1
Nhận thức về nhân cách người cha của trẻ chưa
thành niên phạm pháp trường giáo dưỡng số 2
Ninh Bình
Lê Thu Trà
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn; Khoa tâm lý học
Chuyên ngành: Tâm lý học; Mã số: 60.31.80
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Minh Hằng
Năm bảo vệ: 2011
Abstract. Nghiên cứu các vấn đề lý luận và phương pháp luận về nhận thức khái niệm
nhận thức, trẻ vị thành niên phạm pháp (khái niệm, các đặc điểm tâm sinh lý…). Nghiên
cứu nhận thức của trẻ trong trường giáo dưỡng về nhân cách người cha và các yếu tố ảnh
hưởng tại Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đưa ra một
số gợi ý đối với nhà trường giáo dưỡng, gia đình và đối với các em học sinh trường giáo
dưỡng về việc giáo dục trẻ chưa thành niên phạm pháp.
Keywords. Trẻ vị thành niên; Phạm tội; Nhân cách; Tâm lý học
Content.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Trong những năm gần đây tình hình phạm pháp hình sự nói chung có nhiều diễn biến phức tạp.
Trước tình hình chung đó tội phạm của người chưa thành niên cũng không tách khỏi quy luật
chung của tội phạm hình sự. Diễn biến về tội phạm của người chưa thành niên trong những năm
qua cũng hết sức phức tạp, tăng cả số lượng, tính chất và mức độ nghiêm trọng.
- Trong mỗi gia đình, hình ảnh người cha, người mẹ có tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm
nguyện vọng, suy nghĩ của trẻ, đặc biệt là người cha với nhân cách và phẩm chất của mình có tác
động rất lớn. Quyền uy chỉ có ở người cha là một cơ chế giúp trẻ tự điều chỉnh hành động của
mình.
- Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều cá nhân và tổ chức xã hội quan tâm nghiên cứu đến vấn đề gia
đình của trẻ phạm tội, tuy nhiên các nghiên cứu về sự nhìn nhận của trẻ về nhân cách người cha
còn chưa được nghiên cứu nhiều. Trong khi đó, nhận thức của trẻ về nhân cách người cha hết sức
có ý nghĩa bởi đây là yếu tố quyết định mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện của trẻ, là cơ sở định hướng cho những hành động của trẻ.
2.Mục đích nghiên cứu
2
Tìm hiểu nhận thức về nhân cách người cha và các yếu tố ảnh hưởng đến sự nhận thức về nhân
cách người cha của trẻ trong trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và phương pháp luận về nhận thức khái niệm nhận thức, trẻ vị
thành niên phạm pháp (khái niệm, các đặc điểm tâm sinh lý…) làm công cụ cho quá trình nghiên
cứu.
- Nghiên cứu nhận thức của trẻ trong trường giáo dưỡng về nhân cách người cha và các yếu tố
ảnh hưởng
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đưa ra một số gợi ý về việc giáo dục trẻ chưa thành niên phạm
pháp.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Nhận thức về nhân cách người cha của trẻ trong trường giáo dưỡng.
5. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ em phạm pháp (độ tuổi 12 – 18 tuổi trong trường giáo dưỡng).
6. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu nhận thức về nhân cách người cha của trẻ em trong trường giáo
dưỡng ở ba mặt:
+ Về đạo đức
+ Về mặt tình cảm
+ Về mặt ý chí, uy quyền.
- Về khách thể nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu trẻ phạm pháp đang sống và học tập trong
trường giáo dưỡng số 02 Ninh Bình.
7. Giả thuyết khoa học
- Nhận thức về nhân cách của người cha của trẻ có nhiều nét thiếu tích cực. Nhận thức này có
ảnh hưởng đến lòng yêu quí, kính trọng của trẻ dành cho cha và ảnh hưởng một phần đến hành
động phạm tội của trẻ.
- Nhận thức về nhân cách người cha của trẻ trong trường giáo dưỡng số 02 Ninh Bình có chịu
ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố: thái độ của các thành viên trong gia đình đối với người cha, thái
độ của những người xung quanh đối với người cha, hoàn cảnh gia đình, mức độ tình cảm mà người
cha thể hiện với trẻ.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra bằng bằng hỏi:
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
3
- Phương pháp xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 16.0
- Phương pháp hoàn thiện câu
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của đề đề tài
1.1. Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề trẻ em phạm tội với những đặc trưng tâm lý, nhân cách đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu. Theo David P.Farrington (1996), tính hiếu động và tính hay bốc đồng là những nét tính
cách quan trọng nhất của trẻ giúp cho việc phán đoán khả năng phạm tội sau này. Ông đã tiến hành
điều tra tại Thụy Điển cho thấy, các em học sinh bị giáo viên nhận xét là hiếu động ở độ tuổi 13 thì
thường phạm các tội có sử dụng bạo lực cho đến độ tuổi 26. Ngoài ra ông còn tiến hành nghiên
cứu trí tuệ của trẻ chưa thành niên phạm tội. Cuộc điều tra ở Thụy Điển cho thấy, trẻ được kiểm tra
nếu thiểu năng trí tuệ lúc 3 tuổi thì sẽ có nguy cơ phạm tội cao cho tới độ tuổi 30. Nghiên cứu ở
Cambridge cho thấy trẻ có điểm IQ nhỏ hơn 90 trong độ tuổi từ 8-10 tuổi có tỷ lệ phạm tội cao gấp
đôi các em khác.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của mình, nhà tâm lý học tội phạm người Nga A.I Đongova đã
đưa ra nhận định rằng, những người chưa thành niên phạm tội thường có tính phô trương, khoe
khoang, trưng bày phẩm chất tiêu cực thiếu lành mạnh của mình, làm ra vẻ anh hùng rơm… Chúng
thường thỏa hiệp với những nét tính cách của mình như: Sống không có lý tưởng, hoài bão, dễ chịu
ảnh hưởng tiêu cực từ những người khác, thiếu tính điềm đạm, bình tĩnh mà chỉ quen ăn chơi, đàng
điếm, lười biếng, nghiện
Theo các nhà tâm lý tội phạm Nga, ở người chưa thành niên phạm tội cũng như những người
chưa thành niên bình thường thì các quan điểm pháp luật , nhận thức pháp luật không được hình
thành hoặc bị lệch lạc. Điều này tạo khả năng phát sinh hành vi không phù hợp với các qui định
của pháp luật.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của người chưa thành niên nói chung và người chưa thành niên có hành vi phạm tội nói riêng. Qua
các nghiên cứu cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn người chưa thành niên đến việc thực hiện
những hành vi phạm tội. Đó là nguyên nhân từ phía gia đình và nhóm bạn bè vẫn được xem là hai
yếu tố có ảnh hưởng lớn đối với hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Tiêu biểu cho quan
điểm này phải kể đến các tác giả như V.M Koromosikov, Margot Prior (2000), Rutter Giller (1983)
và Sarnecki (1985).
1.1.2. Các nghiên cứu trẻ em phạm tội ở Việt Nam
Tác giả Phạm Minh Đức (1981) đã tiến hành nghiên cứu 265 học sinh có hành vi
lệch chuẩn ở độ tuổi từ 10-17, học tại hai trường phổ thông công - nông nghiệp. Theo tác
giả các em học sinh phạm pháp nói chung phát triển bình thường về mặt trí tuệ nhưng do
động cơ học tập bị suy thoái, nhu cầu nhận thức thấp, nhu cầu tầm thường khác cao nên
dẫn đến hành vi phạm tội của các em.
4
Tác giả Nguyễn Xuân Thủy (1993) đã khẳng định rằng, người chưa thành niên phạm
tội về cơ bản cũng có những đặc điểm tâm lý như những trẻ em bình thường khác cùng lứa
tuổi. Song, do tiếp xúc thường xuyên với những điều kiện tiêu cực và trong quá trình phạm
tội mà nhân cách của các em bị giảm sút nghiêm trọng.
Theo tác giả Trần Trọng Thủy, ở phần lớn các thiếu niên phạm pháp, phẩm chất
tiêu cực chiếm ưu thế trong cấu trúc nhân cách, đó là: thiếu quyết tâm, vô trách nhiệm, hay
bắt chước một cách mù quáng, thô lỗ, gây gổ.
Trong quá trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Duy Xi là một nhà tâm lý
học làm công tác quản lý trại giam của Bộ Công An đã đưa ra một số nhận xét cơ bản về
đặc điểm tâm lý của trẻ em làm trái pháp luật như sau:
- Về trí tuệ, ở trẻ làm trái pháp luật có sự phát triển chậm, tư duy trừu tượng kém hơn trẻ
bình thường, không biết phân tích đánh giá đúng một số hiện tượng mà nặng về tư duy cụ
thể thực dụng và rất khéo léo “mưu trí” trong thực hiện hành vi trái pháp luật như kỹ xảo
ăn cắp, móc túi, che dấu, đối phó với sự theo dõi phát hiện của nhà chức trách”
- Về hứng thú, ham muốn của các em thường nặng về vật chất tầm thường, thấp hèn, thậm
chí kỳ quặc. Các em không còn hứng thú học tập, hiểu biết như trẻ bình thường, thích đua
đòi, ăn chơi như người lớn (có 82% nghiện thuốc lá, 70% uống bia rượu, 72% nghiện cafe,
chè.
- Về tình cảm, thiếu bền vững, thay đổi dễ dàng, nhanh chóng, nhưng lại mạnh mẽ. Tình
cảm có tính rung động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi nổi là đặc trưng cơ bản của tình
cảm ở trẻ em làm trái pháp luật.
- Về tính cách, nét tính cách đặc trưng là các em muốn vươn lên làm người lớn, muốn hoạt
động để thử sức và có xu hướng bắt chước cái xấu của người lớn. Có tính độc lập và tự
trọng cao, nên nếu bị chửi rủa, đánh mắng, xúc phạm thì các em thường có phản ứng quyết
liệt, chống trả lại hoặc nảy sinh tiêu cực bỏ nhà đi lang thang, tỏ ra bất cần đời.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc cùng các cộng sự Nguyễn Hải Khoát, Phạm
Thị Đức, Nguyễn Hồi Loan và tổ công tác của trường phổ thông Công nông nghiệp đi sâu
tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm pháp ở người chưa thành niên. Kết quả nghiên
cứu đã chỉ ra “ giao tiếp nhóm (có quan hệ trong nhóm bạn bè) có thể là nguyên nhân khá
cơ bản và rất trực tiếp đưa đứa trẻ tới hành vi phạm pháp, với những trẻ này, giao tiếp
nhóm không hướng trẻ vào hoạt động học tập mà hướng trẻ vào hoạt động nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đều khẳng định môi
trường gia đình không thuận lợi và nhóm bạn bè tiêu cực có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi
phạm tội của người chưa thành niên. Tuy nhiên những nghiên cứu về ảnh hưởng của gia
đình, của người cha tới hành vi phạm pháp của trẻ vị thành niên còn chưa nhiều. Vì vậy
5
việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng
như thực tiễn.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
* Khái niệm nhận thức
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng thống nhất với các hiểu nhận thức như sau:
“Nhận thực là một quá trình tâm lý phản ánh sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Quá trình này bao gồm nhiều mức độ khác nhau, thể hiện sự hiểu biết của con người về sự
vật, hiện tượng, làm cơ sở cho việc định hướng điều khiển và điểu chỉnh thái độ hành vi
của họ”.
* Khái niệm nhân cách
Trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi sử dụng khái niệm nhân cách như sau:
“Nhân cách là tổ hợp độc đáo hệ thống thái độ và các thuộc tính tâm lý điển hình của cá
nhân, được hình thành và phát triển thông qua hoạt động và giao lưu của người đó trong
các mối quan hệ xã hội mà họ gia nhập, tạo nên bộ mặt xã hội và qui định giá trị xã hội của
người đó”. Như vậy nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể cuả con
người mà là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên
bộ mặt tâm lý – xã hội, giá trị cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học đã được chứng minh, trong khuôn
khổ đề tài này,cấu trúc của nhân cách được xem xét theo các mặt cụ thể sau đây:
- Mặt đạo đức của nhân cách người cha:
+ Sự biểu thị thái độ đối với người khác
+ Sự biểu thị thái độ dối với lao động
+ Sự biểu thị đối với bản thân
- Mặt ý chí của nhân cách:
+ Tính mục đích: Cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự
giác.
+ Tính độc lập là phẩm chất ý chí cho phép con người quyết định hành động theo
những quan điểm riêng của mình.
+ Tính quyết đoán đó là khả năng đưa ra nhưng quyết định kịp thời, rất khoát trên
cơ sở tính toán cân nhắc kỹ càng chắc chắn.
+ Tính kiên cường nói lên cường độ của ý chí cho phép con người có những quyết
định đúng đắn kịp thời trong những hoàn cảnh khó khăn.
+ Tính dũng cảm khả năng sẵn sang nhanh chóng vươn tới mục đích bất chấp khó
khăn nguy hiểm.
6
+ Tính tự kiềm chế, tự chủ là khả năng và thói quen kiểm tra hành vi làm chủ bản
thân, kìm hãm những hành động cho là không cần thiết hoặc có hại trong trường hợp cụ
thể.
- Mặt uy quyền của nhân cách người cha:
+ Địa vị xã hội, khả năng làm trụ cột về kinh tế trong gia đình
+ Khả năng giải quyết các tình huống khó khăn trong gia đình
+ Tình yêu thương con cái, trách nhiệm với gia đình
+ Cách thức nuôi dạy, chăm sóc và giáo dục con cái phù hợp
+ Kiến thức phong phú, hiểu biết xã hội sâu rộng
+ Ứng xử tốt với mọi người xung quanh
+ Uy tín đối với con cái
+ Uy tín đối với những thành viên trong gia đình
+ Uy tín đối với những người xung quanh
* Khái niệm trẻ phạm tội và trẻ trong trường giáo dưỡng
Ở Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên phạm tội được hiểu “là người thuộc
lứa tuổi chưa thành niên có hành vi vi phạm vào các quy định của Bộ luật hình sự và họ
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo qui định của pháp luật hình sự
nước CHXHCNVN”.
Trong trường giáo dưỡng là nơi thực hiện biện pháp xử lý hành chính đối với
người chưa thành niên làm trái pháp luật, đối tượng được đưa vào trường giáo dưỡng gồm:
- Người đủ 12 tuổi đến 14 tuổi thực hiện hành vi của một tội phạm nghiêm trọng
trong quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người đủ 12 đến 16 tuổi thực hiện các hành vi của một tội phạm nghiêm trọng
quy định tại Bộ luật hình sự đã được chính quyền địa phương và nhân dân địa phương giáo
dục nhiều lần mà không chịu sửa chữa.
- Người đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần có hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực trật tự an toàn xã hội đã được chính quyền địa phương và nhân dân địa phương
giáo dục nhiều lần không tự sửa chữa.
7
CHƢƠNG 2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Các phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu về lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như:
vai trò của người cha đối với việc chăm sóc và giáo dục hình thành nhân cách của trẻ, tài
liệu về phương pháp giáo dục trẻ trong trường giáo dưỡng, các tài liệu về nhận thức…
2.1.2. Phương pháp điều tra bằng bằng hỏi:
Bảng hỏi chúng tôi đưa ra nhằm tìm hiểu nhận thức của học sinh trường giáo dưỡng
về nhân cách người cha nói chung và nhân cách người cha thực của các em. Ngoài ra,
chúng tôi còn tìm hiểu thông tin về chương trình giáo dục hoàn cảnh gia đình, mức độ quan
tâm của gia đình, thăm nom các em…
2.1.3. Phương pháp phân tích tranh vẽ
- Trắc nghiệm vẽ tranh về bố: Khi tiến hành phương pháp này, chúng tôi yêu cầu
“các em vẽ về người cha của mình”. Các em có thể vẽ bất kỳ những gì về cha mà mình
muốn. Sau đó dựa trên những biểu hiện của nội dung tranh vẽ về độ lớn, các chi tiết người,
về các các thành viên trong gia đình và cảnh vật mà các em vẽ thêm chúng tôi đưa ra một
số nhận xét về những khía cạnh nhận thức, cảm xúc về người cha của các em.
2.1.4. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tiến hành 2 lần:
- Giai đoạn 1: Phỏng vấn sâu một số trẻ em, cán bộ quản giáo, đọc tài liệu để xây
dựng một bộ bảng hỏi hợp lý.
- Giai đoạn: Sau khi đã có kết quả nghiên cứu bằng bảng hỏi và trắc nghiệm, chọn
một số ca điển hình để phỏng vấn sâu.
2.1.5. Phương pháp thống kê toán học
Số liệu của phần điều tra được xử lý bằng chương trình thống kê SPSS 16.0 với
các nội dung như: xử lý số liệu %, mã hóa lại các biến, tính hệ số tương quan.
2.1.6. Phương pháp hoàn thiện câu
Chúng tôi đưa ra các câu với mệnh đề chưa hoàn thiện để các em hoàn thiện các câu này.
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nhận thức về nhân cách ngƣời cha nói chung của trẻ vị thành niên phạm pháp
Trong môi trường gia đình, người cha đóng vai trò không thể thay thế trong việc rèn luyện đạo
đức lối sống, nhân cách cho trẻ. Nhận thức về nhân cách người cha nói chung được đề tài quan
tâm tìm hiểu ở các khía cạnh đạo đức, ý chí và uy quyền của người cha trong gia đình.
8
“Theo em, người bố có nhân cách là người như thế nào?” là câu hỏi đầu tiên mà bảng hỏi
đưa ra. Vì đây là câu hỏi mở về nhân cách người cha nói chung nên câu trả lời của các em cũng
khá đa dạng, phong phú thể hiện cách nhìn nhận nhân cách người cha ở nhiều khía cạnh của các
em.
- Theo em, người bố có nhân cách là người bố biết chăm sóc, thương yêu, quan tâm đến
gia đình (phiếu số 58)
- Theo em, người bố có nhân cách là người có nhân cách sống và là một điểm tựa cho gia
đình (phiếu số 123)
- Người bố có nhân cách là người biết tôn trọng mọi người trong gia đình, luôn luôn là
tấm gương cho con cái (phiếu số 53)
- Không đánh đập, chửi mắng, con cái sai thì bảo nhẹ nhàng, không rượu chè, cờ bạc, gái
gú, là một người đàn ông đứng đắn trong gia đình (phiếu số 87).
Bảng 1. Nhận thức của trẻ vị thành niên phạm tội về nhân cách ngƣời cha nói chung
STT
Các nội dung
SL
Tỉ lệ (%)
1
Là người bố có các biểu hiện về mặt đạo
đức
88
68,8
2
Là người bố có biểu hiện về mặt ý chí
19
14,8
3
Là người bố có biểu hiện về mặt uy quyền
42
32,8
Ghi chú: N = 128
Bảng số liệu 2 cho thấy nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về nhân cách người
cha có tỷ lệ lựa chọn không cao và không đồng đều ở từng nội dung cụ thể. Trong đó nội dung
được đề cập nhiều nhất là các biểu hiện về mặt đạo đức cũng chỉ trên 68% và thấp nhất là biểu
hiện về ý chí với 14,8%. Câu trả lời của các em thể hiện tập trung nhất ở các biểu hiện về mặt
đạo đức như chăm chỉ làm việc, yêu thương con cái, tôn trọng mọi người, không sa đà vào các tệ
nạn xã hội, thói hư tật xấu. Chính vì thế, mặt đạo đức có tỷ lệ lựa chọn cao nhất. Hai nội dung
còn lại là ý chí và uy quyền các em ít đề cập đến hơn.
Trong quá trình khảo sát, tiếp xúc với các em đang học tập tại trường Giáo dưỡng số 2
Ninh Bình, có thể nhận thấy nhận thức của các em học sinh tại đây về cuộc sống nói chung và về
nhân cách nói chung chưa có sự phong phú sâu sắc. Chính vì thế, để các em có thể hiểu tường
tận về nhân cách người cha là điều không thể. Rất có thể đó cũng là lý do khiến câu trả lời về
nhân cách người cha nói chung chưa phong phú và có tỷ lệ không cao.
Để có thể cụ thể hóa nhận thức của trẻ về nhân cách người cha theo từng mặt như đã đề
cập ở trên, câu 2 trong bảng hỏi là: “Theo em, người bố có đạo đức là người như thế nào?”.
9
Cũng như câu hỏi trên, kết quả thu được từ câu hỏi này cũng khá đa dạng và thường thể hiện
nhận thức của trẻ ở các hành động, tình huống cụ thể. Dưới đây là một số câu trả lời của các em:
- Theo em, người bố có đạo đức là: khi nói chuyện phải có trên dưới và nói nhẹ nhàng,
không nói xấu người khác, và ăn nói rất khiêm tốn, nói chuyện thẳng thắn và đúng (phiếu
số 98)
- Theo em người bố có đạo đức là là người sống chan hòa, biết yêu thương gia đình, lịch
sự, nhã nhặn với mọi người trong gia đình, không dùng những hình phạt khi con cái mắc
lỗi (phiếu số 56).
- Là người luôn quan tâm, giúp đỡ và tôn trọng mọi người xung quanh và luôn hướng về
một mục đích tốt (phiếu số 5)
- Người bố có đạo đức là người bố luôn thương yêu con, con làm sai bố không mắng chửi,
đánh đập mà bảo con rất nhẹ nhàng (phiếu số 18).
Nhằm đánh giá được chính xác hơn nữa nhận thức của các em học sinh trường Giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình về đạo đức người cha, câu trả lời của các em được thống kê và phân chia
thành từng khía cạnh cụ thể trong mặt đạo đức. Dưới đây là bảng số liệu từ những nội dung này:
Bảng 2. Nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về đạo đức ngƣời cha
STT
Các biểu hiện mặt đạo đức ở ngƣời cha
SL
TL
1
Có thái độ tích cực, tôn trọng mọi người xung quanh
41
33,6
2
Có thái độ tích cực, tình yêu với lao động, công việc
2
1,6
3
Tôn trọng chính bản thân mình
0
0
4
Luôn dạy con cái điều hay lẽ phải
28
23
5
Luôn làm những việc tốt cho mọi người xung quanh
31
25,4
6
Luôn cư xử có văn hóa
55
41,5
Ghi chú: N = 122
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy các nội dung thể hiện nhận thức của trẻ về đạo đức
người cha có sự phân hóa rõ nét.
Trong số 6 nội dung thể hiện các mặt biểu hiện đạo đức của người cha, hai nội dung có
tỷ lệ lựa chọn cao nhất là “luôn cư xử có văn hóa” – 45,5% và “có thái độ tích cực, tôn trọng mọi
người xung quanh” – 33,6%. Trong các câu trả lời của trẻ khi nói về mặt đạo đức của người cha,
các em thường đề cập đến các nội dung thể hiện văn hóa ứng xử như không nói tục, đánh đập vợ
con, cư xử đúng mực, phân tích điều hay lẽ phải cho mọi người… Có thể nói, trong quan niệm
10
của các em học sinh trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đạo đức trước tiên thể hiện ở những cách
hành xử có văn hóa trong chính cuộc sống của mình. Qua đó cũng có thể thấy được nhận thức
của các em về mặt đạo đức thường thể hiện trước tiên ở những biểu hiện cư xử có thể quan sát,
cảm nhận trực tiếp hàng ngày. Điều này cũng phản ánh đặc điểm nhận thức của các em về đạo
đức nói riêng và nhân cách người cha nói chung còn chưa có sự sâu sắc, đầy đủ.
Từ sự phân tích nhận thức của trẻ em phạm pháp trong trường Giáo dưỡng số 2 Ninh
Bình, có thể thấy nhận thức của các em về đạo đức còn đơn giản, cảm tính. Điều đó một mặt thể
hiện trong việc các nội dung các em trả lời không có tỷ lệ cao, mặt khác thể hiện trọng việc các
em quan niệm đạo đức chủ yếu từ những nội dung, hành vi ứng xử có thể quan sát, cảm nhận
trực tiếp hàng ngày. Để có cái nhìn chính xác đầy đủ hơn nữa nhận thức của các em về nhân
cách người cha nói chung, cần tiếp tục tìm hiểu quan nhận thức của các em về mặt ý chí và uy
quyền của người cha.
Bảng 3. Đặc điểm nhân cách quan trọng nhất ở ngƣời cha nói chung theo đánh giá
của học sinh trƣờng giáo dƣỡng số 2 Ninh Bình
STT
Các mặt trong nhân cách ngƣời cha
SL
TL
1
Đạo đức
53
51,5
2
Ý chí
12
11,7
3
Uy quyền
38
36,9
Tổng
103
100
Biểu đồ 1. Đánh giá của học sinh trƣờng giáo dƣỡng về mặt quan trọng nhất trong
nhân cách ngƣời cha
Qua bảng số liệu và biểu đồ có thể thấy trong nhân cách người cha nói chung, các em
học sinh trường giáo dưỡng đánh giá cao nhất mặt đạo đức chiếm 51,5% câu trả lời của các em.
Kết quả nghiên cứu từ câu hỏi 1 trong bảng hỏi đã chỉ ra đa số các em coi nhân cách người cha
51.5
11.7
36.9
Đạo đức
Ý chí
Uy quyền
11
thể hiện ở mặt đạo đức, hành vi cư xử có văn hóa với mọi người xung quanh và ở câu hỏi 5 này,
một lần nữa lại thấy được các em đánh giá cao mặt đạo đức trong nhân cách người cha.
Mặt uy quyền có tỷ lệ câu trả lời xếp vị trí thứ 2 với 36,9 và 11,7% các em học sinh trả
lời câu hỏi này nêu lên các đặc điểm của ý chí là quan trọng nhất với một người cha.
Nói tóm lại, thông qua việc phân tích nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp trường
Giáo dưỡng số 02 Ninh Bình về nhân cách người cha nói chung, có thể thấy trong quan niệm của
các em, nhân cách người cha gắn liền với những hành vi đạo đức, trách nhiệm và tình yêu
thương với con cái. Điều đó một lần nữa được nhấn mạnh thêm khi các em cho rằng mặt quan
trong nhất trong nhân cách người cha là đạo đức có tỷ lệ trả lời cao nhất.
3.2. Nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về nhân cách ngƣời cha thực của
mình
Nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về nhân cách người cha thực của các em thể
hiện trong các mặt đạo đức, ý chí, uy quyền của người cha. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận
thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về nhân cách người cha thực của mình nhìn chung là rất
tích cực. Điều đó thể hiện ở các nội dung thể hiện đánh giá cao nhân cách người cha đều có điểm
số đánh gia rất cao, ngược lại, với các nội dung thể hiện nét tiêu cực trong nhân cách người cha
đều có điểm số đánh giá thấp. Xin lấy một bảng số liệu về nhân cách người cha thực qua nhận
thức của các em làm ví dụ minh họa:
Bảng 4. Nhận thức về ý chí ở ngƣời bố thực của trẻ vị thành niên phạm pháp
STT
Các biểu hiện ý chí của ngƣời cha
ĐTB
ĐLC
Xếp
hạng
1
Bố thường đề ra những kế hoạch cụ thể
2.34
0.63
8
2
Bố thường nhắc em khi làm việc gì cũng có
mục đích cụ thể
2.68
0.57
1
3
Khi có người khuyên bố em thay đổi quyết
định, bố em nghe theo ngay
1.62
0.57
10
4
Khi giải quyết mọi việc, bố em thường dò hỏi ý
kiến mọi người rồi mới quyết định
2.40
0.71
6
5
Không ai thay đổi được ý kiến bố em
1.93
0.74
9
6
Khi gặp những tình huống khó khăn, bố em
luôn đưa ra được cách giải quyết phù hợp nhất
2.47
0.60
5
7
Bố thường không tự quyết định được vấn đề gì
cả
1.33
0.62
12
8
Khi làm công việc gì bố em luôn cố gắng hoàn
thành đến cùng
2.63
0.63
3
12
9
Bố thường không quyết định được vấn đề gì cả
1.24
0.55
14
10
Đang thực hiên công việc mà gặp khó khăn, bố
thường bỏ dở không làm tiếp
1.32
0.52
13
11
Bố rất nóng nảy và hay xung đột với mọi người
1.38
0.59
11
12
Khi có mâu thuẫn với người khác, bố luôn bình
tĩnh để tìm cách giải quyết
2.53
0.67
4
13
Bố thường quyết tâm đạt được điều mình muốn
đến cùng cho dù điều đó có hại cho người khác
1.23
0.54
15
14
Bố thường tự kiểm tra lại hành vi của mình xem
đúng hay sai
2.35
0.72
7
15
Bố dũng cảm đương đầu với khó khăn
2.65
0.59
2
Từ bảng số liệu trên có thể thấy các nội dung thể hiện những phẩm chất ý chí của người
bố thực đều nằm trong nhóm có ĐTB cao, trong khi đó những phẩm chất tiêu cực, thiếu ý chí
đều có điểm số đánh giá thấp. Để có sự đánh giá khách quan và khái quát về các phẩm chất ý chí
của người bố thực, đề tài tiến hành tính ĐTB chung của các phương án có STT:1, 2, 6, 8, 12, 14,
15. Đây là các nội dung thể hiện rõ nét các phẩm chất ý chí trong nhân cách người cha. Kết quả
ĐTB chung các phương án này là: 2,52.
3.3. Một vài yếu tố ảnh hƣởng tới nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về nhân cách
ngƣời cha của mình
Nhận thức của trẻ vị thành niên phạm pháp về nhân cách người cha của mình là một quá
trình. Quá trình nhận thức đó được hình thành dần trong chính quá trình giao tiếp, hoạt động
cùng nhau của trẻ và bố. Quá trình nhận thức đó cũng chịu sự chi phối ảnh hưởng của các yếu tố
như sự nhận xét, thái độ xung quanh của mọi người dành cho người bố của các em.
Bảng 5. Nguồn thông tin các em học sinh trƣờng giáo dƣỡng biết về bố của mình
STT
Nguồn thông tin
SL
TL
1
Tự nhận thấy
102
78.5
2
Do mẹ nói
15
11.5
3
Do những người xung quanh nói
18
13.8
4
Nguồn thông tin khác
2
1.5
Kết quả nghiên cứu thể hiện ở bảng số liệu và biểu đồ trên cho thấy nhận thức của trẻ vị
thành niên phạm pháp về bố của mình chủ yếu là do bản thân các em tự nhận thấy trong quá
13
trình tiếp xúc, hoạt động cùng với người bố. Có thể nói, trong quá trình giao tiếp, hoạt động
cùng nhau giữa người với người nói chung và giữa bố và con nói riêng luôn có sự tác động, nhận
thức lẫn và đây là nguồn thông tin trực tiếp đầy đủ nhất để mọi người có thể hiểu biết lẫn nhau.
Vì thế, trong phần trả lời của mình 78,5% các em học sinh trường giáo dưỡng đã cho biết nhận
thức về người bố của các em là do tự nhận thấy. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu ở
những phần trước khi các em cho rằng đạo đức của người cha biểu hiện ở những hành vi rất cụ
thể mà các em có thể quan sát và cảm nhận trực tiếp.
3.4. Phân tích một số trƣờng hợp đƣợc phỏng vấn sâu tại Trƣờng Giáo dƣỡng số 02 Ninh Bình
Trong quá trình điều tra, hướng dẫn các em học sinh làm phiếu hỏi, nhìn chung các em nói năng
lễ phép, làm phiếu hỏi nghiêm túc và thường lấy tay che phiếu không để bạn của mình nhìn, đọc
được câu trả lời của các em. Có một số em tỏ ra rụt rè e ngại, không muốn bộc lộ nhiều. Chúng
tôi đã tiếp cận và phỏng vấn sâu đối với một số trường hợp này.
Trường hợp 1: Em Đ.M.H
- Một số thông tin chung:
Em H 16 tuổi, là con thứ hai trong gia đình, trên em có một anh trai. Bố làm nghề kinh
doanh tự do, mẹ là công nhân xí nghiệp.
Gia đình em có truyền thống học tập, tu dưỡng. Bố mẹ không có tiền án, tiền sự. Tình
trạng hôn nhân của bố mẹ bình thường, kinh tế gia đình khá giả.
Lý do vào trường: Trước đây em học trường Nguyễn Trãi. Em thường tụ tập, ăn chơi
cùng bạn bè (đi bar, nhà hàng, thuốc lắc…). Số tiền chi tiêu lên tới 2 triệu đồng/ ngày. Tháng 4 –
2011 em lấy xe của chị đi cầm đồ. Sau đó có xảy ra xô xát với hiệu cầm đồ gây mất trật tự an
ninh vì thế em được đưa vào trường giáo dưỡng với thời gian 2 năm.
Qua bức tranh em vẽ, có thể thấy được trong đó sự sum vầy, vui vẻ của các thành viên
trong gia đình: mẹ và con ra đón bố khi đi làm về, bố mua quà cho con, bế con, người bố được
em đưa vào giữa bức tranh cho thấy hình ảnh người bố luôn hiện lên một cách tích cực trong em.
Nền của bức tranh được tô màu hồng phản ánh sự ấm áp, hạnh phúc gia đình khi các thành viên
trong gia đình đoàn tụ. Hình ảnh người con trong bức tranh được em vẽ khá nhỏ phản ánh bản
thân em đang có những lo lắng bất án, sợ mọi người không chấp nhận khi học xong, không yên
tâm với tương lai của bản thân. Theo vào đó, hình ảnh bản thân em trong tranh được vẽ khá nhỏ,
đòi bố mua quà cho thấy em có sự tự ti và thoái lùi so với độ tuổi của mình.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trẻ em phạm tội là vấn đề được quan tâm nghiên cứu rộng rãi cả trong và ngoài nước ở
các nhiều góc độ và chuyên ngành khác nhau như tâm lý học, xã hội học. tội phạm học… Riêng
trong lĩnh vực tâm lý học, vấn đề trẻ em phạm tôi đã được quan tâm tìm hiểu từ nhiều góc độ và
trường phái khác nhau như hành vi, phân tâm học, lịch sử văn hóa, nhận thức xã hội, môi trường
sinh thái… Trên cở sở cách tiếp cận nhân cách người cha thể hiện ở ba góc độ đạo đức, ý chí và
14
uy quyền, đề tài được tiến hành tìm hiểu nhận thức của các em học sinh trường giáo dưỡng số 02
Ninh Bình về nhân cách người cha nói chung và người cha thực của các em.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn cho thấy nhận thức của các em về nhân cách người cha nói
chung còn chưa có sự đầy đủ, sâu sắc. Điều đó thể hiện ở việc các em chủ yếu coi nhân cách
người cha thể hiện ở khía cạnh đạo đức như ứng xử tốt với người xung quanh, yêu thương con
cái… Trong khi mặt ý chí và uy quyền ít được các em hiểu biết đầy đủ hơn.
Trên cơ sở kết quả trên, đề tài tìm hiểu nhân cách người cha thực của các em học sinh
trường giáo dưỡng. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của các em về nhân cách người cha
thực là khá tích cực. Các biểu hiện về mặt đạo đức, ý chí hay uy quyền người cha thực của các
em đều thể hiện là một người cha mẫu mực, hết lòng yêu thương con cái, là hiện thân của ý chí,
tính trách nhiệm, trụ cột trong gia đình… Số liệu được cung cấp từ nhà trường nơi các em theo
học cũng cho thấy đa số các em đều xuất thân từ gia đình bố mẹ lương thiện, thương yêu con cái.
Kết quả nghiên cứu từ các phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân, vẽ tranh cũng đem lại kết quả
tương tự. Điều đó có thể giải thích bằng việc các em học sinh được học tập trong nhà trường
giáo dưỡng dần được tiếp thu tri thức, học hỏi các bài học về giá trị của gia đình, tình yêu
thương con cái của cha mẹ từ đó giúp các em dần nhận ra những tình cảm mà bố mẹ dành cho
các em, nhận ra sự vất vả của bố mẹ để nuôi các em nên người dù có thể trong hoàn cảnh nhất
định, không phải lúc nào bố của các em cũng là người tuyệt đối hoàn hảo.
2. Kiến nghị
Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn của đề tài, có thể rút ra một số kiến nghị như sau:
Đối với nhà trường giáo dưỡng:
- Tăng cường giáo dục các giá trị về gia đình như tình yêu thương con cái của cha mẹ, sự
thiêng liêng của đoàn tự, hạnh phúc gia đình để các em có thể nhận thức đầy đủ hơn về nhân
cách và sự hi sinh, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái.
-Trong từng bài học, từng công việc cụ thể, cần khơi dậy ở các em học sinh những tình cảm
tích cực với cha mẹ. Đây là tình cảm thiêng liêng trong mỗi con người dù có thể bị những tác
động bên ngoài làm cho nó chưa bộc lộ hoặc các em chưa nhận thức đẩy đủ.
-Trong môi trường giáo dưỡng, cần chú ý đến tính đặc thù của từng em học sinh về tính
cách, hoàn cảnh gia đình để có thể hiểu và giúp đỡ các em được nhiều hơn trong rèn luyện, học
tập.
-Nhìn nhận bản thân các em học sinh như một nhân cách tích cực, yêu thương gia đình, bố
mẹ tránh việc áp đặt, thành kiến với các em về những hành động chưa đúng trước kia, từ đó
gây nên ở các em sự mặc cảm, không tự tin với những gì các em đã gây ra trong quá khứ và khó
khăn trong hòa nhập lại với gia đình, xã hội.
-Các em học sinh trường giáo dưỡng thường có biểu hiện tâm lý như ân hận về những gì
mình đã làm, cảm thấy xấu hổ, không xứng đáng với cha mẹ, lo lắng cho tương lai của bản thân
khi ra trường nhất là sợ dư luận xã hội không chấp nhận các em… Vì thế, các giáo viên công tác
tại trường giáo dưỡng cần nắm bắt tâm tư của các em, đóng vai trò là người tham vấn cho các
15
em trong những lúc khó khăn về tâm lý nhằm giúp các em yên tâm trong học tập và tự tin hơn
khi được tái hòa nhập với công đồng.
2.2. Đối với gia đình
-Trong giáo dục con cái, bố mẹ các em học sinh tránh việc thể hiện tình yêu, sự quan tâm
đến con cái bằng việc nuông chiều hoặc cấm đoán con quá mức từ đó dễ dẫn đến hành động cực
đoan của con cái, tìm cách thoát ra khỏi bố mẹ hoặc ỷ lại, không có chí tiến thủ thui chột đi ý chí
và động lực vươn lên trong cuộc sống.
-Mỗi cha mẹ là tấm gương tốt về đạo đức, lối sống để con cái noi theo. Đây là khía cạnh cực
kỳ quan trọng trong rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con cái.
-Các bậc cha mẹ không vì bận rộn với công việc, kiếm tiền mà quên đi việc quan tâm đến
con cái. Tránh tình trạng đến khi công an và các cơ quan chức năng thông báo mới biết con mình
có những hành động vi phạm pháp luật.
2.3. Đối với các em học sinh trường giáo dưỡng
-Tích cực học tập, rèn luyện để trở thành người công dân có ích cho xã hội, mang lại hạnh
phúc, niềm vui cho cha mẹ của các em.
-Giao lưu với bạn bè là hoạt động không thể hiểu trong độ tuổi của các em, tuy nhiên các em
cần sáng suốt để có thể lựa chọn những người bạn tốt, tham gia tích cực vào các câu lạc bộ thể
thao, các hoạt đông đoàn thể… nhằm tránh xa các tệ nạn xã hội.
-Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cha mẹ vì độ tuổi các em kỹ năng, hiểu biết cuộc sống
chưa sâu sắc dễ rơi vào những tình huống, hành động mà các em không thể lường trước.
References.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Nguyễn Ngọc Bích, Tâm lý học nhân cách, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2000
2) Nguyễn Văn Đồng, Tâm lý học phát triển, NXB Chính trị Quốc Gia, 2001
3) PGS.TS Trần Thị Minh Đức, NXB Khoa học và kỹ thuật
4) GS.VS Phạm Minh Hạc, Cách tiếp cận nghiên cứu tâm lý học nhân cách, Bài giảng, Tạp
chí tâm lý học tháng 2/2004
5) Nguyễn Thị Hoa, Một số đặc điểm tâm lý có nguy cơ dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ
vị thành niên, Luận án tiến sỹ tâm lý học 2004
6) Phan Trọng Ngọ - Nguyễn Đức Hướng, Các lý thuyết phát triển tâm lý người, NXB
Đại học Sư phạm, 2003
7) Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, Mối tương quan giữa biểu tượng về uy quyền người cha và kỹ
năng giải quyết xung đột trong cuộc sống đời thường ở trẻ sống vắng cha, Luận văn thạc
sỹ khoa học tâm lý, 2007
16
8) Nguyễn Ngọc Phú, Lịch sử tâm lý học, NXB đại học Quốc Gia, 2004
9) Petrovxki A.V, Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, NXB giáo dục, 1982
10) Maurice Porot, Trẻ em và các mối quan hệ gia đình, Người dich: Đạm Thư, Trung tâm
N-T, 1993
11) Jonh W. Santrock, Tìm hiểu về thế giới tâm lý của tuổi vị thành niên, NXB Phụ nữ, 2004
12) Phạm Minh Thạc, Con cái và cha mẹ ngày nay, NXB Đại học Quốc Gia, 2003
13) Chu Bích Thu – Nguyễn Ngọc Trâm, Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP Phương
Đông, 2008
14) Nguyễn Xuân Thủy, Phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm của người chưa thành niên
trong điều kiện ngày nay ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, 1997
15) Trần Trọng Thủy, Khoa học chuẩn đoán tâm lý, NXB giáo dục, 1992
16) Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả, Tội phạm ở Việt Nam – thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp, Đề tài nghiên cứu của Bộ nội vụ - tổng cục cảnh sát, NXB Công an nhân dân,
2000
17) Mạc Văn Trang, Giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh nhỏ, NXB giáo dục, 1983
18) Nguyễn Quang Uẩn – Nguyễn Văn Lũy – Đinh Văn Vang, Giáo trình tâm lý học đại
cương, NXB Đại học Sư phạm, 2003
19) Nguyễn Khắc Viện ( chủ biên), Từ điển tâm lý, NXB Văn hóa thông tin, 2001
20) Người chưa thành niên phạm tội và các giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát
nhân dân trong tình hình hiện nay, Nghiên cứu của vụ quản lý khoa học và công nghệ -
bộ công an, NXB công an nhân dân, 2004
21) Công ước liên hiệp quốc về quyền trẻ em, NXB Chính trị Quốc Gia, 2003
22) Viện ngôn ngữ học, Từ điển Anh – Việt, NXB TP Hồ CHí Minh, 1995