Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.48 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN – GDTC
***********

TIỂU LUẬN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Tên tiểu luận: “Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và
những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt
Nam hiện nay?”

Sinh viên thực hiện:

Phạm Ngọc Hùng

Mã sinh viên:

72DCKT20079

Lớp:

72DCKT22

Khoá:

72

Giảng viên hướng dẫn:

Lê Thị Huyền


Hà Nội – 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 2
I. Nguyên nhân, bản chất và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. ............... 3
1.1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. .......................................................... 3
1.2. Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. ..... 3
1.3. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. ............................................. 4
1.4. Những đặc điểm chủ yếu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. ................... 5
II. Những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước................................................................................................................................................. 9
2.1. Biểu hiện mới trong cơ chế quan hệ nhân sự. ................................................................. 9
2.2. Biểu hiện mới về sở hữu nhà nước. ................................................................................. 9
2.3. Biểu hiện mới trong vai trò điều tiết kinh tế.................................................................. 10
III. Vận dụng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay. . 10
3.1. Thực trạng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay. ............................................................... 10
3.2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước ta. ................... 12
3.2.1 Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở hữu tư nhân
trong và ngoài nước. ......................................................................................................... 12
3.2.2 Thành lập cơng ty cổ phần, cổ phần hố xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản
nhà nước. .......................................................................................................................... 12
3.2.3 Đặc khu kinh tế ........................................................................................................ 13
3.2.4 Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu....................................................................... 14
3.2.5 Cho tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh, các tư liệu sản
xuất thuộc sở hữu toàn dân. .............................................................................................. 14
3.2.6 Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà
nước. ................................................................................................................................. 14
3.3 Điều kiện vận dụng độc quyền nhà nước để phát triển kinh tế Việt Nam. ..................... 15
3.3.1 Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ thuộc vào tính

chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy. ............................................... 15
3.3.2 Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa................................ 15
3.3.3 Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật. ........................................................ 16
IV. Kết luận .................................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................... 17

1


MỞ ĐẦU
Sau đến giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên giai
đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước. Đây là những địn bẩy để đất nước ta có thể phát triển
và bắt kịp các nước khác trong thời đại cơng nghiệp hố hiện đại hố như hiện
nay.
Việt Nam từ sau đại hội Đảng năm 1986, chúng ta đã thực hiện chính sách
mở cửa, mục tiêu xây dựng. nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ
thông tin phát triển như vũ bão, kinh tế công nghiệp đang chuyền dần sang kinh
tế tri thức, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã vận đụng rất linh
hoạt, thành công những lí luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong
việc điều hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Từ những điều đưa ra trên, em xin trình bày đề tài tiểu luận “Phân tích
ngun nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai đoạn
hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Vận dụng vấn đề này vào
nền kinh tế Việt Nam hiện nay” để làm rõ vấn đề này.

2



I. Nguyên nhân, bản chất và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
1.1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất của ba q
trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng
vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư
nhân với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ
máy nhà nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Một là, sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước.
Hai là, sự hình thành, phái triển sở hữu nhà nước.
Ba là, sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản.
1.2. Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền nhà nước trong chủ
nghĩa tư bản.
Theo V.I. Lênin, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đến mức
độ nhất định, tất yếu dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước. Đó là khuynh hướng tất yếu. Tuy nhiên, chỉ đến những năm giữa thế kỷ
XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và
là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thể hiện một trình độ phát triển mới
của chủ nghĩa tư bản.Trong đó về mặt kinh tế, độc quyền phát triển lên trình độ
cao hơn độc quyền của nhà nước.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ra đời do những nguyên nhân
chủ yếu sau đây:
Một là, tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất
càng cao, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi phải có một sự điều tiết từ
một trung tâm đối với sản xuất và phân phối.
Sự phát triển của trình độ xã hội hố lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu
cầu khách quan là nhà nước với tư cách đại biểu cho toàn bộ xã hội phải quản lý
3



nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sản xuất càng phát
triển thì lực lượng sản xuất xã hội hoá ngày càng cao, nhưng quan hệ sản xuất
lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, do
đó tất yếu địi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để mở đường
cho lực lượng sản xuất có thể phát triển. Hình thức mới của quan hệ sản xuất đó
chính là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một
số ngành mới có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng các tổ
chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn,
thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thụộc kết cấu hạ tầng như
năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản,... Vì vậy,
nhà nước phải đứng ra đảm nhận phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho các
tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm gia tăng sự phân hóa giàu
nghèo, làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Trong điều kiện
như vậy đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những
mâu thuẫn đó, như các chính sách trợ cấp thất nghiệp....
Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng
của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc
và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó địi hỏi
phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng thể
thiếu vai trị của nhà nước.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách
mạng khoa học cơng nghệ hiện đại cũng địi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào
đời sống kinh tế.
1.3. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm phục vụ lợi
ích của các tổ chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư
bản.

4


Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất của ba q trình
gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò
can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với
sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy nhà
nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Trong cơ cấu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, nhà nước đã trở
thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước cũng là chủ sở hữu những doanh nghiệp,
là nhà tư bản tập thể, và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài
sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó
thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích
hợp đối với xã hội đó. Ngày nay vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, khơng
chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà cịn có vai trị tổ chức và
quản lý xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các đòn bẩy kinh tế
vào tất cả các khâu của quá trình tới sản xuất là sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là hình thức vận động mới của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn còn
những sự phù hợp nhất định với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, làm cho
chủ nghĩa tư bản vẫn thích nghi với điều kiện lịch sử mới và do đó vẫn tiếp tục phát
triển.

1.4. Những đặc điểm chủ yếu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư
bản.
Một là, sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân
hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của các ngân

hàng và cơng nghiệp với chính phủ: "Hơm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ
ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng". Sự kết hợp về
nhân sự được thực hiện thơng qua các đảng phái. Chính các đảng phái này đã tạo
cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây
5


dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Đứng đằng sau các đảng phái
này là một lực lượng có quyền rất hùng hậu, đó chính là các Hội chủ xí nghiệp,
Chính các Hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là
chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các Hội chủ này hoạt động
thông qua các đảng phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng,
quyết định về mặt nhân sự và đường lối chính trị kinh tế của các đảng, tham gia
vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở các cấp. Vai trò của các hội lớn đến mức
mà dư luận thế giới đã gọi chúng là “những chính phủ đằng sau chính phủ”,
“một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực” của chính quyền thơng qua các Hội
chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà
nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên
chính phủ được “cài cắm” vào ban quản trị của các tổ chức độc quyền giữ những
chức vụ chính thức hoặc danh dự hoặc trở thành những người đỡ đầu cho các tổ
chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra
những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Hai là sự hình thành phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư
bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền
nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện khơng
những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ
giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân. Hai loại sở hữu này đan kết
với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở hữu nhà nước

không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ
máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và
trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông vận tải, giáo
dục, y tế, bảo hiểm xã hội,... Trong đó, ngân sách nhà nước là bộ phận quan
trọng nhất sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau:
xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các
6


doanh nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh
nghiệp tư nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các
doanh nghiệp tư nhận.
Sở hữu nhà nước thực hiện được các chức năng cơ bản sau: Thứ nhất, mở
rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản.Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản
của các tổ chức độc quyền đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau,
chuyển từ những ngành ít lãi sang những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn một
cách dễ dàng, thuận lợi. Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ
nghĩa theo những chương trình nhất định.
Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước thì thị trường nhà nước cũng
hình thành và phát triển. Sự hình thành thị trường nhà nước thể hiện ở việc nhà
nước chủ động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của
các doanh nghiệp độc quyền thông qua những hợp đồng được ký kết. Việc ký
kết các hợp đồng giữa nhà nước và các tổ chức độc quyền tư nhân đã giúp các tổ
chức độc quyền tư nhân khắc phục được phần khó khăn trong thời kỳ khủng
hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được diễn ra bình
thưởng. Các hợp đồng ký kết với nhà nước giúp cho các tổ chức độc quyền tư
nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa đảm bảo lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục
được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược. Sự tiêu thụ của nhà
nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng của nhà nước với độc quyền tư

nhân, quan trọng hơn cả là các đơn đặt hàng quân sự do ngân sách chi mỗi ngày
một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư nhân kiếm được một
khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất các
loại hàng hố đó cao hơn hản tỷ suất lợi nhuận thông thường.
Ba là, sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của độc quyền nhà nước
trong chủ nghĩa tư bản là sự điều tiết quá trình kinh tế của nhà nước.

7


Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những
thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với
hệ thống chính sách, cơng cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, tồn bộ q trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của
nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm sốt, uốn
nắn những lệch lạc bằng các cơng cụ kinh tế và các cơng cụ hành chính - pháp
lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như
lập chường trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo
vệ môi trường, bảo hiểm xã hội, ... và bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Các công cụ chủ yếu của nhà nước để điều tiết kinh tế và thực hiện các
chính sách kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh
nghiệp nhà nước, kế hoạch hố hay chương trình hố kinh tế và các cơng cụ
hành chính, pháp lý. Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp và về mặt nhận sự có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư
bản độc quyền lớn và các quan chức nhà nước. Bên cạnh bộ máy này còn có
hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình thức khác nhau, thực hiện
"tư vấn" nhằm "lái" đường lối phát triển kinh tế theo mục tiêu riêng của các tổ
chức độc quyền.
Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế:

thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản
độc quyền.
Ngày nay, nổi bật hơn cả trong những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước là nhà nước chú ý việc ban hành và thực hiên một hệ thống
các chính sách xã hội nhằm hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, giải
quyết các mâu thuẫn giai cấp xã hội, thực hiện sự công bằng xã hội ở mức độ
nhất định trong điều kiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

8


II. Những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước.
2.1. Biểu hiện mới trong cơ chế quan hệ nhân sự.
Sự phát triền của trình độ dân trí và quy luật cạnh tranh trong xã hội tư
bản ngày nay dẫn đến sự thay đổi về quan hệ nhân sự trong bộ máy chính quyền
nhà nước. Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền lực nhà nước trở thành pho
biến. Tại các nước tư bản phát triển nhất xuất hiện cơ chế thỏa hiệp để cùng tồn
tại, cùng phân chia quyền lực giữa các thế lực tư bản độc quyên không cho phép
bât kỷ một thê lực tư bản nào độc tôn, chuyên quyền ở các nước tư bản phát
triển.
2.2. Biểu hiện mới về sở hữu nhà nước.
Chi tiêu ngân sách nhà nước là công việc thuộc quyền của giới lập pháp.
Giới hành pháp bị giới hạn, thậm chí bị quản lý chặt chẽ bằng luật Ngân sách
nhà nước. Chống lạm phát và chống thất nghiệp được ưu tiên.
Dự trữ quốc gia trở thành nguồn vốn chỉ có thề dược sử dụng trong những
tình huống đặc biệt; cổ phần của nhà nước trong các ngân hàng và cơng ty lớn
trở thành phổ biến.

Vai trị của đầu tư Nhà nước đổ khắc phục những chi phí tốn kém trong
nghiên cứu khoa học cơ bản, trong xây dựng kết cấu hạ tàng và giải quyêt các
nhu câu mang tính xã hội ngày càng tăng lên ở các nước tư bàn phát triển. Nhà
nước đã dùng ngân sách của mình để tạo nên những cơ sở vật chất, gánh chịu
các rủi ro lớn, cịn các cơng ty tư nhân tập trung vào các lĩnh vực có lợi nhuận
hấp dẫn.
Nhờ lợi thế vượt trội của mình về tiềm lực khi tham gia đấu thầu các dự
án đầu tư bằng Ngân sách nhà nước cho nên các tập đoàn độc quyền lớn thường
thu được lợi nhuận khổng lồ trong thực hiện các đơn đặt hàng trong các dự án
đầu tư của Nhà nước.
Nhà nước tư sản hiện đại là nhân tố quyết định trong ồn định kinh tế vĩ
mô thơng qua thu - chi ngân sách, kiềm sốt lãi suất, trợ cấp và trợ giá, kiềm
9


sốt tỉ giá hối đối, mua sắm cơng,... Trong những điều kiện nhất định như
khủng hoảng kinh tế, ngân sách nhà nước cịn được dùng để cứu những tập dồn
lớn khỏi nguy cơ phá sản.
2.3. Biểu hiện mới trong vai trò điều tiết kinh tế.
Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày nay tập
trung trong một số hạn chế lĩnh vực. về chính trị, thì các chính phủ, nghị viện tư
sản hiện đại cũng được tổ chức như một công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa. Sự
tham dự của các đảng đối lập kể cả Đảng cộng sản trong Chính phù hoặc trong
Nghị viện cũng chi được chấp nhận ở mức độ chưa đc dọa quyền lực khống chế
của giai cấp tư sản độc quyền. Với ý nghĩa đó “đa nguyên tư sản” được tàng ỉớp
tư sản độc quyền sử dụng vừa đổ làm dịu đi làn sóng đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân tiến bộ chống sự bóc lột, khống chế của tư bản lũng đoạn vừa làm suy
yếu sức mạnh của các lực lượng đối lập. Còn một khi thấy xuất hiện nguy cơ bị
mất quyền chi phối thì ngay lập tức sẽ có giải tán chính phủ, quốc hội hoặc thiết
qn luật, tình trạng khẩn cấp thậm chí đảo chính quân sự.

Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước có xu hướng gia tăng. Viện trợ cho
nước ngồi của Chính phủ trở thành một bộ phận của điều tiết kinh tế trong
nước. Được chỉ định thực hiện những dự án đó là một cơ hội lớn mà khơng có
tập dồn độc quyền nào khơng quan tâm. Chỉ cằn điều này thôi cũng đủ lý giải
cho thực tế là trong các dự án viện trợ song phương, nước tiếp nhận chỉ được
nhận một phần ít ỏi bằng ngoại tệ cịn đa phần là hàng hóa, cơng nghệ, thiết bị
và chun gia của nước cung cấp.
III. Vận dụng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vào nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.
3.1. Thực trạng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta có thể thấy nền kinh tế của nước ta là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, đang trong quá trình phát triển đa số là các hoạt động nông
nghiệp. Công nghiệp nhỏ bé, thương nghiệp, giao thông vận tải chưa phát triển.
10


Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công
cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta
từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện
đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tế
nước ta cũng đang được chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong đó,
kinh tế tư bản nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một
chủ trương đúng đắn của Đảng vì những nguyên nhân sau đây:
Do nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu
tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến
khích tự do trao đổi hàng hố, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Như
vậy, sự tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách quan
vừa như là một sách lược kinh tế của nhà nước để định hướng cho các thành

phần kinh tế khác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp đến nước ta là một nền công nghiệp sản xuất nhỏ chiếm ưu thế thì
chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là mối liên kết trung gian giữa nền sản xuất nhỏ và
chủ nghĩa xã hội, đồng thời giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất vì kinh
tế tư bản nhà nước có ưu thế vốn, kỹ thuật và công nghệ cũng như những kinh
nghiệm và biện pháp quản lý tiên tiến.
Cuối cùng, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp
với xu thế quốc tế hố đang diễn ra trên tồn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực
Đông Nam Á. Chúng ta không thể phát triển được nêu không mở rộng quan hệ
kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã
hội cũng như các nước tư bản chủ nghĩa.
Từ đó, chúng ta thấy sự tồn tại của độc quyền nhà nước vừa là tất yếu
khách quan, vừa là một sách lược kinh tế để định hướng cho các thành phần
kinh tế khác.

11


3.2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước
ta.
3.2.1 Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở
hữu tư nhân trong và ngồi nước.
Thơng qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu
ngoại quốc, nhà nước có thể huy động được vốn, đổi mới kĩ thuật và quy trình
cơng nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời nhà nước cũng thực hiện
lợi nhuận được lợi nhuận,chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điểu tiết sự
phát triển để thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế với cơ cấu sản phẩm cho phù hợp
với nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước.
Trong liên doanh, chúng ta phải chủ động tích cực tìm đối tác, trước hết là
các tập đoàn xuyên quốc gia, kinh doanh nhiều ngành, bởi vì những tập đồn

này có đặc trung là rất linh hoạt, có những quan hệ bền vững với nhiều nước, có
bộ máy tiêu thụ đã được sắp đặt hồn hảo. Nhưng cũng có một số điều cần được
chú trọng. Chẳng hạn như, trong phân cơng lao động thì các nước chưa phát
triển thường phân công nhiều người chi một quy trình đơn giản, cịn các nước
phát triển thì ngược lại, họ vận dụng khoa học hiện đại để làm điều đó.
3.2.2 Thành lập cơng ty cổ phần, cổ phần hố xí nghiệp để thành lập xí
nghiệp tư bản nhà nước.
Cơng ty cổ phần, cổ phần hố xí nghiệp khơng phải là vấn đề mới mẻ, cái
mới ở đây là vấn đề này được đặt trong điều kiện của nhà nước xã hội chủ nghĩa
của nước ta hiện nay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, công ty cổ phần được xem
là một tất yếu kinh tế. Sự tồn tại của nó khơng những chỉ là kết quả của q trình
tích tụ vốn, mà cịn là nhu cầu khách quan của việc củng có tính hiệu quả của
nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, của quốc doanh nói riêng.
Cùng với việc xây dựng các công ty cổ phần là việc bán cổ phần và thu
hút vốn, công ty cổ phần được thành lập trên cơ sở các xí nghiệp quốc doanh
12


hiện hành bằng biện pháp “cổ phần hố xí nghiệp” mà gần đây được bản tới
nhiều. Thực chất cổ phần hố xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở
hữu nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp; là làm gọn nhẹ, tối ưu thành phần
kinh tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế tập thẻ, cá thể, tư nhân. Nó là một
giải pháp nhằm thốt khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của một số xí nghiệp quốc
doanh.
Tuy nhiên, việc chuyển thành công ty cổ phân chỉ nên diễn ra ở những
ngành mà tư nhân có khả năng về vốn và sức đầu tư như may, dệt, sành sứ, thuỷ
tinh, sản xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản có quy mơ vừa và nhỏ, nhiều cơ
sở vận tải đường bộ, đường thuỷ, thương nghiệp bán lẻ, dịch vụ...
3.2.3 Đặc khu kinh tế

Đặc khu kinh tế hay khu kinh tế đặc là khu vực có địa giới xác định, có
diện tích rộng hơn khu cơng nghiệp, khu chế xuất thuộc lãnh thổ quốc gia. Đặc
biệt, khu vực này được áp dụng các ưu đãi về chế độ hải quan, ngoại hối, thuế,
thị thực đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc khu kinh tế thành lập nhằm
mục đích đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, nhằm thu hút vốn nước ngồi,
tiếp nhận với cơng nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý kinh tế, mục đích cuối
cùng là giảm bớt chi phí xuất nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế.
Có thể thấy được một số đặc điểm tiêu biểu của đặc khu kinh tế:
Đặc khu kinh tế là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế đối
ngoại, mang tính chất mới của nền kinh tế thế giới.
Đặc khu kinh tế không chỉ xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa mà còn
xuất hiện ở các nước có chế độ chính trị khác nhau, nó cịn xuất hiện ngay ở
những đất nước tư bản.
Vị trí địa lý thuận lợi là yếu tố quan trọng nhất trong việc lựa chọn thành
lập đặc khu kinh tế. Chúng ta có thể thấy, các đặc khu kinh tế thường đặt ở

13


những trung tâm hoặc các địa điểm nằm trên các trục giao thơng thuận tiện cho
việc giao lưu hàng hố với nước ngồi.
3.2.4 Khu cơng nghiệp chế biến xuất khẩu.
Khu chế xuất là khu công nghiệp đặc biệt chỉ dành cho việc sản xuất, chế
biến những sản phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài hoặc dành cho các loại doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu
tại khu vực đó với các ưu đãi về các mức thuế xuất nhập khẩu. Đặc khu kinh tế
cũng như chế xuất, về thực chất được coi là các hình thức của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước. Ở đây khơng phải chỉ có một hình thức kinh tế tư bản nhà
nước đơn độc, thuần t mà có nhiều hình thức cụ thể.

3.2.5 Cho tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh,
các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.
Trong nền kinh tế của đất nước ta đang có rất nhiều cách kinh doanh đa
dạng trên cùng một cơ sở dữ liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất thuộc sở hữu toàn
dân: chế độ kinh doanh của nhà nước, của tập thể, của từng hộ riêng lẻ, chế độ
kinh doanh hỗn hợp. Có thể thấy chúng ta có thể phát triển hình thức liên doanh,
liên kết rộng rãi khơng chỉ trong mà cả ngồi nước. Cần mở rộng việc cho thuê
đất qua nhiều hình thức khác nhau. Khuyến khích phát triển những hộ kinh
doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực: trông trọt, chăn nuôi, kinh tế vườn, rừng, kinh
tế gia đình, đặc biệt những hộ kinh doanh lớn tổng hợp hoặc chun canh, có
hoặc khơng th mướn lao động. Đó là con đường hiệu quả nhất để phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, chuyển đổi nền kinh tế nước ta
trở nên phát triền hơn, đa dạng hoá hơn.
3.2.6 Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư
bản nhà nước.
Những hợp tác xã được tổ chức theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là thực hiện phân phối theo lao động, có sự hỗ trợ của nhà nước, sự lãnh

14


đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thuộc thành phần kinh tế tập thể
mà chúng ra thường nói là một thành phần xã hội chủ nghĩa. Nhưng thực tế thì
cịn xuất hiện những tổ chức liên doanh khác nữa giống như ở nhiều nước
khác.Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất
yếu của những người sản xuất riêng lẻ.
Gần đây nước ta cũng đã xuất hiện những tổ chức hợp tác tương tự như
kinh doanh liên hệ, tổ hợp dịch vụ, chế biến, cung ứng. Những tổ chức hợp tác
liên doanh này sử dụng đất đai, có vay vốn của nhà nước, và nhất là có sự kiểm
sốt của nhà nước. Chúng ta cần nắm lấy để phát triển nền kinh tế quốc dân.

3.3 Điều kiện vận dụng độc quyền nhà nước để phát triển kinh tế Việt Nam.
3.3.1 Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ
thuộc vào tính chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy.
Bộ máy nhà nước vững mạnh là bộ máy cứng rắn, nghĩa là phải hạn chế,
ngăn chặn những tội ác, nghiêm khắc trừng trị bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt
ra khỏi khuôn khổ quy định kinh tế và pháp luật. Bộ máy nhà nước vững mạnh
còn là bộ máy có cơ sở chính trị vững mạnh: đó là sự liên minh vững chắc giữa
cơng nhân, nơng dân, trí thức, sự liên minh đó là một lực lượng đơng đảo và
chất lượng. Sự liên minh cơng nghiệp, nơng nghiệp, trí thức chẳng những tạo
nên tiền đề, cơ sở chính trị vững chắc cho sự thực hành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước, mà còn tăng thêm sức mạnh của nhà nước.
3.3.2 Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh kinh tế của bộ máy nhà nước rất quan trọng, vì thế, trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, ai nắm được nguồn tài chính nhiều nhất, người đó sẽ
chi phối được nền kinh tế của xã hội theo mong muốn của mình. Vì vậy, cái mà
chúng ta cần chính là nhà nước nắm giữ độc quyền về tài chính bằng cách thơng
qua các chính sách tiền tệ, các cơng cụ tài chính. Sẽ giúp cho nhà nước điều
khiển được toàn bộ sự vận động của xã hội, không bị một cá nhân nào chi phối

15


hay can thiệp trực tiếp được vào các hoạt động sản xuất, phát triển của nền kinh
tế nước ta.
3.3.3 Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật.
Muốn áp dụng được hình thức tư bản nhà nước một cách tốt nhất thì
chúng ta cần hồn thiện hệ thống pháp luật. Song song với đó cũng cần những
điều luật được xây dựng và xuất phát từ chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chúng ta
cần nhanh chóng xây dựng, thiết lập đầy đủ các cơ chế, đủ điều kiện và kết cấu
hạ tầng, thơng tin. Hồn chỉnh các bộ luật để thực hiện một cách trơn tru và hiệu

quả nhất.

IV. Kết luận
Từ những kiến thức trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đối với nền kinh tế đang phát triển của đất
nước ta hiện nay.
Qua đó, nhìn nhận được chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết
hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư
bản. Việc vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước ở một đất nước đang
trong thời kì phát triển như Việt Nam chính là một phương thức hiệu quả để
chúng ta có thể huy động sức mạnh của dân tộc và các yếu tố bên ngồi, đưa
nước ta thốt khỏi đói nghèo. Hướng tới một đất nước phát triền, phồn hoa,
thịnh vượng như trong đại hội VII của Đảng đã khẳng định.
Dù sao vẫn còn một số vấn đề khá mới mẻ và khó khăn. Vì vậy chúng ta
cần xuất phát từ thực tiễn để đổi mới, tìm ra con đường, từ đó đưa nước ta từng
bước phát triển lên chủ nghĩa xã hội một cách vững mạnh.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LENIN (NHÀ XUẤT BẢN
HÀNH CHÍNH QUỐC GIA SỰ NGHIỆP)
2. />3. />
4. />
5.

/>
trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia.aspx


6.

/>
truong-dinh-huong-xhcn-o-nuoc-ta-165.html

7.

/>
duoc-hieu-nhu-the-nao-.aspx#:~:text=%C4%90%E1%BA%B7c%20khu%20kinh%20t%E1%BA%BF%
20hay,thu%E1%BB%99c%20l%C3%A3nh%20th%E1%BB%95%20qu%E1%B
B%91c%20gia.

17



×