Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Đảng Cộng sản cầm quyền Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.58 KB, 49 trang )

“Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng
trong giai đoạn hiện nay”

Lời mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản cầm quyền – Một số vấn đề
lý luận:
1.1. Đảng chính trị:
1.2. Đảng cầm quyền:
1.3. Đảng Cộng sản cầm quyền:
1.3.1. Đảng Cộng sản và cách mạng giành chính quyền:
1.3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền:
1.3.3. Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng:
1.3.3.1. Nội dung cầm quyền:
1.3.3.2. Phương thức cầm quyền của Đảng:
Chương 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng:
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản cầm quyền:
2.1.1. Lý luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản cầm
quyền:
2.1.2. Nội dung cầm quyền:
2.1.3. Phương thức cầm quyền:
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng và
xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh:
2.2.1. Về phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền:
2.2.1.1. Đảng lãnh đạo nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội:
2.2.1.2. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện Đảng cầm
quyền:
2.2.2. Về xây dựng một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh:

1




2.2.2.1. Đảng đó phải bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong xây
dựng đường lối, chiến lược và sách lược:
2.2.2.2. Xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ
trong mỗi giai đoạn cách mạng:
2.2.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới:
Chương 3: Những giải pháp đổi mới nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng:
3.1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội:
3.1.1. Cơ cấu lại nhân sự Quốc hội:
3.1.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động lập pháp:
3.1.3. Thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội:
3.1.4. Tổ chức lại Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp:
3.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ:
3.2.1. Nhất thể hóa một chức danh quyền lực giữa Đảng và Nhà nước để tạo
điều kiện cho Chính phủ hoạt động một cách thông suốt và hiệu quả:
3.2.2. Sắp xếp lại hệ thống các Ban Cán sự Đảng trong Chính phủ:
3.2.3. Đổi mới cách thức bố trí nhân sự của Chính phủ:
3.3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Tư pháp:
3.3.1. Thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp:
3.3.2. Về sự phối hợp giữa các cơ quan thuộc khối nội chính trong quá trình
điều tra, xét xử:
3.4. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội:
3.5. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền địa phương các
cấp:
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


2


Lời mở đầu
Trong thế giới hiện đại, sự hoạt động của các đảng chính trị nói chung và các
đảng cầm quyền nói riêng có một ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với đời sống
chính trị ở mỗi quốc gia. Cách thức cầm quyền và tham dự vào đời sống chính trị
của mỗi đảng có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả lãnh đạo chính trị của đảng đó.
Ở nước ta, ngay từ khi ra đời, Đảng đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, trở thành nhân tố quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Nhưng phải đến sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
Đảng ta mới trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Sự cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định là một nguyên
tắc hoạt động cơ bản, là trụ cột của cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị, là
điều kiện bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Hệ thống thể chế đảng
lãnh đạo và cầm quyền đó được Đảng ta quan tâm xây dựng ngay từ khi nắm chính
quyền và từng bước được bổ sung để đáp ứng các nhiệm vụ chính trị ở từng giai
đoạn cách mạng.
Từ khi cơng cuộc đổi mới được tiến hành đến nay, cùng với những đổi mới
trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, thì nội dung và phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng cũng có sự thay đổi. Đảng và các tổ chức Đảng ngày càng quy định
đúng hơn và tôn trọng vai trò của các cơ quan nhà nước, xác định rõ hơn, nội dung,
phạm vi lãnh đạo của đảng đối với nhà nước. Tuy có những bước tiến quan trọng,
song những đổi mới về nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng vẫn chưa đáp
ứng được những yêu cầu đặt ra. Sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế và bất cập, làm giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý
của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân.
Về mặt lý luận, vần đề Đảng cầm quyền và sự cầm quyền của Đảng cộng sản
trong điều kiện Nhà nước pháp quyền còn nhiều mặt chưa được làm rõ. Cần phải

thẳng thắn thừa nhận rằng, chúng ta còn lúng túng về mặt lý luận, lúng túng trong
nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng. Nội dung cầm quyền của Đảng là gì?
Phương thức cầm quyền như thế nào? phạm vi quyền lực đến đâu để không trái với
nguyên tắc pháp quyền và không đi ngược lại với quyền tự do, dân chủ của nhân
3


dân… vẫn là những câu hỏi còn nhiều tranh luận giữa các nhà nghiên cứu cũng như
các hoạt động chính trị thực tiễn.
Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân ở nước ta hiện nay thì yêu cầu đổi mới về nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng ngày càng trở nên cấp thiết. Câu hỏi được đặt ra là nội dung và
phương thức cầm quyền của Đảng cần được xác định như thế nào để không trái với
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, không trái với nguyên tắc toàn bộ quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân.
Trước những đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn nêu trên, việc làm rõ
những luận cứ khoa học về Đảng Cộng sản cầm quyền, về nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng trong bối cảnh hiện nay và đưa ra được những phương hướng,
những giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng là yêu cầu
hết sức cấp thiết. Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản cầm
quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện
nay” làm tiểu luận môn học.
Chương 1: Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản cầm quyền – Một số vấn đề
lý luận:
1.1. Đảng chính trị:
Trong thế giới hiện đại, các đảng chính trị tồn tại dưới các hình thức rất
phong phú và đa dạng. Tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể đưa
ra những định nghĩa khác nhau về đảng chính trị.
Nhà nghiên cứu người Pháp M.Duverger cho rằng, đảng là tổ chức của những
người tự nguyện, được lập ra để tranh cử vào các cơ quan công quyền.

Theo học giả người Mỹ Steffen, “đảng chính trị là một nhóm người được tổ
chức lại nhằm giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử, để giành quyền điều hành
chính phủ và quyết định chính sách cơng”. Định nghĩa này đúng với trường hợp của
Mỹ, nơi mà tổ chức của các đảng rất lỏng lẻo và các đảng đều có xu hướng thực
dụng hơn là nhấn vào vấn đề hệ tư tưởng và mục tiêu lớn nhất của các đảng là giành
phiếu bầu của cử tri để trở thành đảng cầm quyền.

4


Theo Anthony Down, trong nền chính trị dân chủ, mục đích duy nhất của một
đảng chính trị là giành quyền lực và quyền thực thi quyền lực nhà nước. Quan điểm
này xuất phát từ mục đích căn bản trước hết của các đảng chính trị là vấn đề chính
quyền. Nếu một đảng khơng đưa ra mục đích giành quyền lực nhà nước thì đảng đó
khó có thể lơi kéo được quần chúng ủng hộ. Và nếu trong một thời kỳ dài, đảng luôn
thất bại trong tranh cử, không thể giành được quyền lực thì đảng đó cũng có khả
năng mất dần những cử tri đó từng gắn bó với họ.
Trong từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Jay M.Shafrits cho rằng,
đảng chính trị là “một tổ chức tìm cách nằm quyền lực chính trị bằng cách bầu thành
viên của mình vào các cơ quan nhà ước, nhờ đó tư tưởng chính trị của họ có thể
được phản ánh trong các chính sách cơng cộng”.
Khác với quan niệm của các học giả phương Tây, quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin chỉ rõ bản chất giai cấp của các đảng chính trị, với tư cách là tổ chức
chính trị đại diện lợi ích giai cấp, thể hiện lợi ích cơ bản của giai cấp trong cương
lĩnh cũng như trong hoạt động của mình. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Để nhận rõ được
cuộc đấu tranh của các đảng, thì khơng nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử
thực sự của các đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc họ làm, chứ khơng phải là những
lời nói về bản thân họ, xem họ giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái
độ của họ như thế nào trong những vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các
giai cấp khác nhau trong xã hội: địa chủ, tư bản, nông dân, công nhân…”.

Tiêu biểu cho quan niệm về đảng chính trị theo quan điểm Mácxít Từ điển
Bách khoa triết học (Liên Xơ) định nghĩa: Đảng chính trị là tổ chức chính trị thể
hiện những lợi ích của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội, liên kết những đại
diện ưu tú nhất của giai cấp đạt tới những mục đích và lý tưởng nhất định.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng nhìn chung, chúng ta có
thể đưa ra một số đặc trưng nổi bật về đảng chính trị như sau:
- Là tổ chức chính trị đại diện cao nhất cho lợi ích của một giai cấp, một tầng
lớp, một nhóm, hoặc một lực lượng nào đó.
- Là các nhóm chính trị được tổ chức chủ yếu nhằm giành quyền lực nhà
nước.
5


- Là tổ chức chính trị của những người đồng chính kiến, quan điểm, mà trước
hết là các chính sách cơng.
Tuy nhiên, việc giải quyết lợi ích của đảng chính trị cũng khơng tách rời lợi
ích của dân tộc, quốc gia. Theo Ph.Ăngghen, một đảng chỉ có thể vương tới quyền
lực, thực thi được quyền lực, chừng nào trong quá trình thực hiện các lợi ích của
giai cấp thì đồng thời phải thực hiện các lợi ích của cộng đồng, xã hội ở mức độ
nhất định. Đảng phải biến ý chí của một bộ phận thành ý chí của cả dân tộc, quốc
gia. C.Mác cũng nhấn mạnh, thực hiện chức năng xã hội, lợi ích xã hội là cơ sở của
sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó cịn
thực hiện chức năng xã hội.
Mục tiêu của đảng chính trị trước hết là giành quyền lực nhà nước và sử dụng
quyền lực đó cho các mục tiêu lợi ích của đảng. Khi giành được quyền lực nhà
nước, đảng đó trở thành đảng cầm quyền. Ý chí của đảng cầm quyền trở thành ý chí
của chính quyền, ý chí của xã hội.
Trong xã hội dân chủ, đảng chính trị phải là đảng hợp pháp: được pháp luật
thừa nhận và được hoạt động theo khuôn khổ của pháp luật.
1.2. Đảng cầm quyền:

Theo cách phổ biến trên thế giới hiện nay, đảng cầm quyền (ruling party) là
đảng giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Trên cơ sở đó
đảng đứng ra thành lập chính phủ và đưa ra các quyết định chính sách dưới danh
nghĩa quyền lực nhà nước, đại diện cho nhân dân.
Trong hệ thống nghị viện, đảng cầm quyền là đảng chính trị hoặc liên minh
chính trị chiếm đa số ghế trong nghị viện. Trong hệ thống này, đảng chiếm đa số ghế
trong cơ quan lập pháp cũng đồng thời là đảng kiểm soát nhánh hành pháp của
chính phủ. Các đảng cịn lại sẽ trở thành đảng đối lập. Trong trường hợp khơng có
đảng nào chiếm đa số ghế, một số đảng sẽ hợp tác với nhau để hình thành chính phủ
liên minh. Do vậy, hiếm khi diễn ra tình trạng tranh chấp giữa đa số trong quốc hội
với nhánh hành pháp, bởi vì đảng chiếm đa số ghế trong cơ quan lập pháp cũng
đồng thời là đảng của thủ tướng, hoặc nằm trong liên minh với đảng của thủ tướng.

6


Trong hệ thống tổng thống, ứng cử viên của tổng thống đảng nào được người
dân lựa chọn thông qua cuộc bầu cử, thì đảng đó được gọi là đảng cầm quyền. Như
vậy, đảng cầm quyền là đảng của tổng thống, của người đứng đầu cơ quan hành
pháp, chứ không phải đảng chiếm đa số trong quốc hội. Hai chủ thể quyền lực này
được bầu ra theo những cách thức khác nhau. Trong tương quan quyền lực đó thì
quyền lực của tổng thống trội hơn so với quyền lực của quốc hội. Đảng của tổng
thống có thể chiếm đa số trong quốc hội, nhưng cũng có thể khơng.
Đảng cầm quyền cũng là thuật ngữ dùng để chỉ các Đảng Cộng sản ở những
nước có duy nhất một đảng cầm quyền, đang nắm chính quyền để lãnh đạo cách
mạng của các nước đó, như Đảng Cộng sản Trung Quốc (dù nhiều đảng nhưng thực
chất là một đảng cầm quyền), Đảng Cộng sản Việt Nam…
Như vậy, khái niệm đảng cầm quyền được hiểu theo các nghĩa sau:
Thứ nhất, nói tới đảng cầm quyền tức là nói tới vị thế của đảng trong sự so
sánh với các đảng chính trị khác – những đảng không cầm quyền. Khi cuộc bầu cử

kết thúc, đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội (trong hệ thống đại nghị), hoặc ứng
cử viên trúng cử chức tổng thống (là thủ lĩnh của đảng trong hệ thống tổng thống) sẽ
đứng ra thành lập chính phủ; cịn các đảng thiểu số (trong hệ thống đại nghị), hoặc
đảng thất cử (trong hệ thống tổng thống) sẽ trở thành những đảng đối lập.
Ở Trung Quốc, cũng có một hệ thống đa đảng (bên cạnh Đảng Cộng sản
Trung Quốc cịn có tám đảng nhỏ khác), nhưng nước này chủ trương “đa đảng tham
chính, một đảng chấp chính” – và đảng chấp chính (cầm quyền) đó chính là Đảng
Cộng sản.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
“đảng cầm quyền”. Khi Hồ Chí Minh đưa ra thuật ngữ này, ở nước ta, bên cạnh
Đảng Cộng sản, cịn có hai đảng nhỏ khác là Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ. Khi Hồ
Chí Minh nói “Đảng ta là đảng cầm quyền” với hàm nghĩa rằng, bên cạnh Đảng Lao
động Việt Nam đang cầm quyền vào thời điểm đó cịn có các đảng khơng cầm
quyền là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Đảng Cầm quyền ở đây chỉ vị thế của
Đảng Cộng sản trong việc nắm giữ quyền lực nhà nước so với các đảng khác trong
xã hội.
7


Thứ hai, đảng cầm quyền là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt của bộ máy
nhà nước để kiểm sốt q trình hoạch định và thực thi chính sách quốc gia. Sau khi
đã giành được chính quyền, đảng cầm quyền sẽ “hóa thân” vào nhà nước. Thủ lĩnh
của đảng sẽ trở thành thủ tướng của chính phủ (hoặc tổng thống), các nhân vật cao
cấp trong đảng sẽ trở thành các bộ trưởng trong chính phủ.
Ngồi ra, với tư cách là người đứng đầu chính phủ, thủ lĩnh của đảng cầm
quyền sẽ bổ nhiệm hàng nghìn các chức danh quyền lực chủ chốt trong bộ máy nhà
nước (theo quy định của pháp luật). Bộ máy tham mưu, tư vấn cho giới lãnh đạo của
đảng (khi chưa cầm quyền) sẽ trở thành bộ máy tham mưu, tư vấn chính sách cho
chính phủ (khi đảng đã ở vị thế cầm quyền). Bằng việc nắm giữ các vị trí quyền lực
này, đảng cầm quyền có thể kiểm sốt được các q trình quan trọng nhất của chính

sách quốc gia, điều chỉnh và chèo lái nó theo định hướng và mục tiêu phát triển của
đảng.
Thứ ba, đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo người của mình trong bộ máy nhà
nước thực hiện các mục tiêu phát triển của đảng thơng qua các chính sách của nhà
nước. Nắm giữ quyền lực nhà nước nhưng các đảng cầm quyền không bao giờ làm
thay công việc của nhà nước, hay can thiệp một cách trực tiếp vào cơng việc của nhà
nước. Điều đó là bất hợp pháp, vì về hình thức, bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ
có quyền lực chính trị, chứ khơng có quyền lực nhà nước. Các đảng chỉ có quyền
lực nhà nước khi nó trở thành đảng cầm quyền, và khi đó, các quyết định của đảng
phải được đưa ra dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước (quyền lực do người dân ủy
nhiệm), thơng qua các thủ tục, các q trình đó được pháp luật quy định, chứ không
phải đưa ra các quyết định nhân danh đảng.
Điều đáng lưu ý là ở hầu hết các quốc gia đa đảng theo kiểu phương Tây có
sự “nhất thể hóa” giữa giới lãnh đạo của đảng cầm quyền và các quan chức trong bộ
máy nhà nước; giữa bộ máy tham mưu, tư vấn chính sách cho đảng với bộ máy
tham mưu tư vấn chính sách cho nhà nước. hầu như khơng có sự tồn tại của bộ phận
lãnh đạo đảng đứng tách ra để làm nhiệm vụ “lãnh đạo” các quan chức trong bộ máy
nhà nước. Họ là một và do vậy, khi nói nhà nước tuân theo sự lãnh đạo của đảng
cũng có nghĩa là các quan chức trong bộ máy nhà nước tuân theo chính bản thân
8


mình. Bởi vì, nội các chính phủ, các nghị sĩ quốc hội cũng đồng thời là các nhà lãnh
đạo cao cấp nhất của đảng, bộ phận quyết định chính sách của đảng cầm quyền. Khi
nói tới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền thường có hàm ý chỉ các phiên hợp riêng
của các nhà lãnh đạo cao cấp (mà giờ đây đã là thành viên nội các chính phủ và nghị
sĩ trong quốc hội) để bàn về các định hướng chính sách của đảng, cũng như định
hướng bỏ phiếu cho các chính sách cụ thể nào đó.
Rõ ràng, dù là ở các phương Tây hay ở các nước có một đảng duy nhất cầm
quyền, dù các cách đi đến sự cầm quyền có khác nhau, thì “cầm quyền” cũng có

nghĩa là đảng nắm giữ quyền lực nhà nước, sử dụng nó để lãnh đạo nhà nước và
tồn xã hội thực hiện mục đích của đảng. Với bản chất đó, đảng cầm quyền khơng
có nghĩa chỉ là đảng nắm giữ chính quyền, bảo vệ chính quyền; vấn đề quan trọng
hơn, thể hiện bản chất hơn là đảng sử dụng quyền lực nhà nước để lãnh đạo nhà
nước và cùng nhà nước và tồn xã hội để thực hiện mục đích của đảng.
Như vậy, khái niệm “đảng cầm quyền” dung chứa trong nó cả “đảng lãnh
đạo” – đảng lãnh đạo thuận lợi hơn, có cơng cụ mạnh mẽ hơn trong điều kiện cầm
quyền; đảng cầm quyền để lãnh đạo, và chính sự cầm quyền như đã nêu trên, thực
chất đó mang nghĩa lãnh đạo. Khái niệm “đảng cầm quyền”, được dùng như là
“đảng lãnh đạo”; và “nội dung và phương thức cầm quyền của đảng”, vì vậy, cũng
được dùng như là nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và
xã hội.
1.3. Đảng Cộng sản cầm quyền:
1.3.1. Đảng Cộng sản và cách mạng giành chính quyền:
Ra đời trong cuộc đấu tranh giành quyền lực, Đảng Cộng sản là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, bao gồm những đại biểu ưu
tú nhất, được tơi luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng, gắn bó với giai cấp và quần
chúng bị bóc lột, được giai cấp và quần chúng tin tưởng trong cuộc đấu tranh để giải
phóng mình và giải phóng tồn thể quần chúng bị áp bức, bóc lột. Để thực hiện cuộc
cách mạng vĩ đại đó, giai cấp vơ sản trước hết phải giành lấy chính quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản để tiến tới mục đích vĩ đại của mình. Đối với Đảng
Cộng sản, con đường trở thành đảng cầm quyền phải trải qua cuộc đấu tranh cách
9


mạng, cách mạng vô sản hoặc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lật đổ bộ máy
chính quyền của các giai cấp bóc lột, thiết lập một nhà nước kiểu mới – nhà nước vô
sản.
Đảng Cộng sản cũng đặt ra mục tiêu trước hết phải giành lấy chính quyền
làm phương tiện để thực hiện mục đích của mình là cải tổ toàn bộ xã hội, xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Về lý thuyết, trong xã hội tư sản, Đảng Cộng sản cũng có thể
giành được quyền lực nhà nước nhờ vào tranh cử trong các cuộc bầu cử cơ quan
quyền lực nhà nước. Nhưng trên thực tế, cho đến nay hiếm có Đảng Cộng sản nào
giành được chính quyền bằng con đường đó. Trong khn khổ thể chế chính trị tư
sản, với những quy chế pháp lý (và đôi khi cả bằng sức mạnh bạo lực) thể hiện và
bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, các đảng chính trị của giai cấp cơng nhân khơng
thể có sự bình đẳng với các chính đảng tư sản. Vì thế V.I.Lênin đã từng nói rằng:
Chỉ có những kẻ vơ dụng hay ngu ngốc mới có thể nghĩ rằng giai cấp vô sản trước
hết cần giành lấy đa số trong các cuộc bầu cử tiến hành dưới sự áp bức của giai cấp
tư sản, dưới sự áp bức của chế độ nơ lệ làm th, rồi sau mới cướp chính quyền. Đó
là một sự ngu ngốc cực độ hay là một sự giả dối cực độ, đó là sự thay thế đấu tranh
giai cấp và cách mạng bằng những cuộc bầu cử và chính quyền cũ.
Để giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó chỉ có
thể thực hiện bằng con đường đấu tranh cách mạng; hoặc cách mạng vô sản (như ở
nước Nga), hoặc chiến tranh giải phóng dân tộc (như ở các nước Đơng Âu), hoặc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (như ở Việt Nam)… Thắng lợi của các cuộc
cách mạng đã đưa giai cấp công nhân lên giành địa vị giai cấp cầm quyền và chính
Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân trở thành đảng cầm quyền.
Khi giai cấp cơng nhân nắm quyền thống trị, như V.I.Lênin nói, thì có nghĩa là nắm
quyền đó với ý thức là chỉ một mình mình nắm. Bởi thế, trong thể chế chính trị xã
hội chủ nghĩa, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản nắm quyền lãnhh đạo tồn diện nhà
nước, khơng có sự cạnh tranh, chia sẽ quyền lãnh đạo giữa các đảng chính trị khác
nhau.
Khi Đảng Bơnsêvích (Nga) trở thành đa số, Lênin đã khẳng định trách nhiệm
và quyền hạn của Đảng trong việc xây dựng bộ máy nhà nước bằng việc đề ra
10


phương hướng, nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, đảng nắm công tác cán bộ của
bộ máy nhà nước, đặc biệt là những chức vụ chủ chốt.

Với lý luận và nguyên tắc giành chính quyền của các Đảng Cộng sản, như
Lênin đã vạch ra, tại một số nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (như Trung
Quốc, Việt Nam), thể chế nhất nguyên, tức là chỉ có một đảng duy nhất là Đảng
Cộng sản cầm quyền, được khẳng định là nguyên tắc bất di bất dịch. Đây là hệ
thống đảng khơng cạnh tranh, hoặc khơng có đảng đối lập trong việc giành quyền
lực nhà nước.
Hệ thống một đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa có nhiều mặt tích
cực, nhất là có khả năng giữ được ổn định xã hội. Nếu các đảng cầm quyền ở các
nước này là những đảng mạnh, với nghĩa là có khả năng lãnh đạo tốt, hội tụ được
những phần tử ưu tú; có năng lực, tận tâm với dân, với nước; biết lắng nghe dân,
không tham nhũng, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền, tôn trọng quyền
lực của dân, thì các đảng đó sẽ tạo nên sức mạnh vượt trội trong phát triển đất nước.
Tuy nhiên, hệ thống một đảng duy nhất cầm quyền cũng có những hạn chế,
chẳng hạn như, tiềm ẩn nhiều khả năng mắc các căn bệnh như: độc đoán, chuyên
quyền, lộng quyền, quan liêu, tham nhũng, kìm hãm dân chủ. Hầu hết ở các nước có
hệ thống một đảng cầm quyền khơng cạnh tranh, thì đảng cầm quyền thường can
thiệp rất sâu vào công việc nhà nước, dẫn tới nhà nước hóa đảng, quyền lực của
đảng và quyền lực nhà nước nhiều khi khơng có sự phân biệt. Đó là những rào cản
đối với việc thực thi dân chủ, trái với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Về
lý luận và cả thực tế, ở các nước chỉ có một đảng cầm quyền thường ít có sự đối
thoại, tranh luận, do đó khó tạo nên sự phản biện tích cực đối với đảng cầm quyền.
1.3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền:
Hơn 25 năm đổi mới vừa qua đã và đang đặt ra những địi hỏi bức bách, cho
phép chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn quan nệm về đảng cầm quyền, đảng lãnh
đạo, về đặc điểm cầm quyền, lãnh đạo của đảng, trên cơ sở đó đổi mới phương thức
lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước và với xã hội một cách đúng đắn hơn.

11



Có quan điểm cho rằng, quyền lực của đảng cầm quyền, là một thứ siêu
quyền lực, bên trên quyền lực nhà nước, mặc dù đảng cầm quyền không phải là cơ
quan cơng quyền.
Như đã phân tích, đảng cầm quyền và nhà nước là các trung tâm quyền lực
có nguồn gốc khác nhau. Trong các xã hội dân chủ, quyền lực của đảng là quyền lực
của một giai cấp, một lực lượng xã hội, còn quyền lực nhà nước là quyền lực của
nhân dân được tổ chức thành nhà nước. Không thể đồng nhất quyền lực của đảng
với quyền lực của nhà nước. Quyền lực của đảng cầm quyền là quyền lực về chính
trị (vạch chủ trương, đường lối), cịn quyền lực nhà nước là quyền lực cai trị xã hội,
là tổ chức và quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt (giai
đoạn chiến tranh và cách mạng), khi nhiệm vụ chính trị là giữ và bảo vệ chính
quyền nhà nước là ưu tiên hàng đầu thì cần thiết thống nhất quyền lực đảng và
quyền lực nhà nước để thực hiện nhiệm vụ chính trị, trọng đại của thời kỳ đó. Đây
cũng là địi hỏi khách quan, nhưng chỉ phù hợp trong giai đoạn ấy. Việc chuyển đổi
giai đoạn, cũng có nghĩa là nội dung cách mạng cũng có những điểm mới, cần phân
định lại quyền lực giữa đảng và nhà nước cho phù hợp với tính chất, đặc điểm, yêu
cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Trong chế độ một đảng cầm quyền, nội dung đảng lãnh đạo về thực chất là
nội dung đảng cầm quyền, nhưng là sự cầm quyền của chỉ một Đảng Cộng sản được
nhân dân thừa nhận bằng pháp luật. Đảng cầm quyền thông qua sự lãnh đạo cơ quan
công quyền chứ khơng tự mình biến thành nhà nước.
Về lý luận cũng như về nguyên tắc, Đảng không thể được coi là cơ quan
cơng quyền, do đó, đảng cầm quyền, lãnh đạo không được lấn sân vào các chức
năng của cơ quan quyền lực cơng. Điều đó có nghĩa là, khơng thể đồng nhất quyền
lực của đảng với quyền lực của nhà nước. Khi quyền lực đảng đồng nhất với quyền
lực nhà nước thì khơng cịn dân chủ và đến một mức độ nào đó, có thể sẽ dẫn đến
nguy cơ độc tài.
Đảng Cộng sản thực hiện vai trò cầm quyền (cũng tức là vai trò lãnh đạo) đối
với nhà nước và toàn xã hội dựa trên một nguyên tắc bất di bất dịch, đó là hệ thống
một đảng cầm quyền duy nhất, khơng có đảng đối lập, khơng có cạnh tranh quyền

12


lực. Từ nguyên tắc tổ chức đảng như vậy đã đặt ra rất nhiều vấn đề về đảng, về sự
lãnh đạo của đảng.
Đã có nhiều ý kiến, trực tiếp hoặc gián tiếp cho rằng, để đổi mới nhà nước,
phát triển kinh tế - xã hội, thì trước hết cần thay đổi hệ thống một đảng cầm quyền
bằng một hệ thống nhiều đảng (như mơ hình Xingapo) và đảng sẽ khẳng định năng
lực lãnh đạo của đảng trên cơ sở cọ sát với các đảng khác; rằng, chỉ trong hệ thống
đa đảng mới có dân chủ và phát huy dân chủ.
Trong những năm gần đây, một số phần tử lợi dụng mặt khiếm khuyết của hệ
thống nhất nguyên, một đảng cầm quyền để cơng kích Đảng ta, địi đa ngun, đa
đảng. Một số tổ chức phản động đòi thành lập một nhà nước không cộng sản (như
Quốc dân Đảng, Đảng Đại Việt Duy Tân, Đảng Nhân dân, Đảng Nhân dân Việt
Nam hành động, Đảng Khăn trắng…).
Có thể khẳng định, trong một quốc gia tồn tại một đảng hay nhiều đảng chưa
phải là nhân tố để khẳng định đó là hệ thống dân chủ hay không dân chủ. Vấn đề là
ở chỗ, hệ thống đó đã đảm bảo thực thi dân chủ như thế nào, đảm bảo thực hiện
quyền lực của nhân dân như thế nào trong quá trình lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Thực tiễn quá trình Đảng ta thực hiện vai trị của một đảng cầm quyền, Đảng ln
hướng tới dân, vì mục đích đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, và do đó được
dân tin, dân hy sinh cả tài sản, tính mạng của mình cho sự nghiệp của Đảng, nhờ đó
mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tuy nhiên, sẽ là chủ quan nếu cho rằng hệ thống một Đảng Cộng sản lãnh
đạo Nhà nước và xã hội ở nước ta hiện nay là tối ưu, đã hồn hảo. Trên thực tế, bên
cạnh những yếu tố tích cực do hệ thống một đảng cầm quyền tạo nên, thì hệ thống
này lại chứa đựng những yếu tố khách quan khác là nguyên nhân làm cho Đảng ta
có những khuyết tật, hạn chế. Đó là bệnh chủ quan, duy ý chí; lấn sân nhà nước;
nhiều cán bộ đảng, cán bộ có chức, có quyền tham nhũng tài sản cơng, biến quyền
lực cơng thành thứ tài sản của riêng mình, phục vụ cho lợi ích của mình, gia đình

mình; tình trạng suy giảm phẩm chất, đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên đến mức báo động… Dân chủ trên thực tế bị vi phạm khá nghiêm trọng.

13


Những khuyết tật, hạn chế đó nhiều khi trở thành những vấn đề bức xúc, căng thẳng,
hình thành các điểm nóng chính trị - xã hội ở một số nơi.
Để khắc phục những mặt khiếm khuyết đó trong sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội, một trong những phương thức quan trọng nhất là phát huy
dân chủ, mà trước hết là dân chủ trong Đảng. Từ đó, Đảng phải phát huy thực sự
quyền dân chủ của nhân dân. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nếu không khắc phục
được những hạn chế bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan và cả chủ quan
trong hệ thống, những khuyết tật đó sẽ tích tụ lại, đến một lúc nào đó sẽ là nguy
hiểm, trở thành nguy cơ đổ vỡ cả hệ thống.
1.3.3. Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng:
1.3.3.1. Nội dung cầm quyền:
Với tư cách là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân
dân về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Nội dung cầm quyền của
Đảng, thể hiện quyền hạn và trách nhiệm của Đảng trong việc quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước trong thời kỳ nhất định, và trong từng lĩnh vực cụ thể, trong
các mối quan hệ quyền lực cụ thể với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
đoàn thể nhân dân.
Có thể nói, nội dung cầm quyền của Đảng là một phạm trù lịch sử, có phạm
vi, giới hạn và mức độ xác định trong từng mối quan hệ chính trị và quyền lực cụ
thể, với các đối tượng cụ thể. Trên thực tế, nội dung cầm quyền của Đảng thể hiện
rõ nhất trong cương lĩnh chính trị, trong chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, đảm bảo tính định hướng chính trị cho sự phát triển của đất nước hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với ý nghĩa như vậy,
việc xác định được các nội dung cầm quyền của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể

của đất nước là rất quan trọng.
Nội dung cầm quyền của Đảng là toàn bộ hoạt động của đảng cầm quyền, từ
việc xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc, cho đến nội dung thực hiện
mục tiêu chính trị đó; nó bao qt tồn diện các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phịng, an ninh của đất nước.

14


Trong lĩnh vực chính trị, việc hoạch định đường lối chính trị là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng. Để cầm quyền, lãnh đạo, Đảng có trách nhiệm xác
lập thể chế chính trị - xã hội của đất nước trên các mặt: cơ cấu tổ chức chính trị - xã
hội, cơ chế vận hành xã hội và những điều kiện đảm bảo cho hai vấn đề trên.
Trong lĩnh vực kinh tế, nội dung cầm quyền và lãnh đạo trọng tâm của Đảng
là việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được
xem là mơ hình kinh tế tổng qt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Một vấn đề có tính quyết định là phải đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng
sản xuất bằng con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong lĩnh vực xã hội, với sứ mệnh của mình, Đảng phải lãnh đạo phát huy
sức mạnh của tồn Đảng, toàn dân, toàn quân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, phát triển các quan hệ xã hội lành mạnh, bảo đảm cơng bằng, bình đẳng
xã hội phát triển con người, xây dựng một xã hội văn minh, con người hạnh phúc.
Trong lĩnh vực văn hóa, trên nền tảng của việc xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng phải định hướng xây dựng một nền văn hóa
chính trị nói chung và văn hóa cầm quyền của đảng nói riêng. Văn hóa chính trị của
Đảng, đến lượt mình, nó chỉ đạo việc lựa chọn mục tiêu, lý tưởng chính trị; nó quy
định đường lối, nội dung, chiến lược phát triển đất nước.
Một nội dung quan trọng của Đảng cầm quyền là quan hệ giữa Đảng với Nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là lực lượng của nhân dân. Đảng

nắm Nhà nước bằng cách hóa thân vào Nhà nước, đưa người vào giữ các chức vụ
quan trọng của các cơ quan Nhà nước, lãnh đạo các cơ quan đó vận hành theo chủ
trương, đường lối của mình. Bằng phương thức cầm quyền, lãnh đạo của mình,
Đảng làm cho các cơ quan Nhà nước vận hành đúng và có hiệu quả theo chức năng,
trách nhiệm của mình. Đảng cầm quyền thành cơng là ở chỗ lãnh đạo vì dân, lãnh
đạo một cách dân chủ, theo pháp luật, bảo đảm khoa học.
1.3.3.2. Phương thức cầm quyền của Đảng:

15


Phương thức cầm quyền của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện
pháp mà Đảng vận dụng để sử dụng Nhà nước, tác động vào Nhà nước và bằng Nhà
nước nhằm thực hiện các nội dung cầm quyền, đạt mục tiêu cuối cùng của Đảng.
Phương thức cầm quyền của Đảng cũng có nghĩa là Đảng xây dựng tổ chức,
thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước để thực hiện vai trị cầm quyền của mình.
Phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo là những khái niệm khác
nhau, nhưng có những nội dung đồng nhất với nhau. Đảng vẫn có thể lãnh đạo nhân
dân khi chưa giành chính quyền, nhưng Đảng chỉ có thể cầm quyền khi đã giành
được quyền lực nhà nước về tay mình. Do vậy, phương thức cầm quyền của Đảng
thực chất chỉ là phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng đã ở vị thế
cầm quyền. Nếu không ở vị thế cầm quyền, Đảng không thể nào thực hiện được đầy
đủ các phương thức lãnh đạo này, đặc biệt là việc lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa
đường lối của Đảng thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Dù Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền, Đảng vẫn chỉ là tổ chức chính trị,
lãnh đạo chính trị. Các phương thức cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội bao gồm:
Thứ nhất, lãnh đạo thông qua các quan điểm, cương lĩnh, chiến lược, các
đường lối, chủ trương, điều lệ, chỉ thị và các quyết định khác của Đảng đối với tổ
chức và hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ hai, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương
của Đảng thành các quyết định của cơ quan công quyền. Nhà nước căn cứ vào nghị
quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các đạo
luật, các nghị định, thông tư và các văn bản pháp quy khác, nhằm thực hiện nghị
quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo Đảng từ
Trung ương đến cơ sở.
Thứ tư, Đảng đưa người của Đảng vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy
quyền lực nhà nước. Đảng đào tạo những đảng viên của Đảng trở thành những
người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có chun mơn giỏi, có khả năng tuyên
truyền, vận động quần chúng để giới thiệu ứng cử bầu vào các cơ quan quyền lực
16


dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và giữ những cương vị chủ chốt
trong bộ máy nhà nước.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác kiểm tra của các tổ
chức đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ chức đảng và đảng
viên chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước thơng qua tính tiên phong gương mẫu của
đảng viên.
Thứ bảy, cầm quyền, lãnh đạo phải lấy dân làm gốc, dựa vào dân, đoàn kết
toàn dân, phát huy tối đa và hiệu quả sức mạnh của nhân dân. Điều đó nói lên mục
tiêu của Đảng là vì dân và phương thức cầm quyền hiệu quả là phải dựa vào sức
mạnh của nhân dân.
Thứ tám, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện ở
đường lối chính trị, cách thức điều hành Nhà nước và các tổ chức chính trị làm theo
mình. Đảng lãnh đạo một cách trí tuệ, khoa học và nghệ thuật. Đó là sự cầm quyền
khéo léo, linh hoạt, nhạy bén bảo đảm sự kết hợp thực tế, các sự kiện cụ thể.
Toàn bộ các phương thức cầm quyền của Đảng chủ yếu được thực hiện thông

qua sự lãnh đạo (với tư cách hiểu về thuật ngữ lãnh đạo như ở nước ta hiện nay), là
nhằm thể chế hóa ý chí của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà
nước và lãnh đạo tổ chức thực hiện ý chí đó.
Chương 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng:
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản cầm quyền:
2.1.1. Lý luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản cầm
quyền:
Vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền nói chung và nội dung, phương thức cầm
quyền của Đảng nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa
Mác – Lênin đề cập. Tuy nhiên, vào giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen cịn sống, do
giai cấp vơ sản trong thực tế chưa giành được chính quyền và chưa có một nhà nước
của mình, nên các ơng chưa có điều kiện đề cập đến và có những quan điểm cụ thể
về vấn đề này. Mác và Ăngghen chủ yếu mới đề cập đến vấn đề đấu tranh giai cấp
17


trong các xã hội có giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến việc hình thành các đảng chính trị và
các đảng chính trị đó sẽ đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Các ông chỉ
ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở
thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội. Chỉ đến đầu thế kỷ XX,
trong những điều kiện mới, kế thừa những di sản tư tưởng, quan điểm cơ bản của
các ơng, V.I.Lênin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc về vấn đề cầm quyền
của Đảng Cộng sản (Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, Đảng Bơnsêvích Nga).
Ngay từ trước Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), V.I.Lênin đã cho
rằng, Đảng Bơnsêvích Nga “bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm tồn bộ
chính quyền”. Trong thời kỳ lãnh đạo chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga, Lênin đã nhiều lần sử dụng trong các bài nói, bài viết của mình các thuật
ngữ, khái niệm như “đảng cầm quyền”, “đảng lãnh đạo”… Theo ơng, đảng cầm
quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo nhà nước hay đảng lãnh đạo nhà nước khi đã cầm

quyền. Lênin khẳng định, ở nước Nga “chỉ có một đảng cầm quyền duy nhất đang
lãnh đạo”. Trong các luận điểm về Đảng Cộng sản cầm quyền, Lênin đã đề cập đến
nhiều vấn đề về sự cầm quyền của đảng, trong đó cốt lõi là nội dung và phương thức
cầm quyền (lãnh đạo) của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng
sản lãnh đạo Nhà nước chính là nói lên các đặc điểm mang tính bản chất của nền
chun chính vơ sản. Trong nền chun chính vơ sản, nhà nước phải chịu lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Trong vấn đề đảng cầm quyền, trước hết Lênin đã đề cập đến mối quan hệ
giữa đảng và nhà nước và vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nhà nước. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhà nước mới đáp ứng đúng mục tiêu
của đảng là xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản. Và để giải quyết được mối quan hệ giữa đảng và nhà nước, đáp
ứng được vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước trong chế độ xã hội mới thì
vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ lãnh
đạo của đảng với chức năng quản lý của nhà nước. Vấn đề này đã được Lênin chỉ ra
vào thời kỳ trước khi Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga giành được chính quyền.

18


Vấn đề phân định chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với chức năng,
nhiệm vụ quản lý của nhà nước được Lênin tiếp tục đề cập, làm rõ và khẳng định cụ
thể hơn sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Đảng Cộng sản Nga đã
lãnh đạo bộ máy chính quyền Xơviết thực hiện cơng cuộc phát triển kinh tế, xây
dựng chế độ xã hội mới. Lênin cho rằng, chừng nào mà Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và tồn Đảng cịn tiếp tục làm cơng tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý
nhà nước, thì Đảng khơng thể gọi là người lãnh đạo được. Tại Đại hội lần thứ XI
Đảng Cộng sản Nga (4-1922), khi đánh giá về mối quan hệ giữa đảng và nhà nước
lúc đó, Lênin viết rằng: “Giữa đảng và các cơ quan Xôviết hiện đã có những quan
hệ khơng đúng… Phải chấm dứt tình trạng là bất kỳ vấn đề vụn vặt nào cũng đưa ra

trước Ban Chấp hành Trung ương, mà phải nâng cao uy quyền của Hội đồng Bộ
trưởng dân ủy…”. Từ đó, Lênin khẳng định: “nếu cứ lãnh đạo bằng cách đó, thì
chúng ta nhất định đi tới chỗ diệt vong… rằng, cần phải phân rõ chức năng, quyền
hạn của bộ máy của Đảng và của bộ máy của các Xôviết”. Để khắc phục sự lẫn lộn,
chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan đảng và nhà nước,
theo Lênin “cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng (và
của Ban Chấp hành Trung ương của nó) với nhiệm vụ của chính quyền Xơviết; tăng
thêm trách nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ Xơviết và các cơ quan Xơviết,
cịn về đảng thì giành quyền lãnh đạo chung cơng tác của tất cả các cơ quan nhà
nước gộp chung lại, mà không can thiệp một cách quá thường xuyên, không chính
quy và thường là nhỏ nhặt”.
Cùng với việc phân định rõ chức năng quyền hạn bộ máy của Đảng và bộ
máy của Nhà nước, Lênin cũng chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản Nga cầm quyền tức là
Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là lãnh đạo cả xã hội, và việc nhất thể hóa
một số bộ phận, hoặc cán bộ lãnh đạo của Đảng và chính quyền, sẽ khơng ảnh
hưởng đến hiệu quả công việc của cả Đảng và chính quyền. Theo Lênin, điều quan
trọng là phải nhận thức sâu sắc rằng, Đảng có chức năng lãnh đạo, cịn nhà nước có
chức năng là quản lý hành chính. Như vậy, Lênin đã khẳng định rất rõ vai trò cầm
quyền, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Lãnh đạo là cơng việc có những cách
thức khác với quản lý. Quản lý của Nhà nước mang tính chất hành chính, có lúc cần
19


thiết phải sử dụng cả sự cưỡng bức, còn lãnh đạo khơng thể có cưỡng bức. Lãnh đạo
của Đảng cần đến uy tín và có sức thuyết phục cao, từ đó mới giữ vững được vai trị
cầm quyền của mình.
2.1.2. Nội dung cầm quyền:
Sự lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với nhà nước được thể hiện trước hết ở
nội dung lãnh đạo. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Đảng Cộng
sản Nga đã lãnh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền Xơviết. Những

nội dung lãnh đạo của Đảng đã có những điểm mới so với trước đó, tức là chuyển
trọng tâm từ việc lãnh đạo giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản sang trọng tâm
thực hiện công cuộc khôi phục phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy, nội dung cầm quyền, lãnh đạo của đảng khi
đã nắm chính quyền có những điểm khác so với nội dung lãnh đạo khi đảng chưa
nắm được chính quyền. Chỉ khi đảng nắm được chính quyền, những nội dung lãnh
đạo mới được hiểu và biểu hiện là những nội dung cầm quyền.
Nội dung cầm quyền, lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với nhà nước thể
hiện chủ yếu và trước hết ở việc đảng xác định các mục tiêu mang tính chất định
hướng trong các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình. Mục tiêu,
lý tưởng của đảng cũng chính là mục tiêu xác định cho nhà nước đạt tới, vì lợi ích
của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động. Mục tiêu được phân ra theo
các góc độ khác nhau như: mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn; mục tiêu tổng
quát và mục tiêu riêng biệt đối với từng lĩnh vực đó.
Mục tiêu lâu dài bao gồm những tiêu chí mà sự lãnh đạo của đảng cần phải
đạt sau một thời gian dài. Điều đó cũng có nghĩa là cương lĩnh của đảng địi hỏi phải
có tầm nhìn xa trơng rộng. Các mục tiêu hay những định hướng, đường lối, chủ
trương đó của đảng cần phải được xây dựng một cách khoa học, tức là phải tuân
theo những quy luật khách quan và xuất phát từ thực tiễn để đảm bảo sự đúng đắn
của chúng.
Trong các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình, đảng cịn
phải xác định cả những nhiệm vụ cho đảng và nhà nước. Có nhiệm vụ lâu dài,
nhiệm vụ trước mắt trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tác phẩm Những
20


nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xơviết viết vào tháng 4-1918, Lênin cho rằng,
sau khi Đảng Cộng sản đã nắm được chính quyền thì “nhiệm vụ tổ chức quản lý
nước Nga – hiện đang được đề ra trước mắt chúng ta, đó là nhiệm vụ trước mắt…,
nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm. Chúng ta, Đảng

Bơnsêvích, chúng ta đã thuyết phục được nước Nga. Chúng ta đã giành được nước
Nga… Bây giờ, chúng ta phải quản lý nước Nga. Và toàn bộ đặc điểm của tình thế
hiện thời, tất cả sự khó khăn là ở chỗ phải hiệu rõ những đặc điểm của bước chuyển
từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và dùng lực lượng quân sự trấn áp bọn
bóc lột, sang nhiệm vụ chủ yếu là quản lý”.
Việc xác định các nhiệm vụ của đảng và nhà nước trong các cương lĩnh, nghị
quyết của đảng cần phải có sự định hướng vào các nhiệm vụ cấp thiết và mấu chốt.
Tức là cần xác định các nhiệm vụ trọng yếu và phải tập trung vào giải quyết chúng.
Theo Lênin: “Chun chính vơ sản là sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Giai cấp vô
sản với tư cách là giai cấp lãnh đạo, thống trị phải biết hướng chính sách vào việc
giải quyết trước tiên vào vấn đề cấp thiết nhất, “mấu chốt nhất””. Trong các cương
lĩnh, nghị quyết của mình, đảng cần xác định các nhiệm vụ chủ yếu và đề ra các
biện pháp chỉ đạo thực hiện trong thực tiễn. Các nhiệm vụ chủ yếu bao gồm: công
tác tư tưởng, xây dựng bộ máy nhà nước và các tổ chức quần chúng; công tác xây
dựng đảng, trong đó đặc biệt vấn đề tổ chức cán bộ và kiểm tra của đảng; nhiệm vụ
trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại.
Theo quan điểm của Lênin, trong nội dung lãnh đạo của Đảng với nhà nước,
đảng không nên đề ra các nhiệm vụ quá chi tiết, nội dung giải quyết các công việc
quá cụ thể. Đảng chỉ cần định ra các phương hướng, nhiệm vụ chung về các mặt và
nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.1.3. Phương thức cầm quyền:
Sự cầm quyền, lãnh đạo của đảng không chỉ bao hàm mặt nội dung, mà để
lãnh đạo hiệu quả, điều vô cùng quan trọng khác là phương thức cầm quyền, lãnh
đạo. Nghĩa là làm thế nào để đảng có thể chuyển tải các nội dung cầm quyền, lãnh
đạo thành các chính sách của nhà nước, tạo ra sức ảnh hưởng mạnh mẽ của đảng với
21


toàn xã hội. Phương thức cầm quyền, lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội

được Lê nin đề cập một các khá rõ nét, qua các phương thức chủ yếu sau:
Thứ nhất, đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước bằng việc đề ra các chủ
trương, đường lối, cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của đảng.
Ở vị trí cầm quyền, đảng có trọng trách là lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội.
Những nội dung lãnh đạo được xác định trong các cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết
của đảng là những vấn đề về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trong các lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội mà nhà nước là người có trách nhiệm phải giải
quyết thực hiện chúng. Điều đó có nghĩa, với tư cách đảng cầm quyền, những nội
dung được đề ra bao hàm các vấn đề về đường lối, quan điểm chính trị và nguyên
tắc tổ chức liên quan tới chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa,
giáo dục, quốc phịng – an ninh, đối ngoại, truyền bá hệ tư tưởng cũng như đào tạo
cán bộ, xây dựng bộ máy nhà nước là thuộc về trách nhiệm của đảng, còn giải quyết
và thực hiện cụ thể như thế nào là trách nhiệm của nhà nước. Điều này cũng tức là
phải có sự phân định rõ chức năng lãnh đạo của đảng và chức năng quản lý, giải
quyết các công việc cụ thể của nhà nước. Đảng không lãnh đạo nhà nước theo các
nội dung như trên với cách thức ra các mệnh lệnh từ trên ban xuống, buộc nhà nước
phải thực hiện, theo kiểu “tơi có quyền, tơi ra lệnh thì anh phải phục tùng”, mà lãnh
đạo bằng việc đề ra các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết. Tại Đại hội lần
thứ X Đảng Cộng sản Nga, Lênin cũng chỉ rõ: “Nhiệm vụ của chúng ta chỉ là định
ra những đường lối, nguyên tắc và nêu ra các khẩu hiệu. Đảng ta là một đảng cầm
quyền và những quyết định do đại hội của đảng thơng qua là những điều mà tồn
nước Cộng hòa phải tuân theo”.
Thứ hai, đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước thông qua tổ chức đảng, đội
ngũ cán bộ, đảng viên của đảng trong bộ máy nhà nước.
Đây là phương thức lãnh đạo mang tính phổ biến đối với mọi đảng cầm
quyền. Tuy nhiên, ở mỗi nước cũng có những đặc điểm riêng, tùy điều kiện cụ thể.
Theo quan điểm của Lênin, đây là một trong các phương thức lãnh đạo cơ bản, thể
hiện như một trọng trách của đảng cầm quyền. Tại Đại hội lần thứ VIII các Xơviết
tồn Nga (2-1920), Lênin cũng viết rằng: chừng nào một đảng cầm quyền còn quản
22



lý, chừng nào đảng ấy còn phải giải quyết tất cả mọi vấn đề về những sự bổ nhiệm
khác nhau, thì anh khơng thể để có tình trạng là việc bổ nhiệm các chức vụ nhà nước
quan trọng nhất lại do một đảng không lãnh đạo tiến hành”.
Theo quan điểm của Lênin, chỉ có thơng qua đội ngủ đảng viên của đảng cầm
quyền trong bộ máy nhà nước, mọi hoạt động của nhà nước mới bảo đảm theo đúng
mục tiêu của đảng cầm quyền đã vạch ra.
Như đã nêu ở trên, đảng lãnh đạo nhà nước trước hết là bằng việc đề ra
đường lối, cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của đảng. Tuy nhiên, việc thực hiện chúng
là công việc rất khó khăn và địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ của đảng. Đó là những
đảng viên của đảng, những cán bộ ủng hộ, phục tùng đường lối của đảng. Chỉ có
thơng qua đội ngũ cán bộ này, các chỉ thị, nghị quyết của đảng mới được thực hiện
trên thực tế. Theo quan điểm của Lênin, những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà
nước phải hoạt động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại diện cho đảng
cầm quyền, vừa với tư cách là người đại biểu nhân nhân, tức là người đại diện cho
chính quyền.
Thứ ba, đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Đây là phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đã được Lênin đề cập ở
nhiều tác phẩm. Kiểm tra được coi là công việc mấu chốt trong lãnh đạo của đảng
đối với nhà nước và xã hội. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh: điểm trung tâm của công
tác tổ chức là việc chọn người, giao việc và kiểm tra hiệu quả chấp hành. Lênin còn
chỉ thị: Hãy dành thời gian để tiến hành kiểm tra công việc chấp hành thực tế công
tác – mấu chốt của tồn bộ cơng tác, của tồn bộ chính sách hiện nay là ở đấy”.
Theo quan điểm của Lênin, các cơ quan và cá nhân người lãnh đạo phải hết sức coi
trọng công tác kiểm tra; tổ chức tốt việc kiểm tra phải được coi là chức năng quan
trọng của cơ quan và người lãnh đạo. Lênin còn cho rằng, phải đi từ công tác kiểm
tra để, một mặt, tác động tới bộ máy nhà nước, coi đây là điểm xuất phát và khâu
trung tâm của phương thức lãnh đạo của đảng đối với các cơ quan nhà nước; mặt
khác, thông qua cơng tác kiểm tra mà xem lại tính đúng đắn, tính phù hợp của các

chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của đảng so với thực tiễn, từ đó có những sửa đổi, bổ
sung, phát triển sáng tạo các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của đảng.
23


Như vậy, theo quan điểm của Lênin, trong quá trình lãnh đạo, đảng không được chủ
quan, thỏa mãn với các quyết định, chủ trương của mình mà ln tổ chức sự kiểm
tra tính đúng đắn của các chủ trương, quyết định đó. Thơng qua cơng tác kiểm tra
mà phát hiện, sáng tạo ra cái mới, cái tốt hơn, đề ra nội dung và phương thức lãnh
đạo sát hợp hơn với thực tiễn cuộc sống.
Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước thông qua công tác kiểm tra. Tuy nhiên,
ai là người thực hiện kiểm tra đó? Lênin cho rằng, chính ngay những đảng viên của
đảng trong bộ máy nhà nước, thực hiện sự kiểm tra đó. Tức các đảng viên của đảng
phải là những người đảm nhiệm việc kiểm tra các công việc của các cơ quan và cán
bộ, công chức nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra, song để kiểm tra trong lãnh
đạo bảo đảm có hiểu quả, đảng cần phải biết cách kiểm tra, trong đó đặc biệt lưu ý
đến việc lơi cuốn quần chúng nhân dân vào công việc kiểm tra. Theo Lênin, kiểm tra
là công việc thường xuyên trong lãnh đạo của đảng. Do vậy, đảng cần phải thường
xuyên tổ chức cho quần chúng nhân dân thực hiện công việc kiểm tra, tham gia
đóng góp phê bình, kiểm sốt hoạt động của các cơ quan và cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước.
Quần chúng nhân dân là những người ngoài đảng, đảng lơi cuốn họ vào kiểm
sốt hoạt động của các cơ quan nhà nước tức là đảng, đồng thời sử dụng họ kiểm
sốt ngay chính các đảng viên của đảng đang nắm giữ các vị trí trong bộ máy nhà
nước. Trong Huấn thị của Hội đồng lao động và quốc phòng gửi các cơ quan Xôviết
địa phương vào tháng 5-1921, Lênin viết: “…cần phải duy trì sự kiểm sốt và sự
lãnh đạo của những người cộng sản. Mặt khác, những người ngồi đảng cũng phải
kiểm sốt các đảng viên; muốn vậy cần phải lơi kéo những nhóm cơng nhân, nơng
dân ngồi đảng, đã được thử thách về phương diện trung thực của mình, vào Bộ dân

ủy thanh tra cơng nơng, và không kể họ ở chức vụ nào, lôi cuốn họ tham gia một
cách khơng chính thức vào việc kiểm tra và nhận xét công tác”.
Thứ tư, đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước thông qua công tác vận động
quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước.

24


Theo Lênin, quần chúng nhân dân có vai trị cực kỳ quan trọng trong việc
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo cho một nhà nước vững mạnh đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của đảng
phụ thuộc rất lớn vào lòng tin và khả năng vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục
quần chúng nhân dân đi theo đảng và tiến hành các hành động cách mạng dưới sự
lãnh đạo của đảng. Tuy nhiên, nếu không hiểu quần chúng, khơng đáp ứng các
nguyện vọng chính đáng của quần chúng thì đảng chẳng những khơng lơi cuốn được
quần chúng nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, mà đảng cũng không lãnh đạo
được nhà nước, ngay bản thân bộ máy của đảng và của nhà nước cũng khó tồn tại
được.
Để vận động, lôi cuốn quần chúng nhân dân tham gia các cơng việc quản lý
nhà nước, Lênin cịn cho rằng, đảng cần phải sử dụng phương thức thuyết phục là
chính. Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng phương thức thuyết phục và nêu
gương chứ không phải bằng mệnh lệnh, bằng sự cưỡng bức. Khi phê phán các quan
điểm sai lầm trong lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách
của đảng và nhà nước, Lênin đã viết: “Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới
cưỡng bức. Dù thế nào đi nữa thì trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi sau
mới cưỡng bức. Chúng ta đã không biết thuyết phục quảng đại quần chúng và chúng
ta đã phá rối mối quan hệ đúng đắn giữa đội tiền phong và quần chúng”.
Hơn nữa, để lôi cuốn được quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
chấp hành các đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, đảng cần phải lấy những
thực tế sinh động, những tấm gương điển hình trong cuộc sống mà thuyết phục.

Lênin chỉ rõ: Đảng làm được cơng tác tun truyền của mình bằng hành động thực
tế hơn là bằng lời nói sng. Vì hiện giờ, bất luận đối với cơng nhân hay nơng dân,
các đồng chí khơng thể lấy những lời nói sng mà thuyết phục họ được, mà phải
lấy thực tế mới thuyết phục nổi họ.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng và
xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh:
2.2.1. Về phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền:

25


×