Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Vũ mạnh thắng 1951080208 010100510813 (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.12 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA CƠ KHÍ
BÁO CÁO THỰC TẬP CHUN MƠN


MỤC LỤC

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: SỰ PHÁT TRIỂN VỀ ĐƯỜNG LỐI VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
CỦA ĐẢNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954-1975 2

1.1. Quá trình hình thành và phát triền đường lối của Đảng trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954- 1975.................................................................................. 2
1.2. Vai trò của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ 1954-1975............................... 4
1.3. Kết quả trong thực tế........................................................................................................... 6
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNGHIỆN NAY...................................................................................................... 8
2.1. Thuận lợi và khó khăn của lãnh đạo Đảng hiện nay.................................8
2.2. Thành tựu và hạn chế của lãnh đạo Đảng hiện nay................................10
2.3. Bài học và phương hướng xây dựng giá trị đó..........................................12
KẾT LUẬN............................................................................................................ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 17


LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trải qua thời gian học kỳ I của năm 2020 – 2021 ở môn Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, em đã được cô Quế phụ trách giảng dạy nội dung môn học phần này. Em
rất hài lịng và cảm kích vì điều này. Đến phần kết thúc của học phần, khoa lý luận
chính trị của nhà trường đã đưa ra phương thức thi là viết bài tiểu luận này với nhiều


đề tài bổ ích khác nhau. Mỗi đề tài có nét hay riêng nhưng mọi thứ mà chúng em
phải tìm hiểu, thu thập thơng tin trong bài tiểu luận này chủ yếu liên quan đến Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi được nhận các đề tài giáo viên giao , đề tài: “Sự phát triển về đường lối
và chỉ đạo thực hiện của đảng trong kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954- 1975.
Giá trị của những bài học rút ra cho sự lãnh đạo của đảng hiện nay”. Đây là đề tài có
mốc thời gian khá gần gũi so với đất nước chúng ta, đề lại nhiều kỉ niệm buồn vui
trong mỗi cá nhân thời đó cho đến tận bây giờ.
Hiện nay, với nhân dân Việt Nam ta nói chung và các học sinh sinh viên như
chúng em hiện nay cần được trau dồi, cung cấp nhiều kiến thức về Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam để thấu cảm và am hiểu cho ông cha ta ngày xưa đã phải lặn lội,
hy sinh thân mình để chống chọi quân địch, bảo vệ và cứu lấy tổ quốc, giành độc
lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc ta. Em viết tiểu luận với đề tài này để bày tỏ lịng
biết ơn, kính trọng những điều kỳ diệu đó, và cũng như là muốn để lại cho mình
những kiến thức sâu sắc về thời chinh chiến ấy.
Trong quá trình làm bài tiểu luận em đã tìm hiểu những nguồn thơng tin mang
tính xác thực, chính xác nhất và chọn lọc những ý chính cần thiết nhất để hoàn thiện
bài tiểu luận. Bài tiểu luận kết thúc môn học phần này đã được em chỉnh sửa từ
những kiến thức tham khảo ở những bài học vừa rồi, để tránh có sự thiếu sót gì em
đã được nhận xét và chiếu cố từ cô và tự bản thân mình đã sửa đổi một cách hồn
chỉnh nhất có thể để khơng phụ lịng giảng dạy của cơ.
Em cảm ơn cô đã giảng dạy, hỗ trợ chúng em trong thời gian học tập vừa qua, giúp
chúng em có được những kiến thức hữu ích và thiết thực. Em xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG 1:SỰ PHÁT TRIỂN VỀ ĐƯỜNG LỐI VÀ CHỈ
ĐẠO THỰC HIỆN CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC NĂM 1954 – 1975
1.1. Quá trình hình thành và phát triển đường lối của Đảng trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1954 – 1975.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa
Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng,
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng”
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ - một kẻ thù có
tiềm lực mạnh về kinh tế, quân sự đứng đầu phe chủ nghĩa đế quốc cùng với bè lũ tay
sai, trên cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực
lượng so sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến thực
tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; vững tin vào lòng yêu
nước và sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân
dân để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành sự nghiệp giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đường lối ấy của Đảng
không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn chỉnh, là nhân tố quyết định trực tiếp
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đường lối chiến

tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là quá trình hình
thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Đại hội, Hội nghị của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị từ năm 1954 đến năm 1975.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc, đế quốc Mỹ đã từng
bước thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Trước tình hình đó, tại Hội nghị Trung
ương 6 khóa II (6 - 1954) Đảng ta đã xác định: Kẻ thù chính của nhân dân yêu


chuộng hịa bình thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân
Đơng Dương là đế quốc Mỹ. Về sách lược cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nhận định: Do tình hình mới, ta thay đổi phương châm, chính sách và
sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt.
Đến tháng 9 năm 1954, Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ
mới và chính sách mới của Đảng đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình
trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển
sang hồ bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị;
từ phân tán chuyển đến tập trung. Trong điều kiện đó, Hội nghị Trung ương 7 khóa
II (3 - 1955) và Trung ương 8 khóa II (8 - 1955) đã xác định phương hướng, nhiệm

vụ của cuộc chiến tranh: “Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hồ bình,
thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức
củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam”.
Tiếp đến Hội nghị Trung ương 13 khóa II (12 - 1957) của Đảng xác định
đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: “Tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và
dân chủ trong cả nước”.
Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Mỹ - Diệm tiến hành chính sách cai trị tàn bạo,
phát xít hóa, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng ở miền Nam. Thực tiễn đòi hỏi
nhân dân miền Nam phải vùng lên đấu tranh với kẻ thù. Trước tình hình đó, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tổ chức Hội nghị Trung ương 15 (1 - 1959) họp
bàn về cách mạng miền Nam. Nghị quyết phân tích rõ tính chất, mâu thuẫn trong xã
hội miền Nam. Từ đó, xác định rõ lực lượng cách mạng, kẻ thù, nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam; xác định phương pháp cách mạng và con đường mới; dự kiến về
khả năng phát triển của tình hình, xây dựng mặt trận để tập hợp rộng rãi tất cả các lực
lượng chống đế quốc và tay sai , khẳng định sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ
miền Nam là yếu tố quyết định giành thắng lợi của cách mạng miền Nam là yếu tố
quyết định giành thắng lợi của cách mạng miền Nam



Đại hội đại biểu lần thứ III (9 - 1960), của Đảng diễn ra trong hoàn cảnh đất
nước vẫn tạm thời chia làm hai miền, mỗi miền có một chế độ chính trị khác
nhau. Miền Bắc quá độ lên xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân để tiến tới thống nhất đất nước. Đại hội xác định đường
lối chung của cách mạng Việt Nam: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết
đấu tranh giữ vững hồ bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng
cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và thế giới”.
Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai
nhiệm vụ chiến lược. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Mục tiêu chiến lược: Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng
ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu
cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ
đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc
Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hồ bình,
thống nhất Tổ quốc
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các
nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn;
đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền
Bắc. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 11 (3 - 1965) và Hội nghị Trung ương
12 (12 - 1965) đã phân tích âm mưu, bản chất của đế quốc Mỹ, đã đánh giá so sánh
lực lượng giữa ta và địch, đi tới kết luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng
chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch không thay đổi lớn. Ban
Chấp hành Trung ương Đảng xác định quyết tâm và nhiệm vụ chung của cả nước lúc

này là: Kiên quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, động viên lực lượng cả nước,
quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc


Mỹ. Tập trung lực lượng cả nước, kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị
đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.
Đối với chiến trường chính miền Nam, Nghị quyết xác định phương châm chiến
lược là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời hết sức tranh thủ sự giúp đỡ,
ủng hộ của quốc tế.
Đối với miền Bắc, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tích
cực đề phịng để đánh địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh
cục bộ ra cả nước. Thực hiện chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây
dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh
phá hoại. Động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện đắc lực cho
cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Trước những thất bại liên tiếp của địch trên chiến trường, Đảng ta chủ trương:
Cùng với các mũi tiến cơng qn sự và chính trị, cần mở thêm mặt trận tiến công
ngoại giao, nhằm tố cáo, vạch trần thủ đoạn hịa bình kiểu lừa bịp của đế quốc Mỹ.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa III) (tháng 01 - 1967) quyết định triệt
để tận dụng thời cơ, mở mặt trận ngoại giao, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân
sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa cuộc kháng chiến lên bước phát triển mới.
Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 - 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn
chiến và phá hoại Hiệp định. Trước tình hình đó, tháng 7 - 1973, Hội nghị TƯ
Đảng lần thứ 21, khoá III họp và ra Nghị quyết lịch sử: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới”; Hội nghị xác định: “con đường của cách mạng miền Nam là con đường
cách mạng bạo lực, bất kể trong tình huống nào phải nắm vững thời cơ, giữ vững
chiến lược tiến cơng và chỉ đạo linh hoạt”4.

Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hồn tồn miền Nam
(10 - 1974), và Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 - 12 - 1974 đến ngày 7 - 1 1975), chỉ rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh
những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách


mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch
tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
1.2.

Vai trò của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ 1954 – 1975

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao
vị trí, vai trị của thanh niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách
mạng, đồn thanh niên là đội dự bị tin cậy của Đảng, công tác thanh niên là vấn
đề sống cịn của dân tộc. Hồ Chí Minh gắn “số phận và sự nghiệp” của thanh niên
với “số phận và sự nghiệp” của đất nước. Người nói: “Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”.
Nhận rõ vai trị, vị trí của mình đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời để tập hợp, đoàn kết, khơi dậy
và phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, khát vọng cống hiến. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện lời kêu gọi “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, các thế hệ, các
tầng lớp Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, sẵn sàng đi bất
cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì Tổ quốc cần để hiến dâng tuổi thanh xuân của mình
cho Tổ quốc. Sức mạnh “dời non lấp biển” của nhân dân đã tạo nên một dịng
thác, một làn sóng, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn chìm, đánh bại kẻ thù xâm
lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.



Một là, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn về công tác, vận động và tập
hợp. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn để tập hợp,
vận động thanh niên cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam.

Trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là trong cơng tác tư tưởng, vấn đề
tập hợp, đồn kết, vận động nhân dân luôn là một trong những nội dung quan trọng.
Đặc biệt, ở những thời điểm quyết định, mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến,
những lúc chiến tranh chuyển giai đoạn, khi tình hình quốc tế diễn biến phức tạp,
hoặc khi kẻ địch sử dụng những thủ đoạn mới, Đảng đã kịp thời ban hành các chỉ thị
chuyên đề về cơng tác. Đó là những quan điểm, chủ trương của Đảng trong


cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà cho đến nay, nhiều nội dung, tư tưởng
vẫn còn nguyên giá trị.


Hai là, tuyên truyền và giáo dục lý tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học kỹ
thuật; giác ngộ trách nhiệm của cá nhân, sứ mệnh lịchsử đối với đất nước
và dân tộc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954- 1975 đã xảy ra nước ta trong thời
kì nghèo nàn, lạc hậu, khó khăn nhưng nhân dân ta ln có tinh thần cao cả là bảo
vệ đất nước. Trong bối cảnh đó, việc giúp xác định được lý tưởng, sống có lý
tưởng, nhận thức được ý nghĩa của lý tưởng đối với cuộc sống, để vươn lên ngang
tầm yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử, từ đó cụ thể hóa thành hành động cách mạng là
một nhiệm vụ quan trọng chính là khát vọng được cống hiến tuổi xuân, sức trẻ,
sẵn sàng xả thân, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc,
thống nhất nước nhà, là đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước

hết. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của thanh niên không
phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho
nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi
ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”.


Ba là, khơi dậy, tập hợp, đoàn kết và phát huy cao độ lịng u nước, nhiệt
tình cách mạng, tinh thần xung kích cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

1.3 Kết quả đạt được trong thực tế
Ngày hôm nay, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc nhận thức và phát huy được vai trò của
thanh niên trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa rất quan trọng,
quyết định sự thành bại của quốc gia, dân tộc cũng như tương lai của nước nhà.
Thực tế đã minh chứng, thành quả của hơn 30 năm đổi mới đất nước vừa qua có
sự đóng góp không nhỏ của các tầng lớp thanh niên Việt Nam.
Nhưng bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, có một thực tế là chúng ta vẫn
chưa khơi dậy và phát huy hết sức mạnh tinh thần và lực lượng của một bộ phận
thanh niên cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có khơng ít thanh niên đứng
ngồi q trình phát triển của đất nước, thờ ơ, bàng quan với tương lai và vận mệnh
của nước nhà. Một bộ phận thanh niên suy thoái về đạo đức, lối sống, nhận thức


lệch chuẩn về các giá trị truyền thống, đạo lý, lẽ sống, mắc phải các tệ nạn xã hội.
Nhiều trí tuệ, tài năng, sinh viên, trí thức thanh niên khơng được sử dụng, đãi ngộ,
phát huy, thậm chí bị bỏ qua, làm mất đi một nguồn chất xám quan trọng phục vụ
cho quá trình phát triển của đất nước. Thực trạng trên có cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan, song chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan.
Cần phải khẳng định rằng, trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước trong thời bình, xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khi tình hình thanh niên, tư

tưởng, tâm lý của thanh niên đang có những thay đổi lớn, vấn đề đặt ra là chúng ta cần
có sự đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức vận động, tuyên truyền thanh niên cho
phù hợp với sự thay đổi của tình hình. Khác với thời kỳ đất nước có chiến tranh, trong
giai đoạn hiện nay, để vận động, tập hợp, đoàn kết thanh niên, bên cạnh việc phát huy
lòng yêu nước, tinh thần xung phong, xung kích, dấn thân, đổi mới, sáng tạo của thanh
niên, cần chú ý đến động lực vật chất - kinh tế, kết hợp hài hòa, hợp lý giữa động lực lý
tưởng - tinh thần - tình cảm với động lực vật chất - kinh tế.

Chúng ta cũng cần đặc biệt chú ý đến việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh,
dân chủ, cơng bằng, mà ở đó đạo đức được đề cao, con người sống trong tình thương
yêu lẫn nhau. Đồng thời, kiến tạo môi trường năng động, sáng tạo, đổi mới, gắn trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi cá nhân với trách nhiệm, nghĩa vụ với tập thể, xã hội;
ở đó thành quả lao động, tài năng được trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng, một môi
trường mà tất cả mọi người, trong đó có thanh niên đều cần phải cố gắng, nỗ lực
khơng ngừng vươn lên, dấn thân, đóng góp cho đất nước và xã hội. Xây dựng và kiến
tạo được môi trường xã hội lành mạnh, tốt đẹp, chúng ta nhất định sẽ tập hợp, phát

huy được tinh thần và lực lượng của thanh niên.
Để kiến tạo được môi trường xã hội lành mạnh, yêu cầu rất quan trọng là phải
xây dựng được Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh.
Đảng phải xứng đáng lại đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và cả dân tộc thì mới có thể lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết.


CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG HIỆN NAY.
2.1. Thuận lợi và khó khăn của lãnh đạo Đảng hiện nay
2.1.1. Thuận lợi của lãnh đạo Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, khơng có các đảng
chính trị đối lập nên khơng có sự cạnh tranh về vai trị lãnh đạo của Đảng; - Đảng

hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và được quy định tại Điều
4 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, một
công cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối
với tồn xã hội và có Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội hoạt động
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân
và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Đảng ta” là cái tên được gọi một cách trìu
mến và thân thuộc; được nhân dân tin yêu, che chở, bảo vệ. Người dân coi Đảng
chính là Đảng của mình.
Mối quan hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam với các Đảng Cộng sản và Công
nhân quốc tế ngày càng được mở rộng. Ngoài ra, trên thế giới, Đảng cịn có quan
hệ với nhiều đảng cầm quyền khác; có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của
bạn bè và nhân dân u chuộng hồ bình, tiến bộ trên thế giới.
2.1.2. Khó khăn của lãnh đạo Đảng
Đảng cầm quyền sau khi được hình thành, những suy thối của một số cán bộ,
đảng viên bị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ và cảnh báo hai nguy cơ đối
với một Đảng cầm quyền:


một là, sai lầm về đường lối



hai là, sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại
hội VII của Đảng thông qua (năm 1991), Đảng lại nhấn mạnh đến hai nguy cơ này và



đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (năm 1994), Đảng đã
bổ sung thêm và xác định có 4 nguy cơ đối với Đảng và cách mạng Việt Nam lúc
này là:




Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới, do điểm xuất phát thấp.

Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.



Nguy cơ về tệ nạn tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí.



Nguy cơ “Diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch.

Trong 4 nguy cơ đó, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại và nó chính là chỗ
dựa để cho những nguy cơ từ bên ngồi tấn cơng vào Đảng. Cụ thể là: nguy cơ sai
lầm về đường lối, đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa là nguy cơ có thể xảy ra bất cứ
lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong nước cũng như trên thế
giới và trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, nguy cơ này chỉ diễn
ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp hoạch định ra đường lối. Vì
vậy, việc xây dựng một tập thể lãnh đạo cao nhất của Đảng ngang tầm nhiệm vụ
trong mỗi thời kỳ của cách mạng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, bởi

vì nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng vững vàng, kiên định về đường lối thì dù
có một số cấp lãnh đạo ở địa phương, cơ sở có chệch hướng về điểm này, điểm
khác thì cũng khơng thể lay chuyển được sự lãnh đạo của Đảng.
Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn
quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí. Đây là nguy cơ nguy hiểm nhất và có thể
xảy ra bất cứ lúc nào, bởi vì, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận
đáng kể cán bộ, đảng viên trở thành những cán bộ có chức, có quyền trong hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đây là điều kiện dễ làm cho cán bộ, đảng
viên thoái hoá, biến chất, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến phai nhạt lý
tưởng, tham nhũng, xa rời nhân dân và dễ xa vào những tệ nạn mà khi Đảng chưa
giành được chính quyền khơng có được. Những tệ nạn này khơng chừa một ai và
bất kỳ cán bộ đó làm gì, ở lĩnh vực nào, ở cấp cao hay thấp, nếu cán bộ đó khơng
kiên trì học tập, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng thì đều có thể mắc phải.
Trong điều kiện mới hiện nay, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức


lối sống, đặc biệt là tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân diễn ra rất tinh vi,
phức tạp và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ
diễn ra riêng lẻ và đối với những đảng viên thường, mà có nơi, có lúc đã trở thành
số đơng có tính chất tập thể, thậm chí có cả một tổ chức, một cấp uỷ và xảy ra đối
với cả một số cán bộ có trình độ cao, có những người giữ chức vụ chủ chốt trong
bộ máy của Đảng hoặc cơ quan quản lý của Nhà nước. Đây là nguy cơ “diễn biến
bên trong” đặc biệt nguy hại không thể coi thường. Những nguy cơ mà Hội nghị
đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng chỉ ra, đến nay vẫn cịn ngun tính
thời sự, nó khơng cịn là nguy cơ nữa mà đã trở thành những thách thức hiển hiện
trong thực tế và càng ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
2.2. Thành tựu và hạn chế của lãnh đạo Đảng hiện nay
2.2.1. Thành tựu của lãnh đạo Đảng
Đảng đã luôn luôn trung thành và vận dụng đúng đắn những nguyên lý về xây

dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tế. Tùy theo từng giai
đoạn, Đảng đã có các chủ trương và sự chỉ đạo năng động, sát đúng, đáp ứng kịp
thời yêu cầu của miền Bắc, đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từng bước
vượt qua khó khăn đi lên giành những thắng lợi quan trọng.
Đảng đã động viên, đoàn kết, tổ chức nhân dân miền Bắc kiên trì phấn đấu hoàn
thành các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, thu được nhiều thành tựu đáng tự hào.
Miền Bắc đã căn bản xóa bỏ được chế độ người bóc lột người; hình thành quan hệ
sản xuất mới tiến bộ, thúc đẩy sản xuất phát triển; cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
được xây dựng bước đầu; văn hóa, xã hội lành mạnh, ưu việt; hệ thống chính trị được
củng cố vững mạnh; khơng có nạn đói, dịch bệnh dù chiến tranh ác liệt, kéo dài; quan
hệ quốc tế mở rộng, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của thế giới,...

Những thành tựu đó tuy cịn nhỏ bé, còn xa với những mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, nhưng đặt vào hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thì có giá trị thật lớn lao.
Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp thu và sử
dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng vững trong
chiến tranh, mà còn đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng kỹ thuật và phát
triển hiện đại nhất của đế quốc Mỹ. Qua hai lần chống chiến tranh phá hoại, quân


dân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay trong đó có nhiều B.52, bắn cháy 271 tàu
chiến, bắt hàng trăm giặc lái Mỹ.
Song song với những thành tựu đó, miền Bắc cịn hồn thành xuất sắc nhiệm
vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành nghĩa vụ quốc
tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
2.2.2. Hạn chế của lãnh đạo Đảng
Việc tổ chức thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra có
nhiều vấn đề chưa kịp thời cụ thể hóa và vận dụng tốt vào các kế hoạch phát triển
kinh tế, văn hóa..., chưa nắm vững và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây
dựng quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất.

Trong chỉ đạo cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiến hành cơng
nghiệp hóa đã có chủ quan, duy ý chí và giáo điều.
Trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế trung ương và kinh tế địa
phương, chưa chú ý phát triển đúng mức kinh tế địa phương.
Bộ máy quản lý và tổ chức có khả năng thực hiện khá kém, pháp chế xã hội
chủ nghĩa còn chưa rõ ràng và chắc chắn.
Trong lĩnh vực lưu thơng, phân phối, tài chính, ngân hàng, giá cả, tiền lương...
có những nhận thức và thực hiện khơng đúng, làm cản trở việc đẩy mạnh sản xuất
và phục vụ đời sống nhân dân.
2.3. Bài học và phương hướng xây dựng giá trị đó
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh
quốc tế hết sức phức tạp, vừa có thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn. Đối
phương của chúng ta có sức mạnh vượt trội cả về kinh tế và quân sự, với âm mưu
chia cắt lâu dài đất nước ta, chia rẽ phe xã hội chủ nghĩa.


Vì vậy, cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ trở thành
tâm điểm của cả thế giới và trở thành cuộc đọ sức điển hình, quyết liệt giữa
cách mạng và phản cách mạng.

Dù độc lập tự chủ trong quá trình hoạch định đường lối, nhưng để đánh bại được
đế quốc hùng mạnh thì cần phải kết hợp sức mạnh của cả dân tộc và sức mạnh thời
đại. Để thực hiện thành công vấn đề này, một mặt, phải phát huy tiềm lực của chính
mình, mặt khác, phải có chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo để tranh


thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước trên thế giới, trong đó có sự liên minh ba
nước Đơng Dương, đặc biệt là sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh sự đoàn kết quốc tế, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ln coi
trọng việc đồn kết tồn dân tộc, xem đó như là ý nghĩa sống còn để đi đến thắng

lợi của cách mạng. Đồng thời, Đảng cũng tiến hành xây dựng các lực lượng vũ
trang nhân dân vững mạnh, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ, đứng vững trước
mọi thử thách của cuộc chiến tranh.


Vì vậy, Đảng đã tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ, tận dụng mọi
nhân tố tích cực có thể tận dụng được, hoan nghênh mọi sáng kiến vì hịa
bình. Ngồi ra, ln kiên quyết một cách có ngun tắc và khơn khéo,
mềm dẻo, kiên trì thuyết phục nhằm hạn chế những nhân tố tiêu cực trong
quan hệ quốc tế.

Nhìn vào việc đánh giá đúng kẻ thù, nhận định đúng về tình hình trong nước và
quốc tế, có đường lối đối ngoại mềm dẻo, phù hợp, Đảng ta đã đề ra đường lối sáng
tạo và tài tình, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng
hộ của bạn bè quốc tế nên đã giành được chiến cơng chói lọi trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi vĩ đại của dân tộc là cơ sở phát huy cao độ tiềm lực
của cả nước, thực hiện chiến lược đoàn kết toàn dân tộc, khắc phục mọi khó khăn,
vượt qua thử thách, từng bước thoát khỏi khủng hoảng, phá thế bao vây, cấm vận về
kinh tế, bảo vệ Tổ quốc và làm trịn nghĩa vụ quốc tế. Đồng thời, thực hiện thành
cơng đường lối đổi mới, đưa đất nước phát triển toàn diện và mạnh mẽ, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn, hiện nay chúng ta cũng gặp khơng ít
những khó khăn, thách thức trong q trình hội nhập quốc tế. Các vấn đề này đã
và đang là những khó khăn khơng nhỏ đối với Đảng trong vai trò lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng đất nước.
Thay vào đó chúng ta có những bài học kinh nghiệm trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, có giá trị trường tồn và là cơ sở để Đảng ta có những chủ trương và
quyết sách phù hợp, từng bước làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đưa đất nước ta

tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Hiểu rõ những vấn đề xây dựng Đảng trong lịch sử để vận dụng những kinh
nghiệm để làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Chống nguy cơ
sai lầm về đường lối, nguy cơ quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng và những
biểu hiện tiêu cực khác. Thực hiện tốt hơn Nghị quyết Trung ương khóa XII (3010-2016). Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ
Nghị quyết chỉ rõ tập trung cao độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng:
1 ) Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.
2 ) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế 3 )
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền

trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.


Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách
nhất.

Vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương phịng, chống tham
nhũng, lãng phí. Dù có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và
đạt được những kết quả bước đầu nhưng công tác phịng, chống tham nhũng, lãng
phí vẫn chưa đạt u cầu và mục tiêu đề ra.

Tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức
tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh
vực..., gây bức xúc trong xã hội và là thách thứ lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước. Hội nghị Trung ương 4, khóa XI (1-2012) đã đưa ra kết
luận tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống
tham nhũng, lãng phí. Trung ương xác định phịng, chống tham nhũng, lãng phí là
nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả.


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và thời kỳ đổi mới, Đảng ln quan tâm, có
nhiều chủ trương lãnh đạo công tác dân vận. Trên thực tế, công tác dân vận đã đạt
được những kết quả quan trọng, tuy nhiên vẫn còn nhiều khuyết điểm, yếu kém.

Hội nghị Trung ương 7 (5-2013) chủ trương tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Quan điểm chỉ đạo của
Trung ương là: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ. Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là
phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hịa
các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp
của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có
lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin
tưởng, noi theo. Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi
cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân,
cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức
thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nịng cốt. Nhà nước tiếp tục thể chế
hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành quy chế,

quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên
chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực hiện cơng tác dân vận; các hình thức
tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.


KẾT LUẬN
Với đề tài “Sự phát triển về đường lối và chỉ đạo thực hiện của đảng trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975. Giá trị của những bài học rút ra
cho sự lãnh đạo của đảng hiện nay”, em nhận ra được rằng đất nước Việt Nam
ta có những người mang trong mình một dịng máu u nước nồng nàn, tâm
huyết góp sức về của cải, vật chất lẫn tinh thần để xây dựng nên Đảng trong
thời kì đó. Có những lúc khó khăn, vất vả vẫn ln sát cánh bên nhau, hỗ trợ
nhau vượt qua khó khăn, nhờ vậy mà chúng ta có cuộc sống như ngày hiện nay.
Chúng em cảm ơn những lãnh đạo của Đảng, nhất là vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí
Minh đã cho ta một mùa ấm no, hịa bình đến như vậy. Đồng thời qua việc tìm
tịi và nghiên cứu đề tài này em biết hiểu thêm nhiều về hoàn cảnh ra đời và xây
dựng lên Đảng Cộng sản là một cả nỗ lực to lớn của Việt Nam ta. Nhờ đó mà
Đảng đã nhận ra những sai sót, thiếu thốn của mình để chỉnh sửa và đưa ra
phương hướng xây dựng và duy trì nó vươn tới tương lai bền vững, tốt đẹp.
Qua bài tiểu luận này em đã và đang có lịng tự hào về dân tộc Việt Nam ta có
tinh thần thép, tinh thần đồn kết, nỗ lực, kiên trì vượt lên thử thách, chống
chọi với địch đề dành được độc lập, tự do, hạnh phúc. Những điều ấy cũng là
nhờ mọi công sức vất vả, bày ra chiến lược xây dựng và phát triển của Đảng
Cộng sản góp cho đất nước ngày một tương lai tốt đẹp hơn và sáng lạng hơn.
Đây là một đề tài lớn, mang lại nhiều ý nghĩa trong em. Giúp em nhận ra được
rằng mình phải noi gương theo những điều tốt đẹp đó để giữ lấy nó, duy trì nó.
Những hành vi có ý xấu hay sai trái với Đảng đáng bị lên án và trừng phạt một
cách thích đáng để họ có thể nhận ra lỗi lầm ấy và sửa chữa nó bằng những
hành động giúp ích cho xã hội hiện nay và mai sau.
Nếu trong bài tiểu luận có những gì chưa hồn thiện mong cơ bỏ qua và được

sự chỉ dẫn khắc phục cũng như là góp ý kiến chân thành để em có thể hồn
thiện bản thân tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003, t. 26, tr. 333.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr. 337
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013, tr. 59.
4. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội đồng biên soạn (Theo Quy định số 5001/QĐ-BGDĐT, ngày 29 tháng 11
năm 2017, của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 216
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.9, tr. 265
7. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.13, tr.90
8. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.14, tr.533-534
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.15, tr.131
10. Khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Học viện Chính trị



×