truyện dân gian cần kể.
+ Có thể chọn ngôi kể và thứ tự kể...
Giáo viên vận dụng phương pháp gợi ý:
+ Giới thiệu truyện em định kể là truyện gì, vì sao em lại thích kể lại
truyện đó.
+ Kể lại câu chuyện theo cảm xúc, mục đích giao tiếp và dụng ý của em.
Có thể lồng ghép thêm những nhận xét, cảm nghĩ của cá nhân vào lời kể, kết
hợp giải thích ý nghĩa lịch sử xã hội của truyện.
Trên cơ sở đó, giáo viên yêu cầu HS lập dàn ý đại cương.


11

- Mở bài: Giới thiệu truyện Sơn Tinh Thủy Tinh.
- Thân bài:
+ Vua Hùng kén rể.
+ Sơn Tinh Thủy Tinh đến cầu hôn.
+ Vua Hùng ra điều kiện chọn rể.
+ Sơn Tinh Thủy Tinh đánh nhau.
+ Kết quả trận đánh.
- Kết bài: Cảm nghĩ, nhận xét, đánh giá của em về truyện Sơn Tinh Thủy
Tinh.
* Mơ hình dàn ý chi tiết.
- Mở bài:

+ Giới thiệu hồn cảnh, tình huống phát sinh chuyện.
+ Giới thiệu nhân vật ( nhân vật chính – nhân vật phụ )
+ Giới thiệu sự việc.
- Thân bài: Diễn biến các sự việc.
+ Sự việc mở đầu chuyện:
Tình tiết 1:…
Tình tiết 2:…
Tình tiết 3:…
+ Sự việc thắt nút ( sự việc cao trào )
Tình tiết 1:…
Tình tiết 2:…
Tình tiết n:…
+ Sự việc kết thúc chuyện:
Tình tiết 1:…
Tình tiết 2:…
Tình tiết 3:…
- Kết luận:
+ Kết thúc chuyện, khép lại câu chuyện.
+ Nêu ý nghĩa câu chuyện.
+ Nêu cảm nghĩ chung.
* Dàn ý chi tiết: Có nhiệm vụ phát triển ý lớn, cụ thể hóa ý lớn nhằm tập
trung làm rõ, nổi bật ý lớn (chủ đề) bài viết.
Ví dụ 1: Kể về mẹ.
Để làm được hoàn chỉnh đề văn trên trong tiết luyện tập thì người Giáo
viên phải định hướng cho học sinh biết cách làm. Tiến hành các bước sau: Tìm
hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý.
- Xác định được yêu cầu của đề:
+ Kể về người thấn trên cơ sở những kỉ niệm sâu sắc đã có, có chọn lọc về



12

người đó.
+ Biết vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học về ngôi kể, thứ tự kể và
cách làm bài văn kể chuyện đời thường.
- Giáo viên dùng phương pháp gợi ý:
+ Giới thiệu khái quát về người định kể (là ai, có quan hệ với em như thế
nào, tình cảm của em và lí do vì sao em lại kể về người đó)
+ Giới thiệu về ngoại hình, tính cách người đó (những nét tiêu biểu, gây
ấn tượng, nói đúng bản chất nhân vật).
+ Chọn kể những kỉ niệm sâu sắc, khơng thể nào qn về người đó hoặc
giữa kỉ niệm về người đó với em.
+ Những cảm xúc, suy nghĩ của em về người đó: yêu quý, kính trọng, nhớ
ơn, khơng qn, mong ở gần,...
+ Dựa trên cơ sở đó giáo viên định hướng cho học sinh lập dàn ý chi tiết
(phương pháp độc lập).
1. Mở bài: Trong gia đình, người tơi u q nhất là mẹ - một người phụ
nữ vừa giỏi việc nước, vừa đảm việc nhà.
2. Thân bài:
- Kể về hình dáng của mẹ:
+ Vóc dáng cao, gầy, da khơng trắng, mũi khơng cao,đơi mắt bồ câu
+ Con người làm việc bàn tay khô ráp.
- Tính tình của mẹ:
+Tận tụy với cơng việc,hịa nhã với mọi người
+ Cần mẫn làm việc,nấu ăn khéo
+ Yêu thương mọi người
+ Chăm lo cho con cái rất chu đáo
- Những công việc của mẹ:
+ Chưa ngày nào thấy mẹ ngừng làm việc: dậy sớm, chuẩn bị ăn sáng
cho cả nhà, tất bật đi làm, chiều về dọn dẹp...

+ Tuy bận rộn mệt mỏi vậy mà lúc nào mẹ cũng vui vẻ, dịu dàng, quan
tâm tới con cái...
+ Mẹ là hình ảnh đẹp đẽ nhất trong trái tim tơi, một phụ nữ đảm đang, ý
chí quyết tâm, ham học hỏi là điểu tôi khâm phục nhất ở mẹ.
+ Lời hứa cố gắng chăm chỉ để mẹ vui lòng, bớt mệt mỏi trong cuộc
sống.
- Tình cảm của em đối với mẹ.
+ Đối với em có mẹ là điều hạnh phúc nhất, em ln mang trong mình
lịng biết ơn sâu sắc với mẹ vì đã sinh thành và ni dưỡng em
+Khi em mắc lỗi mẹ nghiêm khắc phạt và giảng giải để em hiểu.
3. Kết bài:


13

- Vô cùng yêu quý và tự hào về mẹ của mình.
- Ln khắc ghi hình ảnh mẹ.
Ví dụ 2: Kể lại một kỉ niệm thời thơ ấu.
Gợi ý:
Dàn ý đại cương:
* Mở bài: Giới thiệu kỉ niệm làm em nhớ mãi
* Thân bài:
- Kỉ niệm đó diễn ra ở đâu? Khung cảnh thế nào?
- Những đối tượng nào gắn bó với kỉ niệm của em?
- Kỉ niệm đó mang lại cho em suy nghĩ gì?
- Kỉ niệm của em có phải là hồi ức đẹp khơng?
* Kết bài: Em có suy nghĩ gì về những kỉ niệm đáng nhớ đó.
Dàn ý chi tiết
* Mở bài:
- Giới thiệu nỗi nhớ về một người bạn thời thơ ấu dưới mái trường.

- Cảm xúc khi nhớ lại sự việc không thể quên.
* Thân bài:
- Diễn biến sự việc theo trình tự thời gian, không gian.
+ Trong giờ học, cây bút không bị tắc mực, không viết được.
+ Bạn thân đưa cho cây bút mượn để viết.
+ Đó là kỉ vật thiêng liêng của anh trai bạn để lại.
+ Vô tâm không trả lại ngay.
+ Trên đường bị ngã làm mất bút
+ Hai ngày khơng đi học vì bị sốt cao.
+ Hỏi ra bạn bị ốm là do tìm bút giữa mưa.
- Kết quả sự việc.
+ Bạn bị sốt cao phải đi viện cấp cứu.
+ Ân hận trách mình vơ tâm và xin lỗi bạn.
- Dụng ý kể chuyện: Phê phán lối sống vơ tâm; trân trọng, đề cao tình cảm
u thương con người với nhau.
* Kết bài:
- Những cảm xúc, suy nghĩ của em về sự việc.
- Rút ra bài học về sự trân trọng tình cảm – thứ tài sản thiêng liêng và cao
quý nhất.
Sau khi đã lập dàn ý hoàn chỉnh có nghĩa là học sinh cũng bước qua
chặng đường khó khăn khi tiến hành làm đề văn tự sự. Từ đó, các em tự tin,
thuận lợi trong việc viết văn. Nhưng để huy động được tất cả đối tượng học sinh
hoạt động trong tiết học tôi thường cho học sinh kiểm tra lại dàn ý lại một lần.
Như vậy, lập dàn ý chính là sắp xếp việc gì kể trước, việc gì kể sau để người
đọc theo dõi được câu chuyện và hiểu được ý định của người viết. Nhưng có
những trường hợp các ý phải được sắp xếp theo một trật tự bắt buộc vì có giải
quyết xong ý này mới đủ điều kiện giải quyết ý kia.


14


Giải pháp thứ 3: Rèn luyện kỹ năng lập dàn ý qua các tiết luyện nói, tiết
luyện tập và tiết trả bài trên lớp.
Trong thực tế giảng dạy ngoài các tiết học chúng tôi đã lồng ghép để rèn
luyện kĩ năng lập dàn ý trong các tiết như: Luyện nói trước lớp, các tiết luyện
tập phân môn Tập làm văn, đặc biệt nhất qua tiết trả bài Tập làm văn. Cụ thể tôi
đã đưa ra một số phương pháp sau để áp dụng vào trong giảng dạy phân
môn Tập làm văn 6.
- Trong tiết luyện nói: Tơi thường chọn 1 đến 2 đề trong SGK (Tiết luyện
nói đó) yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà trước. Đến lớp giáo viên dành khoảng 5
đến 7 phút định hướng cho học sinh về cách thực hiện các đề đó và để các em ổn
định lại tâm thế chuẩn bị lên lớp trình bày. Tùy theo khả năng của mỗi em, giáo
viên khơng nên bắt buộc, gị bó học sinh phải lập dàn ý chi tiết hay đại cương
mà qua tiết học này giúp học sinh biết lập dàn ý. Dựa vào dàn ý phát triển ý nhỏ
(dàn ý chi tiết).
- Trong giờ luyện tập làm văn ở lớp: Xem đây là tiết thực hành rất quan
trọng. Trong quá trình các em học lý thuyết và dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
học sinh chỉ việc thực hành theo yêu cầu của đề, giáo viên không làm thay mà
gợi ý để học sinh làm việc độc lập (có thể theo nhóm). Muốn đạt đươc mục đích
của tiết luyện tập, học sinh phải làm theo trình tự qua các thao tác: Tìm hiểu đề,
tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn trong một bài văn. Bên cạnh đó, giáo
viên cũng khơng quá chú trọng tới việc lập dàn ý thì học sinh sẽ nhanh chóng bỏ
qua thao tác tìm hiểu đề, tìm ý. Hơn nữa để tránh được sự nhàm chán, ỷ lại, phụ
thuộc vào sách giáo khoa, giáo viên lấy bài tập ngồi sách giáo khoa để học sinh
có sự sáng tạo, có ý thức làm việc tích cực...
- Trong giờ trả bài Tập làm văn: Đối với tiết học này, giáo viên chỉ dùng
phương pháp gợi ý, định hướng cho học sinh để các em có thói quen tiến hành
các bước khi làm bài. Bắt buộc học sinh phải thiết lập các bước này trên giấy
nháp. Sau đó, giáo viên cùng lớp sữa chữa lại dàn ý đó. Dựa vào dàn ý đã
chữa các em có thể đối chiếu với bài làm của mình để biết được bài làm đủ ý

chưa, sắp xếp theo trình tự chưa, cách phát triển ý như thế nào.
Giải pháp thứ 4: Rèn luyện kỹ năng lập dàn ý qua hệ thống bài tập.
Để xây dựng được các kỹ năng kể chuyện cho học sinh, phải xuất phát từ
hệ thống bài tập. Muốn hình thành hệ thống bài tập, cần phải xác định các yêu
cầu cụ thể:
- Hệ thống bài tập phải hướng vào mục đích.
- Hệ thống bài tập trong văn tự sự nói chung và lập dàn ý nói riêng là phải
đảm bảo tính khoa học, tính thống nhất và chính xác.
- Bài tập phải đa dạng, nhiều thể loại.
- Bài tập phải vừa sức.
- Bài tập phải đi từ dễ đến khó.


15

- Bài tập phải đáp ứng yêu cầu đổi mới của cải cách giáo dục.
Theo quan điểm tích hợp, tích cực đồng thời để phát huy khả năng tư duy
và sáng tạo cho học sinh, chúng tôi đưa ra hệ thống bài tập gồm 1 số dạng như
sau:
- Bài tập lập dàn ý từ một văn bản có sẵn: Nghĩa là từ một văn bản có sẵn
yêu cầu học sinh nhận biết, xác định bố cục của từng phần (Mở bài, thân bài, kết
luận)
- Bài tập biến đổi dàn ý: Đây là dạng bài tập nhằm phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của học sinh. Giáo viên cho học sinh luyện tập theo hai cách: Từ dàn ý
sơ lược phát triển thành dàn ý chi tiết; từ dàn ý chi tiết khái quát thành dàn ý sơ
lược.
- Bài tập hồn chỉnh dàn ý: Mục đích của dạng bài tập này nhằm nhắc lại
những lý thuyết cơ bản khi tìm hiểu dàn bài của bài văn tự sự để rèn luyện kỹ
năng lập dàn ý theo bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết bài); nêu nhiệm vụ và
nhấn mạnh vai trị khơng thể vắng mặt của từng phần.

- Bài tập lập dàn ý từ đề bài cho trước: Đây là dạng bài tập quen thuộc,
thường gặp nhưng cũng là bài tập khó, địi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức
về lý thuyết cũng như vận dụng một cách thành thạo và kỹ năng làm văn.
Tóm lại: Nếu vận dụng những nguyên tắc ở trên, Giáo viên sẽ đề ra được
một hệ thống bài tập cụ thể, phù hợp cho học sinh của mình và sẽ có tác dụng tốt
cho việc rèn luyện, hình thành kỹ năng lập dàn ý kiểu bài văn tự sự cho học sinh
lớp 6
Trên đây là một số thao tác lập dàn ý cho một đề văn tự sự. Với những
phương pháp trên, tôi hi vọng giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh lập dàn ý tốt, rèn
luyện kĩ năng lập dàn ý cho đề văn tự sự đối với học sinh lớp 6 thành thạo hơn
và qua đây cũng giúp các em khơng bỡ ngỡ, gặp khó khăn khi lập một dàn ý. Từ
đó các em biết tìm ý, chọn ý và sắp xếp ý tìm được thành một bài văn hồn
chỉnh đồng thời tạo thói quen được cho học sinh biết làm nháp trước khi
trình bày vào vở. Qua đó kích thích các em có tinh thần tự giác trong học tập,
chất lượng học tập sẽ được nâng cao rõ rệt, khơng khí lớp học sơi nổi. Học sinh
ham học phân mơn Tập làm văn, có khả năng học tốt phân môn Tập làm văn và
mạnh dạn trong việc tạo lập văn bản.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết quả thực nghiệm được đánh giá trên cơ sở sau khi tôi tiến hành thực
nghiệm một đề bài cụ thể trong một tiết dạy, căn cứ vào chất lượng giờ dạy và
học, căn cứ vào kết quả nắm vững kiến thức và kết quả làm bài của học sinh.
Kết quả làm bài của học sinh là kết quả cuối cùng, đồng thời là kết quả rõ nhất,


16

chính xác nhất thể hiện hiệu quả của cơng việc thực nghiệm. Đây là kết quả sau
khi áp dụng một số giái pháp.
Bảng kết quả khảo sát bài làm của học sinh lớp 6
Giỏi


Khá

TB

Yếu

Kém

Lớp


số

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

6

27

4

14,8

10

37,0

12

44,5

1

3,7

0

0

Nhìn vào bảng tổng kết bài làm của học sinh được tiến hành. Tôi thấy kết
quả và tỷ lệ kiểm tra ở lần này cao hơn. So sánh kết quả thi cuối học kì I với kết

quả thi khảo sát đầu năm, tôi nhận thấy chất lượng mơn học đã được cải thiện
phần nào.Từ đó tơi thấy mình tự tin hơn, vững vàng hơn về chun mơn, say mê
hơn với sự nghiệp trồng người. Bởi bước đầu các em đã ý thức được tầm quan
trọng của việc học văn, số học sinh tích cực, hứng thú học tập môn Ngữ văn
được nâng cao rõ rệt.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Khi nghiên cứu đề tài này tôi khơng có tham vọng gì lớn ngồi mong
muốn đi tìm một giải pháp để khắc phục những tình trạng trên mà bản thân và
các đồng nghiệp thường băn khoăn. Quá trình thực nghiệm và cuối cùng là kết
quả thực nghiệm đã cho thấy những giải pháp mà tôi đưa ra là có tính khả thi.
Các hình thức rèn luyện làm văn nói chung và lập dàn ý nói riêng đã phản
ánh đúng bản chất của môn Tập làm văn. Đồng thời thể hiện đúng quan điểm
dạy học theo phương pháp mới. Phương pháp tích hợp theo chiều ngang và
chiều dọc, trong đó lấy trục văn bản làm trọng tâm.
Qua kết quả tôi thấy rằng cách dạy thực nghiệm áp dụng hệ thống bài tập
lồng ghép vào các tiết dạy, đặc biệt là hình thức làm bài tập ở nhà để rèn luyện
kỹ năng lập dàn ý đã chiếm ưu thế hơn hẳn. Số lưọng bài làm đạt điểm khá, giỏi
đã được nâng cao, tuy chưa được kết quả như mong muốn nhưng đây là một dấu
hiệu đáng mừng. Học sinh đã bắt đầu khắc phục được những hạn chế nhất định,
biết cách lập dàn ý, có ý thức xây dựng dàn bài trước khi hành văn.
Cách dạy chú ý đến sự luyện tập bằng hình thức bài tập để rèn luyện kỹ
năng làm văn đã thể hiện được đặc trưng và phản ánh đúng bản chất của tập làm
văn là mơn thực hành – tổng hợp. Mục đích cơ bản của tập làm văn là hướng tới


17

xây dựng các kỹ năng. Muốn hình thành được thì vấn đề cơ bản nhất phải là
sáng tạo ra một hệ thống bài tập để rèn luyện từng kỹ năng.

Kế thừa phương pháp dạy học truyền thống đồng thời áp dụng phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phân
môn Tập làm văn đã chú trọng đến phương pháp luyện tập bằng hệ thống bài
tập. Điểm mới và khó của phân mơn Tập làm văn theo hướng dạy phát huy tính
tích cực, chủ đọng, sáng tạo của học sinh là phải chú trọng đến cả lý thuyết và
thực hành. Để thực hành tốt, xây dựng được các kỹ năng làm văn cho học sinh
thì phải xuất phát từ hệ thống bài tập. Các bài tập phải được sắp xếp theo mơt
quy trình chặt chẽ từ đơn giản đến phức tạp. Điều đáng chú ý là hệ thống bài tập
được xây dựng phải phù hợp với nhận thức của học sinh, phải gợi mở được các
vấn đề tạo được sự hứng thú cho học sinh.
3.2. Kiến nghị.
Đề nghị các cấp quản lý giáo dục cần tăng cường mở các lớp tập huấn về
đổi mới phương pháp dạy học để các giáo viên như tôi được tìm hiểu sâu hơn
các phương pháp, kĩ thuật dạy học theo hướng tích cực.
Các cấp, các ngành cần quan tâm hơn nữa cơng tác hình thành nhân cách,
bồi dưỡng tâm hồn cho các em thông qua bộ môn Ngữ văn ở trường Trung học
cơ sở.
Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến ý thức học tập của các em
học sinh đối với các môn khoa học xã hội nói chung và bộ mơn Ngữ văn nói
riêng.
Trên đây là ý kiến của bản thân qua quá trình giảng dạy và tìm tịi tài liệu.
Bản thân đã áp dụng trong q trình giảng dạy. Kết quả cho thấy có sự chuyển
biến đáng kể.
Trong thời gian cho phép, năng lực có hạn tơi chỉ đưa ra một số giải phảp
rèn kỹ năng lập dàn ý cho bài văn tự sự ở lớp 6. Đây chỉ là một gợi ý của bản
thân nêu ra để mong sao góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng
dạy phân môn Tập làm văn nói riêng cũng như bộ mơn Ngữ văn nói chung. Rất
mong được sự góp ý chân tình của đồng nghiệp và các bạn đọc để đề tài được
hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 10 tháng 3 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung người khác.
Người viết


18

Trần Thị Nhung



×