Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN CCCT độc lập dân tộc gắn LIỀN với CHỦ NGHĨA xã hội sự lựa CHỌN ĐÚNG đắn của ĐẢNG và của dân tộc VIỆT NAM, là PHÙ hợp với QUY LUẬT TIẾN hóa của LỊCH sử PHẢN bác QUAN điểm SAI TRÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.07 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG
TÊN BÀI THU HOẠCH: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG
VÀ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM, LÀ PHÙ HỢP VỚI QUY LUẬT
TIẾN HÓA CỦA LỊCH SỬ. PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM ĐÒI VIỆT
NAM TỪ BỎ MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

- NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA
Chương

XÃ HỘI - SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG

1.

VÀ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM, LÀ PHÙ HỢP VỚI



1.1.
1.2.

QUY LUẬT TIẾN HÓA CỦA LỊCH SỬ
Cơ sở lý luận và thực tiễn lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM ĐÒI VIỆT NAM TỪ BỎ

Chương

MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA

2.

XÃ HỘI VÀ TRÁCH NHIỆM BẢN THÂNNGƯỜI

2.1.

LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
Phản bác quan điểm đòi Việt Nam từ bỏ mục tiêu độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội
2.2.
Liên hệ trách nhiệm bản thân
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
1

1
1
6

10
10
15
16
17


1

Phần I: MỞ ĐẦU
Độc lập dân tộc (ĐLDT) và chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam là vấn
đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, lịch sử đã giải quyết vấn đề lựa chọn này từ
những năm 20 của thế kỷ XX. Nó khơng chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách
mạng, đến đường lối, chính sách, mà còn liên quan đến lý tưởng, mục tiêu và
phương hướng đi lên của đất nước. Việc lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH không thể là việc làm tùy tiện, cảm hứng, chủ quan, mà đây thực
sự là vấn đề khoa học nghiêm túc, là trách nhiệm thiêng liêng trước dân tộc và
đất nước. Sở dĩ Đảng và nhân dân ta lựa chọn và kiên định độc lập dân tộc và
CNXH vì đây là con đường phát triển hợp quy luật khách quan của lịch sử nhân
loại, mặc dù biết rõ đây là sự nghiệp vơ cùng khó khăn, phức tạp. Ngày nay, Tổ
quốc ta hồn tồn độc lập thì dân tộc và CNXH là một. Chỉ có xã hội XHCN
mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thốt
khỏi ách áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều kiện tiên quyết để xây

dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do
vậy, cho dù thế giới ngày nay và trong những năm tới có thể có nhiều đổi thay,
nhưng ĐLDT gắn liền với CNXH mãi mãi là mục tiêu, con đường duy nhất
đúng, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phần II. NỘI DUNG
Chương 1. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG VÀ CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM, LÀ PHÙ HỢP VỚI QUY LUẬT TIẾN HÓA CỦA LỊCH SỬ.
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội
Về cơ sở lý luận: Xuất phát từ lí luận Mác - Lênin về dân tộc, giai cấp
và mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp; Về vai trò, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Các nhà kinh điển chủ nghĩa MácLênin đã khẳng định: Dân tộc và giai cấp có mối quan hệ biện chứng với nhau.


2

Dân tộc bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, khơng có dân
tộc chung chung, dân tộc phi giai cấp. Về vấn đề giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng: phải giải phóng giai cấp trước
thì mới giải phóng được dân tộc và vấn đề giải phóng dân tộc phải phụ thuộc
vào giai cấp. Và ở mỗi một thời đại lịch sử, đều có giai cấp đứng ở vị trí trung
tâm của thời đại đó, giai cấp ấy có khả năng nắm vững ngọn cờ dân tộc, giải
quyết đúng vấn đề dân tộc, đưa dân tộc tiến lên.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin khẳng định: Chính quyền là vấn đề cơ bản của
mọi cuộc cách mạng, chỉ có cách mạng XHCN do giai cấp vô sản lãnh đạo là
cuộc cách mạng chân chính mới đủ khả năng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc
và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, đưa nhân dân thực sự trở thành chủ thể của xã hội, làm chủ vận mệnh

dân tộc và làm chủ chính bản thân mình.
Vận dụng sáng tạo quan niệm cuả chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện
một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải giải phóng dân tộc, giành độc
lập cho dân tộc trước, coi việc giành độc lập cho dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu,
cịn giải phóng giai cấp từng bước thực hiện. Xuất phát từ điều kiện xã hội Việt
Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, tuyệt đại đa số dân cư là nông dân và
tất cả những tầng lớp nhân dân lao động khác đều bị áp bức, bóc lột, nên trong
cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đặt lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Bởi vì, "nếu khơng giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì
chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi bộ phận, giai cấp đến vạn nǎm cũng khơng địi lại được"[2, tr.112,113]. Về
chủ nghĩa xã hội, theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[4, tr.591]. Lý
tưởng xã hội chủ nghĩa ấy được hình thành dựa trên một cơ sở khoa học vững
chắc, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động Việt Nam. Vì


3

thế, nó đã trở thành chất keo bền vững gắn kết toàn dân, trước hết là những giai
cấp cần lao thành một khối thống nhất, trở thành ngọn cờ quy tụ nhân dân thành
một khối đoàn kết xung quanh Đảng. Theo Người, giữa ĐLDT và CNXH có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội,
điều này hoàn toàn khác với các bậc tiền bối yêu nước trước đó – họ mới chỉ đề
cập đến việc giành độc lập dân tộc mà chưa gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến
bộ xã hội, với chủ nghĩa xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: cách mạng xã hội
chủ nghĩa nó khơng kết thúc với việc giành chính quyền vào tay vơ sản và lao
động, mà đó mới chỉ là sự mở đầu. Cơng việc cơ bản quan trọng và khó khăn,
lâu dài của cách mạng là xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Không thực hiện được nội dung thứ nhất, thì khơng thể có nội dung thứ hai; đồng
thời không thực hiện tốt nội dung thứ hai thì ý nghĩa thực sự của cách mạng sẽ bị
suy giảm, thậm chí dẫn đến thủ tiêu những thành quả của việc thực hiện nội dung
thứ nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập
rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì”[5, tr.152].
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là tạo những cơ sở giữ vững và phát triên độc lập dân
tộc. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu, tiền đề đi lên chủ nghĩa xã
hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân chủ được
tiến hành triệt để, đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho nền độc lập dân tộc
được giữ vững và ngày càng củng cố, phát triển.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng
cho sự lựa chọn con đường ĐLDT và CNXH của Đảng và nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng.
Về cơ sở thực tiễn: Thắng lợi của CMT10 Nga năm 1917 với sự ra đời của
nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, đã mở ra thời đại mới cho lịch sử nhân loại –
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả
năng hiện thực cho những dân tộc lạc hậu tiến lên CNXH. Những khả năng hiện
thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như giải
pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga


4

đã đưa Chủ nghĩa Mác - Lê-nin từ lý luận khoa học trở thành thực tiễn, từ tư
tưởng trở thành hiện thực sinh động trên phạm vi thế giới. Đó là cuộc cách mạng
thủ tiêu chế độ áp bức, bóc lột, bất công - chế độ tư bản chủ nghĩa, và đã “giành
được nước Nga từ trong tay bọn nhà giàu để giao lại cho những người nghèo, từ
trong tay bọn bóc lột để giao lại cho những người lao động”[9, tr.209]. Chính vì
thế, Cách mạng tháng 10 Nga là cuộc cách mạng có tính thời đại, khai phá con
đường cho nhân loại đi tới tương lai, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản

lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Xuất phát từ điều kiện thực tế của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX. Nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Các phong trào yếu nước theo hệ nhiều hệ tư tưởng khác
nhau diễn ra rất mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại. Dân tộc Việt Nam đứng trước
tình trạng khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước. Các phong trào, các cuộc
khởi nghĩa đều xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, tinh thần dân tộc,
nhưng ngun nhân cơ bản là chưa có một chính đảng của giai cấp tiêu biểu, với
nền tảng lý luận tiên tiến và đường lối cách mạng, khoa học dẫn dắt, nên cuối
cùng đều bị kẻ thù dìm trong bể máu và không tránh khỏi thất bại. Thực tế đấu
tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX,
là sự khủng hoảng trong con đường cứu nước.
Thực tiễn quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911
-1920). Nung nấu trong đầu tư duy chính trị phải có "con đường cứu nước khác"
trên cơ sở phân tích những con đường mà các bậc tiền bối và nhân dân ta đã và
đang tiến hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra nước ngồi, đến phương Tây để nghiên
cứu các cuộc cách mạng trên thế giới xem họ làm cách mạng như thế nào để về
giúp đồng bào mình. Người đã nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng tư sản
điển hình và nhận định đó là các cuộc cách mạng "không đến nơi". Sau khi tìm
hiểu cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, và cho đến khi tìm hiểu Cách mạng
Tháng Mười, Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái


5

hạnh phúc tự do, bình đẳng thật’’[6, tr.274]. Tính chất "đến nơi" của Cách mạng
Tháng Mười đã đưa Người đến quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc
là đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và "Chỉ có tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu

mạnh thêm"[7, tr.173]. Đây là một kết luận phù hợp với nhu cầu lịch sử của dân
tộc và xu thế phát triển của thời đại, cho thấy tầm cao trí tuệ và tư duy chính trị sắc
sảo của Người. Quá trình tìm đường cứu nước và thực tiễn hoạt động cách mạng,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành nên hệ thống luận điểm quan trọng về cách
mạng xã hội chủ nghĩa. ĐLDT gắn liền với CNXH ngay từ đầu đã trở thành yêu
cầu tất yếu khách quan; là sự lựa chọn của lịch sử, của toàn dân tộc, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin soi đường, được Cách mạng Tháng Mười Nga cổ vũ và từ điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trải qua thực tiễn đấu tranh chống xâm
lược đầy cam go, khốc liệt, Đảng ta khẳng định: ĐLDT và CNXH là mục tiêu
xuyên suốt, luôn gắn chặt với nhau, quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó, ĐLDT là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH còn CNXH là
cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT.
Như vậy, xuất phát từ chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư ưởng Hồ Chí Minh và
thực tiễn cách mạng thế giới, thực tiễn mâu thuẫn xã hội Việt Nam, nguyện vọng
của toàn thể dân tộc ta, Đảng ta ngay từ khi ra đời đã nắm vững ngọn cờ ĐLDT
và CNXH. Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã tập hợp được trong
hàng ngũ của mình hàng triệu người con ưu tú có khả năng tranh đấu đến cùng
hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo về Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi
mới, trước xu thế khách quan và chủ quan, Đảng ta luôn kiên định ĐLDT và
CNXH, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, Tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng.


6

1.2. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực
tiễn rất cơ bản. Nó khơng chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng, đến
đường lối, chính sách, mà còn liên quan đến lý tưởng, mục tiêu và phương
hướng đi lên của đất nước. Đây thực sự là vấn đề khoa học nghiêm túc, là trách
nhiệm thiêng liêng trước dân tộc và đất nước. Trung thành với mục tiêu và con
đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta chủ động vận dụng trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp cụ thể.
Giai đoạn 1930 – 1945: Cương lĩnh chính trị tháng 10-1930 của Đảng nêu
rõ: Tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến
lên CNXH, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Giai đoạn 1945 – 1954: là giai đoạn nhân dân ta đã làm chủ vận mệnh
của mình, làm chủ đất nước. Theo quy luật chung lúc này Việt Nam có thể
chuyển sang giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song, căn cứ vào tình hình
thực tiễn của cách mạng nước ta Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng” [3, tr.26] và tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với
khẩu hiện “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Nội dung dân tộc lúc này là phải
giữ vững chính quyền vừa mới giành được. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta vừa tiến hành cuộc đấu tranh chống xâm lược , vừa xây dựng chế độ
mới, bước đầu chuẩn bị lý luận cho CNXH.
Giai đoạn 1954 -1975: Trong giai đoạn này, độc lập dân tộc kết hợp với chủ
nghĩa xã hội khơng cịn đơn thuần là mục tiêu lý tưởng như giai đoạn 1930 –
1945, cũng không giống thời kỳ 1945 – 1954, mà chủ nghĩa xã hội đã trở thành
khẩu hiệu hành động và biến thành thực tế trên miền Bắc nước ta. Mục tiêu của
hai nhiệm vụ chiến lược: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên CNXH. Xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Xây dựng và củng cố miền Bắc
thành hậu phương vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất


7


nước nhà. Và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt
Nam hịa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
Từ năm 1975 đến năm 1985: Trong giai đoạn này, Đảng ta có nhiều tìm tịi
về lý luận con đường lên chủ nghĩa hội với những thành công và sai lầm, khuyết
điểm, diễn ra trên phạm vi cả nước. Trong 10 năm này, nhân dân ta và Đảng ta
đã trải qua một giai đoạn thử thách vô cùng gay go, quyết liệt.
Từ năm 1986 đến nay: một bước ngoặt lớn trên con đường thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thể hiện qua các kỳ đại hội:
Đại hội VI của Đảng (12 – 1986) là Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, là
Đại hội đổi mới đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử tìm ra lối thốt cho cuộc
khủng hoẳng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài hơn chục năm và đặt nền tảng
cho việc tìm ra con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội VII (6/1991) Đại hội đã thông qua Cương lĩnh năm 1991. Đây là
văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược, là nền tảng tư tưởng lý
luận và ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta, dân tộc ta trong giai đoạn mới. Cương
lĩnh năm 1991, sau khi phân tích bối cảnh của tình hình thế giới và trong nước,
đã nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch
sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Mặc dù
trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, phe xã hội
chủ nghĩa khơng cịn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng
hoảng, thối trào, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng
định quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, Cương
lĩnh năm 1991 đã đưa ra những quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và phương
hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là một



8

bước tiến lớn trong tư duy lý luận của Đảng ta, vừa quán triệt tinh thần cơ bản
của học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vừa thể hiện sự vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời kỳ mới. Đại hội VII có ý nghĩa
lịch sử trọng đại, đã hình thành rõ nét con đường quá độ lên CNXH phù hợp với
đặc điểm nước ta. Với cương lĩnh và những chính sách cụ thể của Đảng đã đặt
thêm một mốc son mới nhằm đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng về con đường
quá độ lên CNXH.
Đại hội VIII của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang
thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa… Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân
tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.
Đại Hội IX của Đảng (tháng 4 – 2001) là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt
Nam. Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện
nay là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh’’ ( điểm mới là có thêm từ “dân chủ”).
Đại Hội X (tháng 4 – 2006) của Đảng khẳng định: “Nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống
quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ xã hội ở Việt Nam đã hình thành nên những nét cơ bản”. Kế
thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991 về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam và những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011) có một nội dung rất mới so với Cương lĩnh năm
1991: đó là xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thứ nhất;
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Thứ hai; Do nhân dân làm

chủ; Thứ ba; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Thứ tư; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; Thứ năm; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có


9

điều kiện phát triển toàn diện; Thứ sáu; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Thứ bảy; Có Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh
đạo; Thứ tám; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Tám
đặc trưng đó là sự thế hiện tập trung nhận thức lý luận của Đảng ta về CNXH và
con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Đó là mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam trong thế kỷ XXI. Và đó cũng thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội XI, XII Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc mục tiêu chung của cách
mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục kế thừa, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong bối
cảnh mới. Ngay từ hệ quan điểm chỉ đạo trong Báo cáo chính trị, đã đặt lên hàng
đầu quan điểm nhất qn có tính ngun tắc: “Kiên định và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[1, tr.109]. Yêu cầu đặt ra là phải kiên định một cách
sáng tạo, tức là phải luôn giữ vững những vấn đề có tính ngun tắc, để khơng
chệch hướng, cực đoan, đồng thời phải thể hiện được tinh thần đổi mới sáng tạo
để khơng sa vào bảo thủ, giáo điều, trì trệ. Trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn
và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII khẳng định: “Tư duy lý luận của Đảng có
bước phát triển. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát
triển”[1, tr.74].
Mỗi kỳ Đại hội của Đảng là một bước tiến mới trong nhận thức về mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cũng như con đường thực hiện mục tiêu đó.
Tuy nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp hồn tồn mới mẻ, chưa có
tiền lệ trong lịch sử, vơ cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài và còn rất nhiều vấn đề
chưa được làm sáng tỏ, đòi hỏi Ðảng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy, đẩy mạnh


10

nghiên cứu lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn, khắc phục sự lạc hậu, sự bất cập
của lý luận để có thể giải đáp được những vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra, làm
cho con đường xã hội chủ nghĩa không chỉ là định hướng mà ngày càng định hình
vững chắc trong đời sống xã hội của đất nước.
Chương 2: PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM ĐÒI VIỆT NAM TỪ BỎ MỤC TIÊU
ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TRÁCH NHIỆM
BẢN THÂN NGƯỜI LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
2.1 Phản bác quan điểm đòi Việt Nam từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội
Trong giai đoạn cách mạng mới, âm mưu của các thế lực thù địch là xóa bỏ
vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN, lái nước ta đi
theo con đường TBCN, lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Để đạt được mục tiêu
đó, chúng khơng từ bỏ bất kì mưu đồ nào, chống phá ta một cách toàn diện, với
nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Thơng qua chiến lược “Diễn biến hịa bình”
chúng đánh thẳng vào nhận thức, tư tưởng của người dân. Đặc trưng của “Diễn
biến hịa bình” là xun tạc nhằm loại bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bôi nhọ hạ thấp danh dự của Đảng tiến tới loại bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng ta, thúc đẩy tự diễn biến làm suy yếu hệ thống chính trị … Trong đó các
lực lượng phản động và thế lực thù địch đã đưa ra quan điểm bác bỏ mục tiêu lý

tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sau khi mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ các
thế lực đế quốc cho là thời cơ đã đến đến xóa bỏ các nước XHCN khác cịn lại.
Chính cựu Tổng thống Mỹ R.Nichxon đã viết cuốn sách Chớp thời cơ và cuốn
Năm 1999 – Chiến thắng không cần chiến tranh, nêu ra dự báo đến cuối thế kỷ XX
các nước XHCN cịn lại sẽ tự sụp đổ. Tiến cơng vào đường lối của Đảng, các thế
lực thù địch cho rằng không thể làm trái quy luật bỏ qua chế độ tư bản mà là phát
triển CNTB dưới sự lãnh đạo của Đảng, giải quyết các vấn đề xã hội ở chừng mực
nào đó, theo chủ nghĩa xã hội dân chủ. Chúng cịn cho rằng định hướng XHCN sẽ
khơng thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, và cho rằng như vậy sẽ bị cô lập trên


11

trường quốc tế. chúng nêu rằng VN đã chọn con đường sai, và khơng thể có CNXH
và cũng với đó chúng ra sức tô hồng CNTB, rằng CNTB đã thay đổi về bản chất,
rằng CNTB có thể hội tụ với CNXH trong thời đại văn minh hậu cơng nghiệp,
chúng cịn cho rằng CNTB là vĩnh hằng còn CNXH là khuyết tật, không dân chủ,
thiếu nhân quyền…
Về mặt lý luận và thực tiễn chúng ta phản bác lại quan điểm đó như sau:
Trước hết, dân tộc Việt Nam không thể giành được độc lập nếu khơng có
đường lối cách mạng vơ sản. Ngay từ khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên
xâm lược nước ta (năm 1858) đến trước năm 1930, đã có hàng trăm phong trào,
cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, nhà yêu nước nhưng đều bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại. Ngun nhân chính là do khơng có
đường lối cách mạng đúng theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách
mạng, phù hợp với tiến trình lịch sử. Chỉ đến khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm
thấy con đường duy nhất đúng để cứu nước, giải phóng dân tộc, là con đường
giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp; giai cấp vơ sản phải nắm lấy
ngọn cờ giải phóng dân tộc, ĐLDT gắn liền với CNXH thì cách mạng nước ta

mới thành cơng.
Hai là, giành được ĐLDT mà khơng gắn với CNXH thì chẳng những khơng
giữ được ĐLDT mà cịn khơng thể mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, thì
việc đấu tranh lật đổ ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành
ĐLDT là mục tiêu trước mắt của mọi quốc gia, dân tộc bị áp bức, của các dân
tộc thuộc địa. Song, việc xác định mục tiêu lâu dài, con đường phát triển tiếp
theo của mỗi nước, mỗi dân tộc lại tùy thuộc vào quan điểm, lập trường của giai
cấp cầm quyền. Một số nước sau khi kiên trì đấu tranh giành được ĐLDT quyết
định đưa đất nước tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN,
trong đó có Việt Nam. Bởi lẽ, tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện
thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu tiến thẳng lên CNXH. Những khả năng
hiện thực này xuất phát từ nhận thức về thời đại, từ cơ sở khoa học trong quan


12

niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề ĐLDT. ĐLDT là mục tiêu, là tiền
đề để đi lên CNXH, CNXH là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam. Chỉ có cách mạng XHCN mới giải phóng triệt để giai cấp vơ sản và
nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, bất cơng, mới đem lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành người làm
chủ xã hội. Vì vậy, ĐLDT là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT.
Ba là, ĐLDT mà không gắn với CNXH thì nhân dân ta sẽ khơng được
hưởng một nền dân chủ thực sự và một xã hội ổn định. Dân chủ tư sản phục vụ
cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành
trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ cho số ít, chun chính
cho số đơng và là căn ngun mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội tư bản không
được hưởng một nền dân chủ thực sự. Trái lại, dân chủ XHCN, với tư cách là

chế độ nhà nước được sáng tạo bởi nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, cho nên, luôn đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân
dân. Xã hội TBCN gắn liền với chế độ đa đảng chính trị. Nước ta khơng thực
hiện chế độ đa ngun, đa đảng khơng có nghĩa là bảo thủ, mất dân chủ như các
thế lực thù địch cố tình xun tạc, mà đó là u cầu khách quan. Không thực
hiện chế độ đa nguyên, đa đảng để đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Về lý luận, dân chủ không đồng nghĩa
với đa ngun, khơng phải cứ có đa ngun là có dân chủ. Dân chủ là quyền tự
quyết của nhân dân trước những vấn đề trọng đại của đất nước, của dân tộc. Dân
chủ XHCN thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của cơng dân, bảo đảm cho nhân
dân là chủ thể của quyền lực.
Bốn là, ĐLDT mà không gắn với CNXH thì nhân dân ta sẽ mất đi bản sắc
văn hóa dân tộc, đạo đức xã hội bị xuống cấp. Thực tiễn hội nhập quốc tế ở
nước ta hiện nay cho thấy, những tác động tiêu cực của lối sống và văn hóa có
nguồn gốc từ xã hội TBCN đến đời sống xã hội nước ta đang hằng ngày, hằng


13

giờ làm phai nhạt bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự xâm nhập ngày
càng mạnh mẽ của “văn hóa tư sản” mà cụ thể là lối sống thực dụng trong xã hội
đã góp phần trực tiếp hay gián tiếp làm thối hóa một số tổ chức và con người.
Vì vậy, để giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống của dân tộc, hội nhập mà khơng
hịa tan chỉ có kiên định với sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH, cùng với
xóa bỏ ách áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu
cực từ văn hóa và lối sống ngoại lai, tạo những điều kiện để tiếp thu những giá
trị văn hóa, văn minh của thời đại, làm phong phú thêm cốt cách, lối sống và bản
sắc văn hóa cùng với sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Năm là, giành ĐLDT mà đưa đất nước theo con đường TBCN là đi ngược

lại ước mơ, nguyện vọng, ý chí và phủ nhận sự hy sinh xương máu của biết bao
thế hệ người Việt Nam. Đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành ĐLDT, giải
phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành
người làm chủ đất nước là ước mơ, là khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta bao
đời nay. Vì vậy, sau khi giành được ĐLDT, khơng có lý do gì để “lùi lại” giai
đoạn dân chủ nhân dân mà lịch sử đã vượt qua. Đảng ta không thể đưa đất nước
đi theo con đường TBCN, không thể đưa giai cấp bóc lột quay trở lại địa vị
thống trị, đưa dân ta trở lại con đường lầm than, cơ cực, tiếp tục chịu thân phận
ngựa trâu. Vì vậy, khơng thể tự tước đoạt, tự hủy hoại thành quả cách mạng với
bao sự hy sinh xương máu của hàng triệu người dân Việt Nam mới có được.
Giành được ĐLDT, tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đối
với nước ta là sự lựa chọn hợp quy luật phát triển của nhân loại, đồng thời cũng
phù hợp với đặc điểm của dân tộc ta, nguyện vọng, ý chí của nhân dân ta.
Sáu là, kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH là điều kiện tiên quyết
để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và BVTQ. Ngày nay, Tổ quốc ta hồn
tồn độc lập thì dân tộc và CNXH là một. Thực hiện mục tiêu ĐLDT gắn liền
với CNXH trong điều kiện mới, quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc
gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,
tồn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị XHCN, kết hợp chặt chẽ với nhiệm


14

vụ tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc xây dựng và
BVTQ. ĐLDT gắn liền với CNXH tạo cơ sở cả về lý luận và thực tiễn để chúng
ta vận dụng sáng tạo các bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế; triển khai các hoạt
động đối ngoại một cách đồng bộ và tồn diện. Theo đó, kiên định mục tiêu
ĐLDT gắn liền với CNXH mới có thể phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức
mạnh nội sinh nhằm giữ vững độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực đối với sự

nghiệp xây dựng và BVTQ.
Bất chấp các quan điêm sai trái, thù địch bác bỏ mục tiêu lý tưởng chúng
chúng ta. Thành tựu và bài học của 35 năm đổi mới đã minh chứng cho quan
điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Bác hồ, Đảng và nhân dân
ta lựa chọn là đúng đắn.
Có thể nói, 35 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự
nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là q
trình cải biến sâu sắc, tồn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn
Đảng, toàn dân ta. Qua 35 năm đổi mới, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời
sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy
và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi
vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Đúng như Đại hội XIII đã nêu rõ: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và


15

từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử’’[1, tr.103]
Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân
dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác,

giúp đỡ. Và hơn hết chính là bài học giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơng cuộc
đổi mới tồn diện đất nước cịn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế,
khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững. Mặc dù cịn có những hạn chế, khó khăn nhưng những thành
tựu to lớn của công cuộc 35 năm đổi mới, một lần nữa khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử. Do vậy, cho dù thế giới ngày nay và trong những năm tới có thể
có nhiều đổi thay, nhưng ĐLDT gắn liền với CNXH mãi mãi là mục tiêu, con
đường duy nhất đúng, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trên con đường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
2.2. Liên hệ trách nhiệm của bản thân
Bản thân, trên cương vị là Trưởng phịng Kỹ thuật Nơng nghiệp của Cơng
ty cao su Sơng Bé, đồng thời cũng là bí thư chi bộ tôi luôn nhận thức đúng, rõ
con đường ĐLDT gắn liền với CNXH của dân tộc. Luôn tin tưởng vào bản chất
cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nói riêng; cũng như đường lối
đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH đang bị chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố. Ở công ty cao su Sông Bé
không tránh khỏi có những thời điểm, có những trường hợp bị một số thế lực lực
phản động dùng âm mưu, thủ đoạn và chiêu trị dụ dỗ cơng nhân và làm thối hóa,
biến chất một số cán bộ, đảng viên làm cho họ hiểu sai về con đường độc lập dân


16

tộc gắn với CNXH của nước ta. Song trên tinh thần của một đảng viên, lại là bí thư
chi bộ, tơi đã mạnh mẽ tích cực đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái của

các thế lực thù địch. Cùng với cấp ủy và đảng viên trong chi bộ luôn tăng cường
công tác tuyên truyền cho quần chúng nhân dân hiểu rõ con đường độc lập dân
tộc gắn với CNXH của nước ta, các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của nhà nước… nhằm tạo chuyển biến về nhận thức và hành động trong
Đảng và trong nhân dân.
Mặt khác, là người cán bộ, người lãnh đạo bản thân tôi phải thường xuyên
học tập nâng cao trình độ mọi mặt, phát triển năng lực chuyên môn đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn công việc. Bên cạnh đó, khơng ngừng nâng cao trình độ lý
luận chính trị, triển khai thực hiện việc đấu tranh ngăn ngừa, đẩy lùi sự suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển
hóa trong nội bộ đảng với tinh thần của đảng viên “dám nghĩ, dám nói, dám làm,
dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong
hành động vì lợi ích chung’’ [tr.243]. Đồng thời dự báo sát, chủ động và nắm
chắc tình hình tư tưởng, kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận đặc biệt là
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tronng chi bộ và của công ty để đảm bảo
được sự thống nhất, đồng thuận cao trong tập thể công ty và xã hội.
Phần III. KẾT LUẬN
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực như ngày nay, với kết
quả thành tựu sau hơn 35 năm đổi mới và nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta tin tưởng chúng ta sẽ xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong bất luận hồn cảnh nào thì độc lập
dân tộc đi lên CNXH, độc lập dân tộc gắn với CNXH vẫn là nhu cầu, là con đường
sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


17

1. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2000) Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính
trị quốc gia. Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị
quốc gia. Hà Nội. 2002.
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 1996.
5. Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2000.
6. Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2000.
7. Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000.
8. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị, mơn Lịch sử Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia.
9. Lênin toàn tập, tập 36, NXB Tiến Bộ, Năm 1977.



×