Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.88 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
*****

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những
biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay?”

Sinh viên thực hiện: Trần Thu Hương
Mã sinh viên: 72DCKT20075
Lớp: 72DCKT22
Khóa: 72 (2021-2025)
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Huyền

HÀ NÔI – 2022


MỤC LỤC

A.

LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................. 1

B. NGUYÊN NHÂN, BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN
MỚI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN NHÀ NƯỚC ......................................................................................... 3
1.1. Độc quyền nhà nước ................................................................................... 3
1.2. Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa................................................................................................. 3


1.3. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ........................ 4
1.4. Đặc điểm về độc quyền nhà nước ............................................................... 4
1.4.1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước................ 4
1.4.2. Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước .......................................... 5
1.4.3. Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế 6
1.5. Biểu hiện mới của độc quyền nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản ................. 6
1.5.1. Những biểu hiện mới về cơ chế quan hệ nhân sự ................................. 6
1.5.2. Những biểu hiện mới về sở hữu nhà nước ............................................ 6
1.5.3. Biểu hiện mới trong vai trị cơng cụ điều tiết kinh tế của độc quyền
nhà nước.......................................................................................................... 7
C. VẬN DỤNG VẤN ĐỀ NÀY VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN
NAY ...................................................................................................................... 8
2.1. Lý luận và thực trạng nền kinh tế Việt Nam đối với chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước. ................................................................................................. 8
2.1.1. Một số quan điểm về chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta ............... 8
2.1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay .............................................. 9
2.2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở Việt Nam. 11
2.2.1 Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở
hữu tư nhân ở trong nước hoặc ngoài nước. ................................................ 11
2.2.2. Thành lập cơng ty cổ phần, cổ phần hố xí nghiệp để thành lập xí
nghiệp tư bản nhà nước. ............................................................................... 12
2.2.3. Đặc khu kinh tế. .................................................................................. 13
2.2.4. Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất). ........................ 13


2.2.5. Cho tư bản trong và ngồi nước, cho nơng dân thuê các cơ sở sản
xuất kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân .................. 14
2.2.6. Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư
bản nhà nước................................................................................................. 15
2.3. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

ở nước ta. ......................................................................................................... 16
2.3.1 Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ
thuộc vào tính chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy. . 16
2.3.2. Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa. ......... 16
2.3.3. Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật. ................................... 16
D. KẾT LUẬN. .................................................................................................. 17
E. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 18


A. LỜI MỞ ĐẦU
Đầu thế kỉ XX, V.I Lênin đã chỉ rõ “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển
thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu”1. Cơ sở
cho sự chuyển biến này chính là sự dung hợp giữa tư bản độc quyền với Nhà
nước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhiều chủ thể tham gia vào q trình sản
xuất do đó sự tương quan lợi ích giữa nhà tư bản và người lao động là cơ bản và
chủ yếu để thực hiện bản chất xã hội của phương thức tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng những xung đột lợi ích gay
gắt, địi hỏi Nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích.
Chính vì vậy, vai trị của Nhà nước chuyển từ các yếu tố bên ngồi, yếu tố tạo
mơi trường, thành yếu tố bên trong của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa và
trở thành một trong các yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Nhà nước tư bản ra đời đó là một tất yếu lịch sử. Nhà nước tư bản
đã trải qua nhiều hình thái khác nhau. Theo V.I. Lênin “tự do cạnh tranh đẻ ra
tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ
nhất định, lại dẫn tới độc quyền”2. Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ
nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Sự ra đời và phát triển
của Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền Nhà Nước là một biến đổi quan trọng trong
quan hệ quản lý và là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản đương đại .Thực
chất, đây là những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của

chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với
những biến động mới trong tình hình kinh tế -chính trị thế giới cuối thế kỉ XIX
và đầu thế kỉ XX cho đến nay.

1

/>2
/>
1


Ở Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, sự
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước càng có vai trị quan trọng. Nhà nước quản lý
kinh tế bằng pháp luật chính sách và các cơng cụ khác nhằm mục đích phát huy
vai trị tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Từ sau đại hội
VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã thực hiện chính sách mở cửa, mục tiêu xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh tồn
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển như
vũ bão, kinh tế công nghiệp đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt, thành cơng những lí
luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế,
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Để hiểu rõ hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản
Độc Quyền Nhà Nước, bài tiểu luận của em chọn với đề tài “Phân tích
nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai đoạn
hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Vận dụng vấn đề này
vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay?” sẽ làm rõ tất cả các vấn đề.

2



B. NGUYÊN NHÂN, BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG

BIỂU HIỆN MỚI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CỦA CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
1.1. Độc quyền nhà nước
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị thế
độc quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của
chế độ chính trị - xã hội ứng với điều kiện phát triển nhất định trong các thời kỳ
lịch sử.
1.2. Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.
Tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng
cao, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi phải có một sự điều tiết từ một
trung tâm đối với sản xuất và phân phối.
Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số
ngành mới có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng các tổ
chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn,
thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thụộc kết cấu hạ tầng như
năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản,... Vì vậy,
nhà nước phải đứng ra đảm nhận phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho các
tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Sự thống trị của độc quyền đã làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo, làm
sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Trong điều kiện như vậy địi
hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những mâu thuẫn đó,
như các chính sách trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển
phúc lợi xã hội, ...
Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các
liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung


3


đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó địi hỏi phải có
sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng thể thiếu vai
trị của nhà nước.
Ngồi ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào
đời sống kinh tế.
1.3. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm phục vụ lợi
ích của các tổ chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất của ba q
trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng
vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư
nhân với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ
máy nhà nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Trong cơ cấu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, nhà nước
đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước cũng là chủ sở hữu những
doanh nghiệp, là nhà tư bản tập thể, và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực
lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư
bản tập thể thực sự bấy nhiêu.Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là
hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1.4. Đặc điểm về độc quyền nhà nước
1.4.1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái. Chính các
đảng phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự
thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Đứng
đằng sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu, đó
chính là các Hội chủ xí nghiệp. Các Hội chủ này hoạt động thông qua các đảng

phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân
sự và đường lối chính trị, kinh tế của các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ
4


máy nhà nước ở các cấp. Thông qua các Hội chủ, một mặt các đại biểu của các
tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác
nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được “cài cắm” vào ban
quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức
hoặc danh dự hoặc trở thành những người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự
thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới
trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương.
1.4.2. Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư
bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền
nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sở hữu nhà nước bao
gồm: những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước,
những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, ...
Sở hữu nhà nước thực hiện được các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn
cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản của các tổ
chức độc quyền đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, chuyển từ
những ngành ít lãi sang những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn một cách dễ
dàng, thuận lợi.
Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những
chương trình nhất định.
Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước thì thị trường nhà nước cũng

hình thành và phát triển. Sự hình thành thị trường nhà nước thể hiện ở việc nhà
nước chủ động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm

5


hoặc mua, đặt hàng của các doanh nghiệp độc quyền thông qua những hợp đồng
được ký kết. Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư nhân kiếm được
một khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất
các loại hàng hố đó cao hơn hẳn tỷ suất lợi nhuận thơng thường.
1.4.3. Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ, trong đó
có cơng cụ độc quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình
thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm
bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, cơng cụ có khả năng điều tiết sự
vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tồn bộ q trình tái sản xuất xã hội.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt
nhân sự có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và
các quan chức nhà nước. Các công cụ chủ yếu của nhà nước để điều tiết kinh tế
và thực hiện các chính sách kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín
dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hố hay chương trình hố kinh tế và
các cơng cụ hành chính, pháp lý. Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là
sự dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà
nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế.
1.5. Biểu hiện mới của độc quyền nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản
1.5.1. Những biểu hiện mới về cơ chế quan hệ nhân sự
Do sự phát triển của trình độ dân trí và quy luật cạnh tranh trong xã hội tư
bản dẫn đến những thay đổi về quan hệ nhân sự trong bộ máy chính quyền nhà
nước như sau: Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền lực nhà nước trở thành phổ
biến.Trong nhiều trường hợp, trọng tâm quyền lực nhà nước thuộc về một thế

lực trung dung có vị thế cân bằng giữa các thế lực đối nghịch nhau.
1.5.2. Những biểu hiện mới về sở hữu nhà nước
Ngân sách nhà nước: Việc chi tiêu ngân sách nhà nước được quy định
trong luật ngân sách nhà nước làm cho giới hành pháp bị giới hạn, thậm chí bị
6


quản lý chặt chẽ; Vấn đề chống lạm phát, chống thất nghiệp được ưu tiên; Dự
trữ quốc gia thành nguồn vốn chỉ sử dụng trong những tình huống đặc biệt; Cổ
phần của nhà nước trong các ngân hàng và các công ty lớn trở thành phổ biến.
Nhà nước tư sản hiện đại là nhân tố quyết định sự ổn định kinh tế vĩ mô
thông qua thu – chi ngân sách, kiểm soát lãi suất, trợ cấp và trợ giá, kiểm sốt tỷ
giá hối đối, mua sắm cơng… Trong những điều kiện nhất định, ngân sách nhà
nước còn được dùng để cứu những tập đoàn lớn khỏi nguy cơ phá sản.
Tại một số nước, định hướng ưu tiên cho các vấn đề xã hội trong chi tiêu
ngân sách nhà nước được luật pháp hóa. Trong số đó có phần chi cho các hoạt
động bảo vệ môi trường, an sinh xã hội. Nhờ đó, ở những nước phát triển có mơi
trường xanh và sạch hơn… Nhưng đó khơng phải là sự thức tỉnh của giai cấp tư
sản, mà thực ra chỉ là thành quả của cuộc đấu tranh bền bỉ nhiều năm của nhân
dân tiến bộ ở những nơi đó mà thơi.
Vai trò đầu tư của nhà nước: Nhà nước đầu tư trong nghiên cứu khoa học
cơ bản, trong xây dựng kết cấu hạ tầng, trong giải quyết các nhủ cầu mang tính
xã hội ngày càng tăng…, nhà nước tạo nên những cơ sở vật chất, gánh chịu
những rủi ro lớn để các công ty tư nhân tập trung vào các lĩnh vực có lợi nhuận
hấp dẫn.Nhờ lợi thế vượt trội của mình về tiềm lực khi tham gia đấu thầu các dự
án đầu tư bằng ngân sách nhà nước mà các tập đoàn độc quyền thường thu được
lợi nhuận khổng lồ khi thực hiện các đơn đặt hàng trong các dự án đầu tư của
nhà nước.
1.5.3. Biểu hiện mới trong vai trị cơng cụ điều tiết kinh tế của độc quyền
nhà nước

Các chính phủ, nghị viện tư sản hiện đại được tổ chức như một công ty cổ
phần tư bản chủ nghĩa. “Đa nguyên tư sản” được sử dụng để làm dịu đi làn sóng
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tiến bộ. Sự tham gia của các đảng đối lập
chỉ được chấp nhận ở mức độ chưa đe dọa quyền lực của giai cấp tư sản độc
quyền.
7


Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước có xu hướng gia tăng. Viện trợ cho
nước ngồi của chính phủ trở thành một bộ phận điều tiết kinh tế trong nước, đó
có thể là phương án cứu nguy cho hàng hóa tồn đọng, cơng nghệ lỗi thời hoặc
thị giá cổ phiếu sụt giảm… Điều này lý giải cho việc trong các dự án song
phương, nước tiếp nhận chỉ được một phần ít ỏi ngoại tệ, cịn đa phần là hàng
hóa, cơng nghệ, chun gia của nước cung cấp. Vì thế, được chỉ định thực hiện
những dự án này là một cơ hội lớn cho các tập đoàn độc quyền.

C. VẬN DỤNG VẤN ĐỀ NÀY VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Lý luận và thực trạng nền kinh tế Việt Nam đối với chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước.
2.1.1. Một số quan điểm về chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta
Hiện nay, ở nước ta cũng có nhiều cách giải thích khác nhau:Ý kiến thứ
nhất q nhấn mạnh lý luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, xem đó
như là một “thứ chủ nghĩa”, một phương thức sản xuất xã hội, một học thuyết
hoàn chỉnh cả về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Ý kiến thứ hai xem chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một phương pháp cải tạo hồ bình giai
cấp tư sản, như là một thành phần kinh tế thứ yếu (và cũng có lúc xem như
“khơng đáng kể”). Thực ra đó là hai loại ý kiến cực đoan khác nhau, cách tiếp
cận khai thác khác nhau trong những khuynh hướng khác nhau của các giai đoạn
lịch sử nhận thức và xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội Trong mơ hình chủ

nghĩa xã hội với nền kinh tế hiện vật trước đây, người ta quá xem nhẹ chủ nghĩa
tư bản nhà nước nói chung và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nói riêng.
Ngược lại, trong khủng hoảng, khó khăn của sự đổ vỡ mơ hình chủ nghĩa tư bản,
người ta lại có khuynh hướng đưa vào nội hàm của lí luận chủ nghĩa tư bản nhà
nước nội dung quá rộng. Cách tiếp cận có hiệu quả cao chính là nhận thức đúng
đắn cơ sở lý luận biện chứng của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước, vận dụng sát với thực tiễn cuộc sống kinh tế xã hội đang diễn ra ở nước ta
8


trong quá trình đổi mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, cần phải
xuất phát từ tình hình cụ thể, từ sự đối sánh lực lượng cụ thể trong điều kiện lịch
sử cụ thể. Tóm lại, nói một cách khái quát thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước là sự dung hợp giữa nhà nước và hoạt động của các xí nghiệp tư bản tư
nhân. Nếu nhà nước là của giai cấp tư sản và địa chủ thì chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước phục vụ lợi ích của tư bản và địa chủ. Nếu nhà nước là của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
phục vụ cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình
thức q độ, có tính chất q độ chủ nghĩa. Tuy nhiên, theo V.I. Lênin, đây là
một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức
khác, chứ tuyệt nhiên khơng phải là sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hồ bình
giai cấp. Vì vậy, phải tỉnh táo, sắc bén trong việc sử dụng hình thức kinh tế quá
độ này.
2.1.2. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay
Sau rất nhiều thăng trầm trong lịch sử, đến nay có thể khẳng định rằng
nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát
triển. Tuy nhiên cịn phụ thuộc lớn vào nơng nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước với mục tiêu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một
nước công nghiệp tiên tiến hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong
công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tế nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định
hướng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tư bản nhà nước là một trong năm
thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng vì những
nguyên nhân sau đây:

9


Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất
yếu tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến
khích tự do trao đổi hàng hố, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Trước
đổi mới, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận nền kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại ở nước ta trong một thời gian
tương đối dài. Tình hình đó địi hỏi Đảng ta phải có những thay đổi lớn trong
nhận thức và hành động, phải tìm ra con đường, bước đi phù hợp để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đa dạng
hố các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận
thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền
kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà cịn nhận thấy sự cần
thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần
kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất
yếu khách quan vừa như là một sách lược kinh tế của nhà nước để định hướng
cho các thành phần kinh tế khác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, V.I. Lênin cho rằng: “Ở một nước trong đó những người sản xuất

nhỏ - tiểu nơng chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã
hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp q độ đặc biệt, hồn tồn khơng
cần thiết ở những nước tư bản phát triển”. Ở một nước mà nền tiểu sản xuất
chiếm ưu thế như nước ta thì chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là mắt xích trung
gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời giúp chúng ta phát
triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và
cơng nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý tiên tiến “Vì
chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa
xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là khơng thể tránh
khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta
phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ
10


nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ
nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng
lực lượng sản xuất lên”.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với
xu thế quốc tế hố đang diễn ra trên tồn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông
Nam Á. Chúng ta không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội
cũng như các nước tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, tố chất cạnh tranh vốn có của
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ như chất xúc tác cho một một môi trường
kinh tế cạnh tranh sôi động.
2.2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở Việt Nam.
2.2.1 Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở
hữu tư nhân ở trong nước hoặc ngoài nước.
Lê nin đã chỉ rõ việc sử dụng vốn, các chuyên gia tư sản nước ngoài vào
phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là hết sức quan
trọng. Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế mới, các nước đang và mới phát triển có

cơ hội sớm đi tới một nền kinh tế hiện đại thông qua nhiều con đường như học
hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ... của các nước phát triển. Chính vì vậy,
đối với nước ta hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân
nước ngoài sẽ giúp chúng ta phát triển sản xuất trong nước, rút ngắn khoảng
cách lạc hậu giữa nước ta với các nước trong khu vực. Thông qua sự liên doanh,
liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài quốc doanh ở trong nước,
nhà nước có thể huy động được vốn, đổi mới kỹ thuật và quy trình cơng nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm…Đồng thời, nhà nước cũng thực hiện được lợi
nhuận, chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để thúc
đẩy cải cách cơ cấu kinh tế với cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường trong nước và thế giới, cấu trúc lại nền kinh tế. Hình thức liên doanh này
đã và đang có xu hướng mở rộng với nhiều nước và phá vỡ quan niệm độc
11


quyền liên doanh. Trong liên doanh, liên kết phải tích cực chủ động tìm bạn
hàng, trước hết là các tập đồn xun quốc gia, kinh doanh nhiều ngành, bởi vì,
những tập đồn này có đặc trưng là rất linh hoạt, có những quan hệ bền vững với
nhiều nước, có bộ máy tiêu thụ đã được sắp đặt hoàn hảo. Nhưng cũng có một
số điều cần lưu ý, chẳng hạn như, trong phân cơng lao động thì các nước kém
phát triển thường bị phân cơng làm những quy trình cần nhiều lao động giản
đơn. Các công ty liên doanh thường đầu tư lớn vào các nước phát triển để sử
dụng tiềm lực khoa học lớn ở nơi đây nhằm đón trước các thành tựu khoa học kỹ
thuật
2.2.2. Thành lập công ty cổ phần, cổ phần hố xí nghiệp để thành lập xí
nghiệp tư bản nhà nước.
Cơng ty cổ phần cũng như cổ phần hố xí nghiệp khơng phải là vấn đề
mới mẻ, như cái mới là vấn đề này được đặt trong điều kiện của nhà nước xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, công ty cổ
phần được xem là một tất yếu kinh tế - sự tồn tại của nó khơng những chỉ là kết

quả của q trình tích tụ vốn, mà cịn là nhu cầu khách quan của việc củng có
tính hiệu quả của nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, của quốc doanh nói
riêng. “Cơng ty cổ phần” đã dần khẳng định được vai trò của vị thế của mình
trong nền kinh tế quốc dân. Bởi lẽ, loại hình cơng ty này nó có vai trị và tác
dụng; Thứ nhất là tập trung được vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô không lỗ mà từng nhà doanh nghiệp,
từng nhà tư bản khơng thể tự mình làm nổi; Thứ hai là do hình thức tự cấp phát
tài chính bằng huy động các nguồn vốn trong dân cư buộc các công ty cổ phần
phài đề cao trách nhiệm và phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng tiền vốn; Thứ
ba là khả năng phối hợp các lực lượng kinh tế khác nhau, duy trì được mối quan
hệ kinh tế giữa các thành viên; Thứ tư là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh
thủ sự tham gia đầu tư của nước ngồi. Cùng với việc xây dựng các cơng ty cổ
phần là việc bán cổ phần và thu hút vốn, công ty cổ phần được thành lập trên cơ

12


sở các xí nghiệp quốc doanh hiện hành bằng biện pháp “cổ phần hố xí nghiệp”
mà gần đây được bàn tới nhiều. Việc thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp
Nhà nước là một chủ trương lớn thu hút và phát huy các nguồn lực đóng góp
cùng với sự tham gia quản lý đông đảo của nhân dân vào phát triển kinh tế.
Thực chất cổ phần hố xí nghiệp quốc doanh hiện nay là chuyển từ sở hữu
nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp; là làm gọn nhẹ, tối ưu thành phần kinh
tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân. Nó là một giải
pháp nhằm thốt khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của một số xí nghiệp quốc
doanh. Tuy nhiên, việc chuyển thành công ty cổ phần chỉ nên diễn ra ở những
ngành mà tư nhân có khả năng về vốn và sức đầu tư như may, dệt, sành sứ, thuỷ
tinh, sản xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản có quy mơ vừa và nhỏ, nhiều cơ
sở vận tải đường bộ, đường thuỷ, thương nghiệp bán lẻ, dịch vụ…
2.2.3. Đặc khu kinh tế.

Đặc khu kinh tế hay khu kinh tế đặc biệt (tiếng Anh: Special Economic
Zones — SEZ, là khu vực có địa giới xác định, có diện tích rộng hơn khu công
nghiệp, khu chế xuất thuộc lãnh thổ quốc gia, áp dụng chế độ đặc biệt đối với
các hoạt động kinh tế đối ngoại.. Đặc biệt, khu vực này được áp dụng các ưu đãi
về chế độ hải quan, ngoại hối, thuế, thị thực đến các nhà đầu tư trong và ngồi
nước. Mục tiêu của nó là tăng cường khả năng cạnh tranh của nền sản xuất, tăng
cường khả năng xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngồi đẩy nhanh
các q trình khai thác cơng nghệ, Muốn thu hút vốn đầu tư trực tiếp của người
nước ngoài, điều quan trọng là tại các đặc khu kinh tế phải có được mơi trường
cho hoạt động kinh tế càng gần với điều kiên và trình độ bên ngoài càng tốt, kỹ
thuật mới và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới. Mục đích cuối
cùng là giảm bớt chi phí xuất nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế. Tại Việt Nam, hiện tại có 3 đặc khu kinh tế là Phú Quốc Kiên Giang, Vân Đồn - Quảng Ninh, Bắc Vân Phong - Khánh Hồ.
2.2.4. Khu cơng nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất).
13


Khu chế xuất là khu công nghiệp được quy định chun mơn, sản xuất
chủ yếu cho xuất khẩu, trong đó người ta áp dụng quy chế tự do thuế quan, tự do
mậu dịch. khu chế xuất được hiểu là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất
khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu;
Khu chế xuất được ngăn cách với khu vực bên ngoài theo các quy định áp dụng
đối với khu phi thuế quan quy định tại pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu.Khu chế xuất đóng một số vai trị chính cho nền kinh tế như: Thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước. Khu chế xuất giúp tạo nhiều cơ hội việc làm cho
hàng ngàn, hàng triệu người lao động trên khắp cả nước. Tận dụng tốt nguồn
nhân công trẻ, giàu sự sáng tạo, năng động, nâng cao trình độ, năng lực sản xuất.
Đây cũng là cơng cụ thúc đẩy mậu dịch quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo
nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Là công cụ hỗ trợ q trình cơng nghiệp hóa và
quy hoạch tổng thể quốc gia… Hiện nay ở nước ta đang chủ trương thí điểm

thành lập khu chế xuất ở Tân Thuận (thành phố Hồ Chí Minh). Vì vấn đề cịn
hết sức mới mẻ nên cần tham khảo kinh nghiệm các khu chế xuất trên thế
giới. Khu chế xuất đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định và thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Trở thành công cụ đắc lực cho Nhà nước trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2.5. Cho tư bản trong và ngồi nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản
xuất kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân
Trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta đã và sẽ tồn tại các chế độ kinh
doanh khác nhau trên cùng một cơ sở dữ liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất thuộc
sở hữu toàn dân: chế độ kinh doanh của nhà nước, của tập thể, của từng hộ riêng
lẻ, chế độ kinh doanh hỗn hợp (nhà nước, tập thể, từng hộ; nhà nước với tập thể,
tập thể với tư nhân cả trong và ngồi nước). Cần và có thể phát triển hình thức
liên doanh, liên kết rộng rãi khơng chỉ trong mà cả ngồi nước. Cần mở rộng
việc cho th đất (hình thức đấu thầu, thầu khốn…) với quy mô hạn đinh về
rừng đồi trọc, thềm lục địa, đất rừng, đồi hoang, …Khuyến khích phát triển

14


những hộ kinh doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực: trông trọt, chăn nuôi, kinh tế
vườn, rừng, kinh tế gia đình, đặc biệt những hộ kinh doanh lớn tổng hợp hoặc
chun canh, có hoặc khơng th mướn lao động. Khơng thể liệt kê tồn bộ
danh mục các hình thức kinh tế tư bản nhà nước trong nơng nghiệp vì q trình
thực hiện mới chỉ vừa bắt đầu. Nhưng đó là con đường hữu hiệu nhất để phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuât trong nông nghiệp chuyển nền sản xuất từ
phân tán đến tập trung, từ nền nông nghiệp nửa tự nhiên, tự nhiên sang nền kinh
tế hàng hố. Đó là con đường xã hội hố sản xuất nơng nghiệp trong thực tế.
2.2.6. Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư
bản nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất

yếu của những người sản xuất riêng lẻ. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể
được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và
tài sản. Trong hợp tác xã có sự liên kết rộng rãi của những người lao động, của
các hộ thành viên, của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, …
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Những hợp tác xã được tổ chức theo
những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thực hiện phân phối theo lao
động, có sự hỗ trợ của nhà nước, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt
Nam, thì thuộc thành phần kinh tế tập thể mà chúng ta vẫn thường nói là một
thành phần xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên thực tế, còn xuất hiện những tổ chức
hợp tác liên doanh khác nữa giống như ở nhiều nước khác. Ở nước ta mấy năm
nay cũng xuất hiện những tổ chức hợp tác tương tự như kinh doanh liên hộ, tổ
hợp dịch vụ, chế biến, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, …Những tổ chức hợp
tác liên doanh này mà có sử dụng đất đai của sở hữu tồn dân, có vay vốn của
nhà nước, và nhất là có sự kiểm sốt của nhà nước, thì với quan niệm rộng theo
tư tưởng V.I. Lênin đó đều là hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Chúng ta cần nắm lấy để phát triển nền kinh tế quốc dân.

15


2.3. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước ở nước ta.
2.3.1 Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ
thuộc vào tính chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy.
Điều không thể thiếu ở đây đó là cần bộ máy nhà nước vững mạnh. Bộ
máy nhà nước vững mạnh là bộ máy cứng rắn, nghĩa là phải hạn chế, ngăn chặn
những tội ác, nghiêm khắc trừng trị bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi
khuôn khổ quy định kinh tế và pháp luật. Bộ máy nhà nước vững mạnh còn là
bộ máy có cơ sở chính trị vững mạnh: đó là sự liên minh vững chắc giữa công
nhân, nông dân, trí thức, sự liên minh đó là một lực lượng vơ cùng lớn. Sự liên

minh cơng – nơng – trí thức chẳng những tạo nên cơ sở chính trị vững chắc cho
sự thực hành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, mà còn làm “tăng thêm
quyền lực kinh tế” của nhà nước chúng ta.
2.3.2. Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước ta cần vươn tới là nhà nước độc quyền tài chính. Thơng qua
cơng cụ tài chính – ngân hàng, nhà nước vừa điều khiển được toàn bộ sự vận
động xã hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụn vặt vào các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Bởi vì, sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh về kinh tế.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường, ai nắm được nguồn tài chính, người đó sẽ
chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của mình nên sức mạnh
kinh tế của nhà nước biểu hiện tập trung ở sức mạnh tài chính.
2.3.3. Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật.
Tầm quan trọng của pháp luật đối với các hình thức tư bản nhà nước là rất
lớn. Luật cùng với những văn bản luật trong điều kiện thực hành chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước phải xuất phát từ nguyên tắc: củng cố vững mạnh nhà
nước. Trước tiên, cần nhanh chóng thiết lập đầy đủ các cơ chế của kinh tế hàng
hoá; xây dựng các điều kiện về kết cấu kinh tế hạ tầng, thơng tin, dịch vụ, hồn

16


chỉnh các luật như luật đầu tư, luật liên doanh liên kết, luật về công ty cổ phần,
luật xuất nhập khẩu…
D. KẾT LUẬN.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tất yếu dẫn đến độc quyền. Theo
V.I. LÊ NIN, độc quyền trong chủ nghĩa tư bản có năm đặc điểm kinh tế tư bản.
Trong điều kiện hiện nay các đặc điểm này có những biểu hiện mới. Trong nền
kinh tế thị trường tư bản xã hội chủ nghĩa, độc quyền phát triển một trình độ
nhất định sẽ xuất hiện độc quyền nhà nước. Độc quyền nhà nước có vai trị quan
trọng đối với sự ổn định của nhà nước tư sản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh
của nhà nước tư bản. Các biểu hiện của nó gồm: Sự thâm nhập lẫn nhau về nhân
sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước, sự hình thành và phát triển sở hữu nhà
nước, sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản bằng một hệ thống những thiết chế
và thể chế kinh tế. V.I. Lênin cho rằng: “…phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội , làm
phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lưc lượng sản xuất
lên”.Do đó, ở một đất nước đang trong thời kì quá độ như nước ta việc vận dụng
các hình thức kinh tế tư bản nhà nước chính là phương thức để chúng ta huy
động mọi sức mạnh của dân tộc, kết hợp với các yếu tố bên ngoài để đưa nước ta
thốt khỏi đói nghèo, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh”. Sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh về kinh tế. Tuy
nhiên, vấn đề vận dụng này ở nước ta còn khá mới mẻ và phức tạp. Những thành
tựu đạt được mới chỉ ở bước đầu, cần xuất phát từ thực tiễn đổi mới để tìm ra
con đường, biện pháp phù hợp đưa nước ta từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội
một cách vững chắc.

17


E. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị MÁC – LÊNIN – Chương 4.
2. />3. />MhHmoFzgE2yjIa0
4. />fvxopyeZAcFd0
5. />Yae3gtH6nV4
6. />
18




×