Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.53 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TÊN ĐỀ TÀI: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG ĐỂ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM.

Họ và tên sinh viên

: Bùi Thị Trà My

Mã số sinh viên

: 030337210150

Lớp, hệ đào tạo

: MLM306_211_D27

CHẤM ĐIỂM
Bằng số
Bằng chữ

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022


MỤC LỤC
1. Những vấn đề lý luận....................................................................................02


1.1. Khái niệm.................................................................................................02
1.2. Nội dung..................................................................................................03
2. Thực trạng chủ đề nghiên cứu......................................................................05
2.1. Những thành tựu......................................................................................05
2.2. Những hạn chế cần khắc phục..................................................................07
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế..............................................................08
3. Giải pháp........................................................................................................09
4. Kết luận..........................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC – LÊNIN VÀ
CỦA MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1 Quan niệm của các nhà triết học trước Mác về con người
Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và khơng ngừng
nghiên cứu về nó. Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại
có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu
tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình và độ nhận
thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra
những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau. Con người là vật cao quý
nhất trong trời đất, là chúa tể của mn lồi. Chỉ đứng sau thần linh. Con
người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối
mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ
nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối
phần hồn, khơng có linh hồn nào là bất tử cả, và q trình nhận thức đó

khơng ngừng được phát hiện.
Tóm lại, các quan niệm triết học đã đi đến những cách thức lý luận xem xét
người một cách trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì
tuyệt đối hố phần xác thành con người trừu tượng. Sau này chủ nghĩa
Mác đã kế thừa và đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã
có trong các học thuyết triết học trước đây để đi tới quan niệm về con
người thiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách
là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội
đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
1.1.2 Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cải
tạo tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình
tiến hố nhưng như thế khơng có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những
cái tự nhiên để không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con
người là sản phẩm tự nhiên, là kết quả của q trình tiến hố lâu dài của


2

giới hữu sinh, đã là con người thì phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử
vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt...
Song con người không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác
mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật có tính xã hội, con
người là sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội. Con người chỉ có thể
tồn tại được khi tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để thoả mãn
nhu cầu mình và chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành
con người và ý thức.
1.2 Quan niệm triết học của Mác – Lênin về con người
1.2.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt
xã hội

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên
quy định sự tồn tại của con người.
- Con người là một thực thể sinh vật: vì con người dù có phát triển đến
đâu đi chăng nữa thì vẫn là một động vật, đã là một động vật mà
muốn tồn tại được thì phải thỏa mãn các nhu cầu ăn uống,.. Vậy thì là
một thực thể sinh vật, con người chịu sự chi phối của quy luật sinh
học, quy luật tự nhiên. Về vấn đề này các nhà kinh điển Mác Xít đã
khẳng định “bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra,
cũng đã quyết định việc con người hồn tồn thốt ly khỏi những đặc
tính vốn có của con vật”
- Con người là một thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước hết là
hoạt động sản xuất đã làm con người trở thành con người với đúng
nghĩa của nó. Chúng ta biết rằng thơng qua q trình lao động, con
người tác động vào giới tự nhiên làm cho tự nhiên bộc lộ ra các thuộc
tính, kết cấu, quy luật giúp cho con người ngày càng nhận thức sâu sắc
hơn, đầy đủ hơn về giới tự nhiên, đặc biệt thông qua hành vi là biết
chế tạo công cụ lao động đã phân biệt con người với con vật và việc sử
dụng công cụ lao động đã giúp cho con người phát triển và hoàn thiện


3

về mặt cơ thể, giác quan. Chính vì vậy các nhà kinh điển Mác-Xít đã
khẳng định người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thốt
khỏi trạng thái thuần túy là loài vật.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trị lao động sản xuất của con người:
“Có thể phân biệt con người với động vật bằng ý thức, bằng tôn giáo. Bản
thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con

người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của mình”. Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con
người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản
xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự
nhiên”.
1.2.2 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội
Theo Mác “bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hịa những quan hệ xã hội”. Chúng ta biết rằng luận
điểm này của Mác về con người, bản chất con người đã được rất nhiều
các khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn trích dẫn.
Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện
thực như đã nói ở bên trên đó là con người cụ thể, con người gắn với
những điều kiện cụ thể chấ không phải là con người chung chung ,
trừu tượng phi lịch sử. Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình
thành nên bản chất của con người nhưng trong đó quan hệ cơ bản, nền
tảng, quan hệ xuất phát đó chính là quan hệ sản xuất hay còn gọi là
quan hệ kinh tế - vật chất. Chính quan hệ kinh tế - vật chất là cơ sở
nảy sinh ra các quan hệ xã hội khác và đó chính là quan hệ quan trọng
nhất. Trên cơ sở quan hệ kinh tế - vật chất này, nó mới nảy sinh ra các
quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị, đạo đức, pháp luật, nảy sinh các
quan hệ về dân tộc, gia đình, tơn giáo.


4

Vấn đề cho rằng bản chất con người là tổng hịa xã hội thì có nhiều

cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét theo thời gian thì đó là những quan
hệ của con người từ quá khứ, hiện tại đến tương lai trong đó quan hệ
giữa người với người ở hiện tại giữ vai trò quyết định còn nếu xét theo
các quan hệ thì đó là những quan hệ vật chất và qaun hệ tinh thần tức
là xét theo các quan hệ của con người với con người thì đó là những
quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần trong đó quan hệ giữa người với
người ở lĩnh vực vật chất nó giữ vai trị quyết định cho mối
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba
mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội. Bởi vậy, để nhấn
mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng
trong Luận cương về Phoiơbắc :“Bản chất con người không phải là một
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội”. Luận đề trên khẳng
định rằng, khơng có con người trừu tượng thốt ly mọi điều kiện, hồn
cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện
lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp,
dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã
hội...) con người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa
là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn
nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở
bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết
học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người.
1.2.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con



5

người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh. Con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch
sử xã hội. Thế giới lồi vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên.
Con người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục
đích của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều
kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời
sống và bộ mặt xã hội. Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng
tồn tại quy luật
6
xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong
mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn ln vận động. Mặc dù là
“tổng hịa các quan hệ xã hội”, con người có vai trị tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích cực và tác động trở
lại hồn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan
hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng
lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất
kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

1.3 Quan điểm triết học Mác – Lênin về giải phóng con người
1.3.1 “Vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin về con người. Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phương thức sản xuất, để


6

giải phóng con người về phương diện chính trị là nội dung hàng đầu. Điều
kiện và tiền đề để giải phóng triệt con người, xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ chế
độ tư hữu chủ nhân ở trình độ rất cao.
Khi phân tích việc xã hội tư bản gây ra tình trạng tha hóa con người. Trên
cơ sở đó, ơng cho rằng, cách mạng xã hội giải phóng con người phải được
coi là sự kết thúc của những thay đổi ấy, trả con người về với bản chất của
nó. Theo C.Mác, cơ sở của sự tha hóa con người là chế độ sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi thế, việc “xóa bỏ chế độ
10 sở hữu tư sản” là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ mọi sự tha hóa của con
người, cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng lồi người và giải
phóng xã hội.
Tư tưởng về giải phóng con người trong triết học Mác – Lênin hoàn toàn
khác với các tư tưởng giải phóng con người của các học thuyết khác đã.
Tơn giáo quan niệm giải phóng con người là sự giải thoát khỏi cuộc sống
tạm khỏi bể khổ cuộc đời để lên cõi Niết bàn hoặc lên Thiên đường ở kiếp
sau. Một số học thuyết triết học duy vật cũng đã đề xuất tư tưởng giải
phóng con người bằng một vài phương tiện nào đó trong đời sống xã hội:
pháp luật, đạo đức, chính trị.“Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở
chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với
7
bản thân con người”, là “giải phóng người lao động thốt khỏi lao động bị

tha hóa”. Với cách đặt vấn đề như vậy, C. Mác đã coi giải phóng con
người, “phát triển sự phong phú của bản chất con người” là “mục đích tự
thân” của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giải phóng con người, phát triển
con người toàn diện cùng với phát triển lực lượng sản xuất, phát triển “nền
sản xuất xã hội” vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp
hơn và cho cả cộng đồng xã hội là “phương hướng duy nhất” để không chỉ
“làm tăng thêm nền sản xuất xã hội”, mà còn để “sản xuất ra những con
người phát triển toàn diện”.
1.3.2 “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”


7

Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, dân tộc và nhân loại,
bản chất của con người tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Sự phát triển tự
do của mỗi người chỉ có thể đạt được khi con người thốt khỏi sự tha hóa,
thốt khỏi sự nô dịch do chế độ tư hữu, các tư liệu sản xuất bị thủ tiêu triệt
để, khi sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay khơng cịn, khi con người khơng cịn bị trơi buộc bởi sự
phân cơng lao động xã hội.
Như vậy, có thể khẳng định, học thuyết Mác về con người và giải phóng
con người, giải phóng nhân loại chính là cái đã cùng với luận điểm của C.
Mác về sứ mệnh cao cả của triết học - khơng chỉ “giải thích thế giới”, mà
cịn phải “cải tạo thế giới” bằng cách mạng và quan niệm duy vật với lịch
sử với nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội mà ơng là người
đầu tiên phát hiện ra đã làm nên một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử
tư tưởng triết học nhân loại và mang lại cho triết học Mác một học thuyết
cách mạng triệt để. Chính vì lẽ đó mà V.I. Lê-nin khẳng định: Học thuyết
của C. Mác là “học thuyết vạn năng”, “học thuyết chính xác”, “học thuyết

hồn bị và chặt chẽ”, đã cung cấp cho chúng ta “một thế giới quan hoàn
chỉnh” để nhận thức và cải tạo thế giới; rằng, “triết học của chủ nghĩa Mác
là chủ nghĩa duy vật” và quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác
là “thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Trong thời đại ngày nay thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, học thuyết của C. Mác là học thuyết
cách mạng nhất, khoa học nhất, và với tư cách đó, nó cung cấp cho nhân
loại tiến bộ và nhất là cho giai cấp cơng nhân tồn thế giới một cơng cụ
nhận thức vĩ đại để cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã
hội chủ nghĩa.
8
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ X Y DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP X Y DỰNG CON NGƯỜI
2.1. Con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay (Nguồn: Con người và
nhân cách Việt Nam) Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm của dân tộc,
con người Việt Nam đã tạo nên cho mình những đặc điểm xác định về tư


8

duy và lối sống. Làm rõ những đặc điểm ấy cùng cơ sở hình thành và biến
đổi của chúng có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các chính
sách phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước,. Tuy nhiên, khi nghiên cứu chúng ta cần quan tâm
một số vấn đề sau đây. Một là, đặc điểm về tư duy và lối sống của con
người. Khi nghiên cứu về tư duy và lối sống của con người thì tư duy cần
được hiểu theo nghĩa rộng là hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở con
người, bao gồm ý nghĩ, ý thức, suy nghĩ, tri thức, hiểu biết.... Còn lối sống
là phương thức hoạt động của con người, bao gồm nếp sống, thói quen,
phong tục, tập quán,cách sinh hoạt,.. Hai là, đặc điểm chung về tư duy và
lối sống của con người Việt Nam. Đặc điểm chung về tư duy và lối sống
của con người Việt Nam là đặc điểm chung của con người Việt Nam thuộc

54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Chúng ta khó tìm ra được đặc
điểm chung về tư duy và lối sống của tất cả người Việt Nam. Chẳng hạn,
cần cù thường được coi là một đặc điểm chung của con người Việt Nam,
nhưng thực ra đó chỉ là đặc điểm của đa số người Việt Nam; bởi, trên thực
tế, vẫn có một số người Việt Nam khơng cần cù (mặc dù số người này chỉ
chiếm tỷ lệ rất nhỏ). Ba là, đặc điểm của con người Việt Nam hiện nay.
Trong số các đặc điểm của con người Việt Nam hiện nay, có một số đặc
điểm được hình thành từ cách đây hàng ngàn năm. Con người Việt Nam từ
trước 1986 có những đặc điểm như ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước, coi
thường thương nghiệp, coi thường người buôn bán. Một số đặc điểm của
con người Việt Nam truyền thống không là đặc điểm của con người Việt
Nam hiện nay (ví dụ nam giới để tóc dài, phụ nữ nhuộm răng đen là những
đặc điểm của con người Việt Nam truyền thống). Một số đặc điểm của con
người Việt Nam truyền thống đồng thời là đặc điểm của con người Việt
Nam hiện nay (ví dụ: yêu nước, cần cù, hiếu học). Một số đặc điểm của
con người Việt Nam hiện nay không phải là đặc điểm của con người Việt
Nam truyền thống (ví dụ: chấp nhận cạnh tranh trong môi trường hội nhập
quốc tế, đề cao nhu cầu tự do và dân chủ).
Bốn là, các đặc điểm chung và riêng về tư duy và lối sống của con người


9

Việt Nam. Trong số các đặc điểm về tư duy và lối sống của con người
Việt Nam khơng chỉ có những đặc điểm của
9
riêng con người Việt Nam, mà còn có những đặc điểm chung với một số
hoặc tất cả dân tộc khác. Ví dụ, hệ tư tưởng và lối sống Nho giáo là một
đặc điểm về tư duy và lối sống của một bộ phận đáng kể con người Việt
Nam. Các đặc điểm như yêu nước, cần cù, hiếu học, khoan dung, đoàn kết,

trọng nghĩa... cũng là những đặc điểm chung của người Việt Nam và nhiều
dân tộc khác.
Năm là, đặc điểm bản sắc về tư duy và lối sống. Những đặc điểm cơ bản
tạo nên bản sắc dân tộc Việt Nam: “Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí
tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống...” đó là những đặc điểm bản sắc về tư duy và
lối sống của con người Việt Nam.
2.2 Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối
với con người Việt Nam (Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản “Tiếp tục
đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới”- Tác giả: TS Bùi Thế Đức)
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta tiếp tục vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm đã
được rút từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chặng đường lịch sử. Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì dân. Tồn bộ hoạt
động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường
đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Muốn kiên định, kiên quyết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thì
càng phải nâng cao năng lực, chống tha hóa, biến chất trong cán bộ, đảng
viên, thực hiện liêm, chính trong Đảng. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần


10

phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng
làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức phấn đấu xây dựng, phát
triển đất nước theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, phấn đấu thực hiện các mục tiêu: Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng,
10
Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển
đất nước nhanh, bền vững; không ngừng nâng cao mức sống của nhân
dân; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực,
nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu sớm đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại theo mục tiêu Nghị quyết
Đại hội lần thứ XII của Đảng, tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đến giữa
thế kỷ XXI trở thành nước phát triển có cơng nghiệp hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Để triển khai hiệu quả “nhiệm vụ kép”, vừa chống dịch COVID-19 vừa
phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân
và giữ vững độc lập, chủ quyền; mơi trường hịa bình, ổn định để phát
triển đất nước.
Năm 2014, sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII về văn hóa, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã ban
hành Nghị quyết 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (Nghị
quyết số 33), trong đó, đề cao việc phần xây dựng con người phát triển
toàn diện.
Một là, “bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối



11

sống và nhân cách”. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong chăm lo xây dựng
con người. Lấy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản,
cốt lõi đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhân cách
làm thước đo đánh giá con người trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, xã
hội, hướng tới giá trị nhân văn.
Hai là, “Xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân thiện - mỹ”. Sống trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
sâu rộng quốc tế, đang diễn ra cuộc cách mạng 4.0, địi hỏi mỗi con người
Việt Nam phải có thế giới quan khoa học trong nhìn nhận, đánh giá sự vật,
hiện tượng và xử lý các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Vấn đề cốt lõi
của thế giới quan khoa học là tư tưởng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, trang bị cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân nhận thức và cải tạo thế giới. Muốn có thế giới quan
khoa học, Đảng yêu cầu:“Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập”.
Ba là, “Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người”;
11
hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường”. Đây là lối sống thể hiện bản chất
chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thể hiện mối quan hệ “cái chung” và
“cái riêng”, đặt “cái ta” lên trên “cái tôi”, đề cao trách nhiệm cá nhân đối
với bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, Đảng khẳng định trong xây dựng
con người phải: “Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao
thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
Bốn là, xây dựng con người phát triển toàn diện, quy lại trong bốn giá trị
cốt lõi là Trí - Đức - Thể - Mỹ. Thực tiễn cho thấy thể lực, tầm vóc, sức

dẻo dai của con người Việt Nam còn hạn chế. Do vậy, Đảng chủ trương:
“Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với


12

giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. (Nghị quyết 33) Năm là, xây đi đôi với chống. Xây dựng phẩm
chất tốt đẹp, nhân cách nhân ái, cao thượng, bao dung, thân thiện của
người Việt Nam đồng thời với đấu tranh với mọi biểu hiện cản trở, làm tha
hóa nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người. Đảng đề ra nhiệm vụ: “Đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan
điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa,
làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của
con người Việt Nam”.
2.3 Vấn đề xây dựng con người cách mạng Việt Nam đáp ứng yêu cầu
khách quan cách mạng hiện nay
2.3.1 Về vai trị, vị trí của con người trong chiến lược phát triển
Ý thức được vai trò, vị trí của nguồn lực con người trong phát triển đất
nước, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta những năm qua đã ban
hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác giáo dục, đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; xác định giáo dục và
đào tạo là “quốc sách hàng đầu”; đầu tư cho giáo dục luôn được ưu tiên,
chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ CNH, HĐH là phát
triển văn hóa phải hướng đến mục tiêu phát triển con người, làm cho con
người trở nên hoàn thiện về nhân cách, tâm hồn. Con người là trung tâm

của mọi chiến lược phát triển, như Văn kiện Đại hội XII đã khẳng định:
“Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát
triển, xây dựng
12
con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ
đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển”. Việc coi trọng phát triển
văn hóa, xây dựng nhân cách con người là nhiệm vụ trọng tâm, vấn đề căn


13

cốt tạo thế và lực vững chắc để Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
2.3.2 Những thách thức trong xây dựng, phát triển con người
Hội nhập, giao lưu quốc tế một mặt mang lại điều kiện, cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển, nhưng cũng khiến con người Việt Nam phải đối diện với
khơng ít khó khăn, thách thức. Đó là: Thứ nhất, sự suy thối về tư tưởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
những cán bộ giữ vị trí cấp cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
đến thanh thiếu niên và người dân lao động. Tệ nạn tham nhũng, chạy
chức chạy quyền diễn biến phức tạp, ngày càng tinh vi, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến uy tín của Đảng và sự trong sạch, nghiêm minh của bộ máy
công quyền. Những năm gần đây đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án tham
nhũng làm thất thoát tiền của của Nhà nước. Tệ nạn xã hội ở tầng lớp
thanh thiếu niên có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu của Cục Phòng
chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động, thương binh và xã hội), “tính đến tháng
7-2014, số người bán dâm ước tính là gần 33 nghìn người. Số người nghiện
ma túy có hồ sơ quản lý là 204.377 người tính đến tháng 9-2014. Tỷ lệ
người nghiện ma túy không ngừng tăng qua các năm, đặc biệt là các tỉnh
thành phía Nam, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng.... Bên cạnh đó, những

vụ án giết người hàng loạt xảy ra ở trẻ vị thành niên, thanh niên với mức
độ và tính chất đặc biệt nghiêm trọng, điển hình như vụ Lê Văn Luyện
(Bắc Giang), Nguyễn Hải Dương (Bình Dương)… đã dấy lên hồi chng
cảnh báo về sự “tha hóa nhân cách” con người. Đây là một hiện tượng
nhức nhối trong xã hội, có nhiều nguyên nhân: sự bng lỏng quản lý, giáo
dục của gia đình, xã hội; sự thực thi pháp luật thiếu nghiêm minh; sự trỗi
dậy của chủ nghĩa cá nhân… Thứ hai, sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn
hóa giữa các thế hệ. Đây là một hạn chế trong công tác chăm lo, phát triển
con người mà Đại hội XII cho rằng một trong những nguyên nhân là “tình
trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn
hóa nước ngồi đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ
phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”, “Một số cơ quan truyền thơng có biểu hiện


14

thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định
hướng dư luận và xây dựng con người”. Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ
thông tin, sự phát triển nhanh như vũ bão của internet, mạng xã hội; báo
điện tử; kênh truyền hình giải trí…
13
mang lại những thơng tin bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận
thông tin thuận tiện dễ dàng; khả năng chia sẻ, kết nối cao… Bên cạnh đó
cũng để lại nhiều hệ lụy như: nạn nghiện game online; sự gia tăng ngơn
ngữ tiếng lóng, ngơn từ ký hiệu làm méo mó và mất đi sự trong sáng của
tiếng Việt; nhiều bạn trẻ lệ thuộc vào không gian ảo đã đánh mất đi những
giá trị thực... khiến mỗi cá nhân là một khơng gian khép kín thiếu sự gắn
kết, chia sẻ giữa các thành viên, thiếu sự quan tâm đến các vấn đề xã hội
và làm giảm trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Hiện tượng sống thử
trước hôn nhân; nạn nạo phá thai tuổi vị thành niên, tình trạng ly hơn trong

các gia đình trẻ gia tăng. Bạo hành gia đình giữa vợ - chồng, cha mẹ - con
cái; tranh giành tài sản đất đai…
Thứ ba, sự trỗi dậy của những thói quen xấu. Đi lên CNXH từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, từng là thuộc địa của thực dân, đế quốc, con người
Việt Nam bên cạnh những đức tính, phẩm chất tốt vẫn cịn nhiều thói quen
xấu: chủ nghĩa cơ hội, bè phái; hám danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật;
lãng phí; khả năng làm việc tập thể chưa cao… Con người vẫn phải sống
trong những
môi trường thiếu lành mạnh, trong sạch, bị những sản phẩm, hiện tượng
phi văn hóa cám dỗ. “Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo
nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu,
vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.
Mơi trường văn hóa cịn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại
lai, trái với thuần phong mỹ tục”. Để tạo dựng hình ảnh Việt Nam với tình
hình chính trị ổn định; con người thân thiện, lịch sự, mến khách; có bề dày
truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời… thì việc quan tâm chăm lo xây
dựng những con người mới - những chủ nhân của đất nước phải được tiến


15

hành đồng bộ với chương trình, mục tiêu cụ thể, lâu dài, bảo đảm cho sự
phát triển bền vững.
2.3.3 Một số định hướng xây dựng, phát triển con người Việt Nam hiện
nay Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-62014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước, Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ thể là:
“Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo
mơi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương

tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng
đồng, xã hội và đất nước”. Trọng tâm của nhiệm vụ xây dựng văn hóa là vì
sự hồn thiện nhân cách con người, chăm lo xây dựng con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc
14
tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù,
sáng tạo. Để phát huy những điểm mạnh, những nhân tố tích cực, đồng
thời hạn chế, khắc phục những yếu kém của con người Việt Nam, trong
chỉ thị, Nghị quyết, Đảng đã chỉ ra những phương hướng, nhiệm vụ, giải
pháp căn bản là:
Thứ nhất, về xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống. Chăm lo xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng con
người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây
dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của cơng dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập. Xây dựng và
phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình
thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, bảo vệ mơi trường; kết hợp hài hịa tính tích cực cá nhân và


16

tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình
và xã hội.
Thứ hai, chú trọng vấn đề an ninh con người, với những nhiệm vụ cụ thể
như: Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống
các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền

văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự
xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế. Phát huy giá
trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo
dục, rèn luyện con người. Xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa". Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa
giữa thành thị và nơng thơn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tơn giáo, tín ngưỡng.
Thứ ba, bồi dưỡng, giáo dục những giá trị nhân văn cho con người, thông
qua việc tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm
mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của
văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con
người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân
và của cộng đồng.
15
Thứ tư, nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho con người, gắn với việc
giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng phát triển con người là
điều kiện tiên quyết để xây dựng thành cơng CNXH ở Việt Nam. Bởi
“muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Vì thế, việc xây dựng, hình thành nên những người Việt Nam có
phẩm chất, năng lực, “vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ trọng tâm trong
các chương trình, kế hoạch của các cấp, các ngành.
2.4 Giải pháp xây dựng con người Việt Nam
Thực trạng phát triển con người Việt Nam trong những năm đổi mới vừa


17


qua cho thấy: ngoài một số kết quả đã đạt được vẫn còn rất nhiều khiếm
khuyết, lệch lạc trong cách hiểu, cách nghĩ và việc làm cần phải sớm khắc
phục. Để làm tốt điều đó, vận dụng kết quả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh, người viết đã rút ra một số kinh nghiệm và đó cũng chính là đề xuất
giải pháp cho việc xây dựng con người Việt Nam trong thời gian sắp tới
với nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Hoạt động của giáo dục và đào
tạo liên quan trực tiếp đến sự phát triển mọi mặt của con người, góp phần
quyết định hình thành nên các phẩm chất, năng lực của mỗi cá nhân. Vì
vậy, để xây dựng và phát triển con người ở nước ta đáp ứng được q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải quan tâm hơn nữa đến
giáo dục, đào tạo; phải đề ra được nội dung, chương trình giảng dạy và
học tập thật sự khoa học, trong đó việc dạy chữ, dạy nghề và dạy người
phải được kết hợp chặt chẽ, hài hồ, cân đối.
Thứ hai, về mặt thể chế, chính sách song song với việc quan tâm, chăm lo
giáo dục và đào tạo thì việc chú trọng tạo mơi trường thuận lợi để con
người Việt Nam có cơ hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển
toàn diện về phẩm chất, năng lực của bản thân. Lấy mục tiêu phát triển
con người làm trọng tâm, mục đích cao nhất, từ đó có những chính sách
phù hợp như: y tế, giáo dục, việc làm, bảo hiểm,... Để làm được điều này,
cần quan tâm đồng bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội:
Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu cuối
cùng và trên hết đó chính là nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Trên lĩnh vực chính trị: khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng
cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo
16
điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước, quản lý

xã hội. Trên lĩnh vực văn hóa: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản


18

sắc dân tộc được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động của văn hóa nhằm xây dựng con người
Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung,
tơn trọng nghĩa tình, quan hệ hài hồ trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Thứ ba, xây dựng con người Việt Nam có đầy đủ phẩm chất đạo đức và
năng lực chuyên môn thông qua hoạt động thực tiễn. Trong quá trình hoạt
động thực tiễn con người đã tạo ra được một "thiên nhiên thứ hai" của
mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới
cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn khơng có sẵn trong tự nhiên.
Trong điều kiện Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa
xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém. Năng suất lao động chưa
cao nên quá trình lao động rất nặng nhọc, vất vả. Điều này địi hỏi người
lao động phải có tinh thần chịu đựng khó khăn, gian khổ, phải có sức khoẻ
thì mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề mà sự nghiệp xây dựng
xã hội mới đặt ra.. Lao động sản xuất trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn,
nặng nhọc là sự thử thách tồn diện về ý chí, thể lực của con người Việt
Nam. Vì vậy, việc tham gia lao động sản xuất sẽ rèn luyện ý chí, nghị lực
vượt khó khăn, gian khổ cho con người Việt Nam, cũng như ý thức bảo vệ
và không ngừng nâng cao thể lực, sức khoẻ của họ. Chính điều đó đã góp
phần quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn đổi mới đất nước.
17
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối quan

hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã
hội nói chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không
thể thiếu được của thế giới quan Mác- Lênin. Con người là khái niệm chỉ
những cá thể người như một chỉnh thể, trong sự thống nhất giữa mặt sinh
học và mặt xã hội của nó. Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học
của con người thì khơng thể giải thích được bản chất của con người, con


19

người là một thực thể đặc biệt hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo
cho mình.
Từ tự nhiên và chính trong q trình hoạt động đó những quan hệ xã hội
được hình thành có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành nhân cách, bản
chất con người Mác viết “Con người là tổng hòa của những quan hệ xã
hội”. Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong CMXHCN
con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của
một chính sách kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã
hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật
chất và tinh thần. Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa; cho tới nay tuy
chúng ta đã đạtđược những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh
thần của đại đa số, người dân còn thiếu.
Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và quan điểm chủ nghĩa
Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hướng đất nước ta cần phải đi
đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực hiện thành cơng cơng cuộc cơng
nghiệp hố hiện đại hóa đất nước, có như vậy chúng ta mới vượt qua được
cái ngưỡng của nghèo nàn và lạc hậu.

In đậm là youtube
Còn thường là copy của bài mua



20


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC


×