Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Giải pháp tăng cường mối liên kết giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.79 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----------

BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Đề tài:

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI LIÊN KẾT
GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG
NỀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu...............................................................................................................................1
Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực
kinh tế tư nhân ................................................................................................3
1.1 Lý luận về khu vực kinh tế Nhà nước.................................................................3
1.1.1 Khái niệm kinh tế Nhà nước........................................................................3
1.1.2 Vai trò của kinh tế Nhà nước........................................................................3
1.2 Lý luận về khu vực kinh tế tư nhân.....................................................................4
1.2.1 Khái niệm kinh tế tư nhân............................................................................4
1.2.1 Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân.............................................................4
1.3 Mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân.........5
1.3.1 Tính thống nhất trong mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu
vực kinh tế tư nhân......................................................................................5
1.3.2 Tính mâu thuẫn trong mối quan hệ giữ khu vực kinh tế Nhà nước và khu
vực kinh tế tư nhân......................................................................................5
Chương 2: Thực tiễn mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư
nhân trong phát triển kinh tế ở Việt Nam........................................................6


2.1 Tính thống nhất trong mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực
kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam..........................................6
2.3 Tính mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực
kinh tế tư nhân ở Việt Nam...................................................................................7
Chương 3: Một số giải pháp đối với mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và
khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam............................................................11
3.1 Giải pháp nâng cao tính thống nhất giữa hai khu vực........................................11
3.2 Giải pháp khắc phục tính mâu thuẫn giữa hai khu vực......................................11
Kết luận............................................................................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất xã hội nào muốn đạt hiệu quả
tăng trưởng cao đều phải phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tích cực như năng suất lao động tăng nhanh, công nghệ sản xuất không ngừng
được cải tiến, hàng hóa sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân tăng… thì cơ chế thị
trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực cần giải quyết như lạm phát tăng cao, thất
nghiệp, khủng hoảng, phân hóa giàu nghèo… Do vậy, Nhà nước phải can thiệp vào nền
kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, công bằng và ổn định. Như
vậy, sự phát triển bền vững của nền kinh tế không thể tách rời sự phát triển hài hòa
giữa hai khu vực kinh tế cơ bản là kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân.
Trước thực tế trên, tác giả thực hiện đề tài: “Giải pháp tăng cường mối liên kết
giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay” nhằm tìm ra mối
quan hệ bản chất giữa hai khu vực kinh tế cơ bản này, từ đó đưa ra những giải pháp

giúp hai khu vực phát triển hài hòa và cùng đưa đất nước trở thành một nước công
nghiệp phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực
kinh tế tư nhân, tác giả mong muốn làm rõ hơn bản chất, vai trò của mối quan hệ này
đối với quá trình phát triển kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ
đó, tác giả mong muốn đưa ra một số giải pháp giúp hai khu vực phát triển hài hòa để
sớm đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp phát triển theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tác giả là mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước
và khu vực kinh tế tư nhân.

Trang 1


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

4. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa hai thành phần kinh tế cơ bản là
kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, không mở rộng sang các thành phần kinh tế khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận này, tác giả chủ yếu sưu tầm và tổng hợp các bài viết từ
sách, báo, giáo trình, văn kiện Đại hội Đảng, các bài viết trên mạng internet, các báo
cáo nghiên cứu tại các hội thảo, chuyên đề... sau đó dùng phương pháp phân tích, tổng
hợp kết hợp với liệt kê để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Nội dung và kết cấu bài luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài luận gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu
vực kinh tế tư nhân
Chương 2: Thực tiễn mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh
tế tư nhân ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp đối với mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước
và khu vực kinh tế tư nhân

Trang 2


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KHU VỰC
KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1 Lý luận về khu vực kinh tế Nhà nước
1.1.1 Khái niệm kinh tế Nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư
liệu sản xuất, vốn, nhân lực làm cơ sở kinh tế.
Khu vực kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và
kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản,
tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia…
1.1.2 Vai trò của kinh tế Nhà nước1
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế, do đó

nó có khả năng chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền
kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ hai, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền
kinh tế; là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ ba, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác thông
qua các công cụ và đòn bẩy kinh tế.
Thứ tư, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt có khả năng đầu tư vào những lĩnh
vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại
chậm…
1

Vũ Văn Phúc (2011), Sở hữu Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Tuyên giáo điện tử.
Trang 3


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

1.2 Lý luận về khu vực kinh tế tư nhân
1.2.1 Khái niệm kinh tế tư nhân
Khái niệm kinh tế tư nhân dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Theo nghĩa hẹp, khu vực tư nhân chỉ bao gồm các hoạt
động kinh tế tư nhân trong nước.

1.2.1 Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân2
Vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn, đóng góp
đáng kể vào giá trị thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị
trường hiện đại, ở các nước có nền kinh tế phát triển cao và hiệu quả, tỷ lệ đóng góp
vào tổng sản phẩm quốc dân của khu vực kinh tế tư nhân bao giờ cũng cao hơn khu
vực kinh tế Nhà nước.
Thứ hai, kinh tế tư nhân tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng
lớn vào ngân sách Nhà nước, tham gia tích cực và hiệu quả trong việc thực hiện các
mục tiêu xã hội.
Thứ ba, kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là
tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi
các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh, điều này
vốn là nhược điểm của kinh tế nhà nước.
Thứ tư, kinh tế tư nhân có vai trò đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho
mỗi cá nhân vô số cơ hội có việc làm để khẳng định mình, người dân có vị thế kinh tế
xã hội độc lập hơn và có điều kiện phát huy khả năng trong môi trường cạnh tranh lành
mạnh.
1.3 Mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân
Đặng Minh Tiến (2008), Phát triển kinh tế tư nhân – xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay, Báo Doanh Nhân.
2

Trang 4


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI


1.3.1 Tính thống nhất trong mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và
khu vực kinh tế tư nhân
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh
tế quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn
luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh
với nhau trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và bình đẳng trước
pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam, sự
phát triển của lực lượng sản xuất không thể tách rời sự phát triển hài hòa giữa hai khu
vực kinh tế cơ bản là kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế, còn kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là "chỗ dựa thiết yếu”, là một trong
những động lực của nền kinh tế.
Như vậy, kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với
nhau, tạo điều kiện để cùng tồn tại và đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
1.3.2 Tính mâu thuẫn trong mối quan hệ giữ khu vực kinh tế Nhà nước và
khu vực kinh tế tư nhân3
Bên cạnh quan hệ thống nhất, có liên quan mật thiết đến nhau, giữa khu vực kinh
tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân còn tồn tại những mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn giữa hai thành phần kinh tế này biểu hiện xu hướng vận động
khác nhau, mang bản chất kinh tế khác nhau, lợi ích kinh tế khác nhau, tranh giành thị
trường, tranh giành nguồn lực để phát triển…

3

Phạm Ngọc Thứ (2008), Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Tổng Hợp, TP.HCM
Trang 5



BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN MỐI QUAN HỆ GIỮA KHU VỰC KINH TẾ
NHÀ NƯỚC VÀ KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ Ở VIỆT NAM
2.1 Tính thống nhất trong mối quan hệ giữa khu vực kinh tế Nhà nước và
khu vực kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
Khu vực kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân ở nước ta có mối quan hệ chặt chẽ
và thống nhất. Chúng đều là bộ phận cấu thành của hệ thống phân công lao động xã hội
và mục tiêu chung nhất là đáp ứng nhu cầu của xã hội và dân cư trên thị trường để
hướng tới mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế đất nước, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp phát triển.
Kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước phát triển đáng kể, trong
đó khu vực kinh tế Nhà nước có những đóng góp nhất định như doanh nghiệp Nhà
nước vẫn tiếp tục nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế, có đóng góp lớn vào
nguồn thu của ngân sách và thu hút lao động. Trong số 2176 doanh nghiệp Nhà nước
(thống kê 2006) có 1546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh; 355 doanh
nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; và 295
nông, lâm trường quốc doanh.
Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng
nhiều cho kinh tế quốc dân. Số liệu thống kê giai đoạn gần đây (2005 – 2009), đóng
góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP luôn chiếm trên 46%, giá trị sản xuất công
nghiệp chiếm trên 35%, giải quyết được công ăn việc làm cho hơn 50% lao động của
xã hội và tạo ra nhiều việc làm mới.
Từ khi kinh tế tư nhận được thừa nhận và được khuyến khích phát triển, thành
phần kinh tế này đã góp phần tích cực trong việc nâng cao tính cạnh tranh trong nền
kinh tế. Các doanh nghiệp Nhà nước trước đây vốn trì trệ, dựa vào sự bảo hộ của Nhà

nước đã từng bước có sự thay đổi để thích nghi trong môi trường cạnh tranh khốc liệt
hơn. Đây là động lực để thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước phát triển.

Trang 6


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

2.3 Tính mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước và
khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp
luật, nhưng không có vai trò, vị trí như nhau trong quá trình hình thành và xây dựng
chế độ kinh tế - xã hội mới. Kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Trong quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước ta sử dụng một phần lớn tài
sản thuộc sở hữu nhà nước xây dựng khu vực kinh tế Nhà nước đủ mạnh để làm công
cụ hướng dẫn, điều chỉnh những biến động tự phát của kinh tế thị trường. Nhưng số
liệu thống kê cho thấy khu vực kinh tế Nhà nước chưa làm tròn được vài trò, trọng
trách của mình.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu đóng góp cho nền kinh tế của các thành phần kinh tế (%)
Chỉ tiêu
Vốn đầu tư
Đóng góp GDP
Việc làm
Việc làm mới
GTSX công nghiệp

Khu vực Nhà nước


Khu vực tư nhân

FDI

2001 2005

2006 2009

2001 2005

2005 2009

2001 2005

2005 2009

56,6
30
43,5
-4,1
28,9

44,6
27,8
24,1
-22
20,1

26,4
46,7

40,1
74,1
28,3

27,7
46,1
53,7
88,1
35,4

17
14,6
16,3
30
42,7

27,8
17,9
22,3
33,9
44,5

Nguồn: www.thesaigontime.vn
Dựa vào bảng số liệu ta thấy vốn đầu tư của khu vực Nhà nước luôn chiếm tỷ
trọng cao trong nền kinh tế nhưng đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước luôn thấp
hơn khu vực kinh tế tư nhân và đang có xu hướng giảm xuống. Trong 3 năm trở lại
đây, trung bình khu vực kinh tế nhà nước chỉ đóng góp khoảng 35% vào GDP còn khu
vực kinh tế tư nhân là khoảng 46%.
Về phương diện lao động – việc làm có thể thấy khu vực kinh tế nhà nước có
thành tích rất tồi trong việc giải quyết công ăn việc làm và tạo việc làm mới cho xã hội

mặc dù khu vực này sử dụng gần ½ tổng đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng lao động khu vực
kinh tế nhà nước giảm rất nhanh từ mức 43,5% trong giai đoạn 2001 – 2005 xuống chỉ
còn 24,1% trong giai đoạn 2006 – 2009. Không những thế, tỷ lệ tạo ra việc làm mới
cũng giảm một cách tương ứng từ -4% xuống -22%, tức là khu vực kinh tế nhà nước
không những không tạo ra việc làm mới mà còn cắt giảm lao động. Trái với bức tranh
Trang 7


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

ảm đạm của khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định
vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế khi giải quyết được công ăn việc làm cho
hơn 50% lao động của xã hội và tạo ra nhiều việc làm mới.
Trong hoạt động sản xuất công ngiệp, lĩnh vực trung tâm trong chiến lược phát
triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam thì vai trò của khu vực
kinh tế nhà nước ngày càng mất dần vị thế dẫn dắt nền kinh tế, thay vào đó khuy vực
kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở nên quan trọng, trở thành lực
lượng trực tiếp đóng góp vào tăng trưởng4.
Về cơ cấu sản phẩm công nghiệp, đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vẫn chỉ
xoay quanh công nghiệp khai thác tài nguyên, sản xuất thực phẩm và đồ uống, dệt
may… tương tự như sản phẩm của khu vực tư nhân, tức kinh tế nhà nước chưa thể hiện
được vai trò chủ đạo của nền kinh tế trong việc tạo ra những bước đột phá công nghiệp,
dẫn dắt nền kinh tế phát triển vững mạnh5.
Về hiệu quả đầu tư, hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước năm 2007 là 8,1
lần, cao hơn nhiều so với con số 3,7 lần của khu vực kinh tế tư nhân. Tức là, để tạo 1
đơn vị giá trị GDP, khu vực kinh tế tư nhân chỉ cần 3,74 đơn vị đầu tư, trong khi khu
vực Nhà nước cần tới 8,1 đơn vị. Doanh thu trên tổng số tài sản khu vực tư nhân cũng
cao hơn khu vực Nhà nước. Nếu trong 1 tỷ đồng tài sản, doanh nghiệp tư nhân sẽ tạo

ra được 1,18 tỷ đồng doanh thu thì khu vực Nhà nước chỉ tạo ra được 0,80 tỷ đồng.
Về cơ cấu đầu tư, đầu tư Nhà nước vẫn còn tập trung ở một số ngành mà tư nhân
có khả năng và sẵn sàng đầu tư như: ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, thương mại,
khách sạn, xây dựng dân dụng, du lịch, dệt may… Năm 2007, tổng giá trị đầu tư ra
ngoài các lĩnh vực kinh doanh chính của 70 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là gần
117.000 tỷ đồng, trong đó đầu tư vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản là hơn
23.400 tỷ đồng.

Vũ Thành Tự Anh (2010), Doanh nghiệp Nhà nước không đủ năng lực đóng vai trò chủ đạo, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn.
4

Nguyễn Tấn Phát (2011), Nhận diện cấu trúc kinh tế Việt Nam dưới góc độ phân tích cấu trúc sản
phẩm ngành công nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 2, tháng 2/2011.
5

Trang 8


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

Như vậy, nhìn chung khu vực kinh tế nhà nước hoạt động yếu kém hơn khu vực
kinh tế tư nhân, cạnh tranh không lành mạnh, giành những lĩnh vực mà tư nhân có thể
làm tốt thông qua quan hệ chính trị mà không làm tròn vai trò nòng cốt của nền kinh tế.
Tuy nhiên, với chủ trương của Đảng và Nhà nước tại các kì Đại hội luôn nhấn
mạnh: "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển", khu vực kinh tế

nhà nước đã giành được rất nhiều ưu đãi, điều này đã tác động trực tiếp tới khả năng
phát triển của khu vực tư nhân và cản trở khu vực kinh tế này hình thành các doanh
nghiệp tư nhân đủ mạnh để cạnh tranh. Cụ thể:
Về vấn đề tiếp cận đất đai: Nhà nước vẫn kiểm soát mọi loại đất đai sử dụng cho
mục đích công nghiệp, nhiều rào cản và thủ tục phức tạp trong việc tiếp cận đất đai và
cơ sở hạ tầng. Doanh nghiệp tư nhân phần lớn không tiếp cận được các khu công
nghiệp và gặp rất nhiều khó khăn khi làm việc với chính quyền địa phương để có một
mảnh đất nhỏ. Trong khi đó những doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu tiên cấp đất ở
những khu vực đô thị đẹp, những “khu đất vàng”, hoặc nếu phải thuê thì với mức giá
không đáng kể so với giá trị thị trường, sau đó thường sử dụng tài sản đất đai để đóng
góp vốn cổ phần liên doanh với nước ngoài hoặc thế chấp để vay vốn ngân hàng.
Về vấn đề tiếp cận các dự án đầu tư của chính phủ: Cơ hội để các doanh nghiệp tư
nhân làm nhà thầu chính trong các dự án của chính phủ là hết sức khó khăn. Thông
thường, các doanh nghiệp này chỉ có thể cung cấp hàng hóa một cách gián tiếp cho các
doanh nghiệp nhà nước với tư cách là nhà thầu phụ. Cơ chế ngân sách khá lỏng lẻo
trong các doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc khu vực
này có những quỹ để hối lộ hoặc chi cho những chi phí phi chính thức khi tham gia đấu
thầu. Điều này tạo ra áp lực cạnh tranh không hiệu quả và thiếu công bằng giữa các
doanh nghiệp.
Về vấn đề tiếp cận nguồn vốn: khu vực kinh tế tư nhân bị hạn chế rất nhiều trong
vấn đề tiếp cận nguồn vốn. Nguyên nhân xuất phát từ những lệch lạc trong phân bổ
nguồn lực (đất đai) khiến các doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận tài chính vì tài sản thế

Trang 9


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI


chấp nhỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là những tài sản giá trị nhất các doanh
nghiệp có thể thế chấp được nhưng các doanh nghiệp tư nhân rất khó để có được).
Ngoài ra, điều kiện cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân
còn nhiều phức tạp, hiện chưa có một chính sách tín dụng riêng cho cộng đồng này mà
các điều kiện đều áp dụng giống như các công ty lớn của nhà nước như dầu khí, điện
lực, thép…6 Tương phản với những khó khăn mà doanh nghiệp tư nhân đang đối đầu,
các doanh nghiệp nhà nước thường được ưu tiên tiếp cận tín dụng và ngoại tệ khan
hiếp với mức giá thấp hơn giá thị trường nhờ những mối quan hệ hay áp lực chính trị.
Như trường hợp Bộ Tài chính lấy 300 triệu USD từ tiền Chính phủ phát hành trái phiếu
quốc tế để trả thay cho khoản vay của Vinashin tại ngân hàng Netixis, hay việc Chính
phủ đi vay với lãi suất 6,95%/năm về cho PetroVietnam vay lại 3,6%/năm trong 13
năm7.
Những cản trở vô hình khác: sự tồn đọng của nếp tư duy cũ trong thời kì kinh tế
tập trung bao cấp vẫn còn hằn sâu trong tâm trí con người quan niệm về một nền kinh
tế được coi như một phần của hệ thống hành chính công. Cung cách chủ quản hành
chính theo kiểu thượng cấp - thuộc quyền đối với doanh nghiệp được duy trì đến nay.
Tâm lý è dè của doanh nhân trong kế hoạch khuếch trương doanh nghiệp phản ảnh
cách đối xử phân biệt của Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân đã có giảm đi
nhiều trên mặt chính sách, song vẫn còn nặng nề trong thực tế. Có công ty chia nhỏ
doanh nghiệp của mình thành nhiều công ty khác nhau để tránh sự dòm ngó của cơ
quan quản lý.
Như vậy, thực tế chứng minh một điều đáng tiếc là khu vực kinh tế nhà nước chưa
đáp ứng được vai trò "tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
cùng phát triển", mà ngược lại, khu vực này còn chèn ép, chiếm hết nguồn lực của khu
vực kinh tế tư nhân.

6

Trần Bình (2007), Khu vực kinh tế tư nhân – Nguồn huyết mạch chưa được khai thông.


7

Nguyễn Quang A (2008), Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo – Sự lẫn lộn trong tư duy,

Viện IDS.
Trang 10


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA KHU
VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT
NAM
Kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân là hai thành phần quan trọng trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Hai khu vực kinh tế này vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh với nhau để cùng phát triển. Vì vậy, nhà nước cần có sự phân bổ nguồn lực
quốc gia hợp lý hơn, có môi trường pháp lý bình đẳng hơn để tạo đều kiện cho hai khu
vực cùng phát triển. Để làm được điều này, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp cụ
thể:
3.1 Giải pháp nâng cao tính thống nhất giữa hai khu vực
Để nâng cao tính thống nhất giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư
nhân, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô, khai thác mặt tích cực và khắc
phục, ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ từ pháp luật của mọi doanh nghiệp, cá nhân, không phân
biệt thành phần kinh tế.
Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doang nghiệp Nhà nước và tư
nhân thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch. Thực hiện
có hiệu quả Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh và các Luật mới được ban

hành, bảo đảm thật sự bình đẳng và tạo thêm thuận lợi đối với mỗi loại hình tổ chức
sản xuất kinh doanh và đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
3.2 Giải pháp khắc phục tính mâu thuẫn giữa hai khu vực
Phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan
trọng, những ngành trọng điểm quốc gia như dầu khí, điện, than, hàng không, đường
sắt, cơ khí, luyện kim, hóa chất, đầu tư cho giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng… để thành
phần kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò dẫn dắt, định hướng nền kinh tế. Không
nên phân bổ đầu tư nhà nước vào các ngành mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm và
đảm nhiệm tốt.

Trang 11


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với yêu cầu sản xuất
- kinh doanh trong điều kiện mới. Phương hướng chủ yếu hiện nay là thành lập một số
tổng công ty, tập đoàn kinh doanh lớn có uy tín, có tầm vóc quốc gia và quốc tế, tạo thế
và lực để phát triển, đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong quan
hệ kinh tế với nước ngoài. Đối với những doanh nghiệp xét thấy không cần thiết hoặc
thua lỗ kéo dài, không có khả năng vươn lên, thì chuyển sang hình thức sở hữu khác,
cho thuê, bán khoán hoặc giải thể.
Nhà nước cần phân phối các nguồn lực quốc gia một cách có hiệu quả và đảm bảo
công bằng cho các thành phần kinh tế. Lâu nay, những nguồn lực quốc gia thường
được ưu tiên dành cho kinh tế Nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy,
trong thời gian tới các nguồn lực này phải được phân phối và sử dụng theo cơ chế thị
trường, tạo lập môi trường thông thoáng, lành mạnh nhằm giải phóng, phát triển các
nguồn lực và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, thu hút nguồn vốn đầu tư từ

bên ngoài.
Khắc phục sự thiếu đồng bộ trong các đạo luật liên quan đến đất đai, bất động sản
hiện nay; nâng cao chất lượng quy hoạch sử dụng đất, khắc phục triệt để tình trạng “xin
- cho”; giải quyết vấn đề vốn hóa đất đai của các doanh nghiệp và có chế tài đủ mạnh
để xử lý đất sử dụng không đúng mục đích, không hiệu quả…
Cần có chính sách tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, đảm bảo sự bình đẳng
trong việc tiếp cận nguồn vốn giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước.

Trang 12


BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

KẾT LUẬN
Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội của Việt Nam trong thời
gian qua đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng đắn. Các thành phần kinh tế không tồn tại một
cách biệt lập, mà có mối quan hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nền kinh tế
phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, trong quá trình vận động vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh với nhau và với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế Nhà nước
và kinh tế tư nhân phải tự vươn lên để cùng đưa đất nước phát triển trở thành một nước
công nghiệp hiện đại. Đồng thời, Nhà nước cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp để
nâng cao tính thống nhất, khắc phục tính mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa hai thành
phần kinh tế trọng yếu này, tạo điều kiện cho chúng cùng phát triển.

Trang 13



BÀI THUYẾT TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. NGUYỄN CHÍ HẢI

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quang A (2008), Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo – Sự lẫn lộn trong
tư duy, Viện IDS.
2. Vũ Thành Tự Anh (2010), Doanh nghiệp Nhà nước không đủ năng lực đóng vai trò
chủ đạo, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
3. Trần Bình (2007), Khu vực kinh tế tư nhân – Nguồn huyết mạch chưa được khai
thông.
4. Hà Đăng (2007), Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, Thời báo kinh tế Việt Nam
5. Nguyễn Thị Kim Dung, Phạm Ngọc Linh (2008), Giáo trình Kinh Tế Phát Triển,
NXB ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
6. Tô Đức Hạnh, Phạm Quang Phan (2010), Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Minh Khải (?), Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước.
8. Nguyễn Tấn Phát (2011), Nhận diện cấu trúc kinh tế Việt Nam dưới góc độ phân
tích cấu trúc sản phẩm ngành công nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế.
9. Vũ Văn Phúc (2011), Sở hữu Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Tuyên giáo
điện tử.
10. Tô Trung Thành (2011), Kinh tế Việt Nam: những vấn đề đặt ra trong trung và dài
hạn, Viện khoa học xã hội.
11. Phạm Ngọc Thứ (2008), Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Tổng Hợp, TP.HCM.
12. Đặng Minh Tiến (2008), Phát triển kinh tế tư nhân – xu hướng tất yếu trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Báo Doanh Nhân.

Trang 14




×