Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.41 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
*******

TIỂU LUẬN ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ
CHỦ ĐỀ:
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG
VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA BIỂN
ĐÀ NẴNG HIỆN NAY

Đà Nẵng, tháng 06 năm 2022


M ỤC L ỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 4
NỘI DUNG....................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CÁC LÀNG BIỂN ĐÀ NẴNG.........................................6
1. Điều kiện tự nhiên......................................................................................................6
2. Lịch sử hình thành và phát triển..................................................................................6
3. Điều kiện kinh tế - xã hội............................................................................................7
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG...............................................8
2.1Văn hóa sinh kế.........................................................................................................8
2.2 Văn hóa tổ chức cộng đồng.....................................................................................10
2.3 Văn hóa sinh hoạt...................................................................................................12
2.4. Văn hóa tâm linh....................................................................................................14
2.5. Văn hóa nghệ thuật................................................................................................18
2.6. Văn hóa sinh thái...................................................................................................20
CHƯƠNG 3: BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG HIỆN NAY...........21
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO:............................................................................................25





MỞ ĐẦU

Theo GS.TS Ngơ Đức Thịnh: “Văn hóa biển là hệ thống tri thức của con người về môi
trường biển, các giá trị rút ra từ những hoạt động sống của con người trong mơi trường
ấy, cùng với nó là những cảm thụ, hành vi ứng xử, nghi lễ tập tục, thói quen của con
người tương thích với mơi trường biển”. Cịn theo Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa
biển là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo và tích lũy được trong q trình tồn tại
lấy biển làm nguồn sống chính”.
Như vậy văn hóa biển khơng phải là những cái lớn lao nào đó mà là những điều bình dị
thể hiện ngay trong lối sống, phong tục tập quán làng biển đó để tạo nên nét riêng biệt
độc đáo với những làng biển khác. Trong các tỉnh thành có biển ở Việt Nam, Đà Nẵng
được biết đến là một trong những thành phố biển năng động của miền Trung cũng như
của cả nước. Văn hóa biển nơi đây được thể hiện đậm nét trong đời sống của cư dân, tạo
nên một diện mạo đặc trưng cho văn hóa thành phố. Mặt khác, văn hóa biển của cư dân
ven biển Đà Nẵng còn là kết quả của q trình giao lưu văn hóa với các tộc người đặc
biệt là tộc người Chăm. Với đặc điểm lịch sử quan trọng đó, có thể khẳng định, văn hóa
biển Đà Nẵng chính là một trong những cái gốc của văn hóa biển phương Nam trong q
trình Nam tiến của dân tộc
Hiện nay, ngư dân Đà Nẵng sống tập trung trên những cồn cát chạy dài ven biển như
Nam Ô, Thanh Khê, Tân Thái,… Họ đã để lại những dấu ấn về văn hóa khá độc đáo của
mình trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt, tín ngưỡng, góp phần làm phong
phú thêm kho tàng di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Chính vì lẽ đó, em xin đi vào tìm hiểu đề tài “Phân tích đặc điểm của văn hóa biển
Đà Nẵng và những biến đổi của văn hóa biển Đà Nẵng hiện nay dựa trên kết quả khảo sát
ở năm làng biển: Thanh Khê, Nam Ô, Nại Hiên Đông, Tân Thái, Nam Thọ”.

NỘI DUNG



CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CÁC LÀNG BIỂN ĐÀ NẴNG
1. Điều kiện tự nhiên
Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc trung ương, nằm trong vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ Việt Nam, là thành phố trung tâm và lớn nhất khu vực miền Trung - Tây
Nguyên. Đà Nẵng nằm ven Biển Đơng, có diện tích tự nhiên 1.255,53 km2. (trong đó
phần đất liền là 950,53 km2, phần huyện đảo Hoàng Sa là 305 km2). Phía bắc giáp tỉnh
Thừa Thiên Huế, phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đơng giáp Biển Đơng.
Thành phố có 06 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu,
Cẩm Lệ và 02 huyện: Hịa Vang và huyện đảo Hồng Sa. Đà Nẵng có bờ biển dài khoảng
92 km, có vịnh nước sâu với cảng biển Tiên Sa, có vùng lãnh hải thềm lục địa với độ sâu
200 m, tạo thành vành đai nước nơng rộng lớn thích hợp cho phát triển kinh tế tổng hợp
biển và giao lưu với nước ngoài. Bờ biển có nhiều bãi tắm đẹp như: Non Nước, Mỹ Khê,
Thanh Khê, Nam Ô, Làng Vân... với nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, có giá trị lớn
cho phát triển du lịch và nghỉ dưỡng. Các làng biển Đà Nẵng nằm ở Trung bộ Việt Nam,
thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết ở dây là sự chuyển tiếp đan xen giữa
khí hậu miền Bắc và miền Nam.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
Theo các nhà nghiên cứu thì nghề làm biển của ngư dân Đà Nẵng đã được hình thành
từ lâu đời, từ khi người Việt từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh trên bước đường Nam tiến vào
đây lập nghiệp, họ lập nên những làng mạc và sống chủ yếu bằng nghề nông truyền
thống, một số sống bằng nghề đánh bắt thủy sản trên những khúc sông vắng, ở những cồn
bãi xa, dần dần họ tách ra và hình thành nên những xóm ở ven sơng, ven biển. Sau đó,
những lớp người mới hoặc dân ngụ cư, dân nghèo di cư đến ngày càng đông, hợp với lớp
người đi trước và trở thành những cư dân sống bằng nghề đi biển.
Có thể nói, từ những đợt di cư đầu tiên của người Việt đến vùng đất mới, họ đã gặp gỡ
người Chăm, một dân tộc vốn có truyền thống hành nghề đi biển để rồi trong q trình
chung sống, giữa họ có sự tiếp biến và giao lưu văn hóa lẫn nhau. Dần dần, những di dân
người Việt ở các làng ven biển đã học hỏi kinh nghiệm làm biển của người Chăm, lâu dần

họ tích góp được những kinh nghiệm làm nghề cho riêng mình. Từ đó hình thành nên các
làng biển cổ truyền với đặc trưng văn hóa đặc sắc, mang đậm nét văn hóa biển truyền


thống của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như của các làng văn hóa biển Đà Nẵng nói
riêng.
3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Kinh tế đóng vai trị cốt lõi, không thể thiếu trong đời sống của cư dân ven biển Đà
Nẵng. Sự phát triển của kinh tế quyết định đến đời sống vật chất và tinh thần của người
dân. Vì có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên khai thác, đánh bắt thủy sản là
hoạt động kinh tế chính của người dân nơi đây. Đồng thời, nơi đây cịn phát triển nơng
nghiệp trồng lúa nước, khoai, sắn, làm thủ công nghiệp và bn bán. Cuộc sống cư dân
có nhiều đổi thay theo từng thời kỳ phát triển của thành phố. Theo đó, xã hội cũng được
ổn định, đời sống nhân dân được chăm lo, trật tự an ninh được giữ vững. Người dân được
cải thiện cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Tình hình chung của ngư dân làng biển đi đánh bắt với những dụng cụ được coi là gắn
với họ từ rất lâu đời, những cử chỉ hành động vừa làm ruộng vừa đánh bắt thủy sản luôn
luôn tồn tại suốt quá trình hình thành và phát triển của ngư dân làng biển. Vậy nên, công
việc này gặp không ít những khó khăn do nguồn tài nguyên ven bờ giảm dần; nghề cá nổi
tiếp tục mất mùa; giá thu mua các sản phẩm thủy sản thấp; thị trường tiêu thụ các sản
phẩm khơ có xu hướng giảm...Nhưng về sau các loại kinh tế mới ra đời bù đắp lại những
thiệt hại trước đó để tạo ra sản phẩm mới thúc đẩy và được thị trường tiêu thụ rộng rãi;
quá trình đơ thị hóa đã nhanh chóng tạo những thuận lợi cho kinh tế phát triển phù hợp
với xu thế chung theo điều kiện hiện nay, góp phần tăng mức sống vật chất và tính thần
cho ngư dân nơi đây.


CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG
2.1 Văn hóa sinh kế
Văn hóa sinh kế là nơi thể hiện rõ nhất phương thức sản xuất, cách thức mưu sinh của

cư dân vùng biển đảo, phản ánh đời sống kinh tế của họ. Những kiến thức,hiểu biết, giá
trị trong văn hóa sinh kế thường được biểu hiện tập trung trong kỹ năng chế tạo công cụ
phục vụ nghề biển, trong kỹ thuật đánh bắt cá và các loại hải sản; trong kinh nghiệm
đóng tàu, thuyền bè phục vụ ngư nghiệp và vận chuyển, đi lại; trong việc nuôi trồng và
khai thác thủy, hải sản; trong việc chế biến các sản phẩm thu được từ biển và đại dương;
trong các kỹ năng thích ứng với mơi trường biển…Lăn lộn với biển cả từ đời này qua đời
khác, người ngư dân vùng biển đảo Đà Nẵng đã truyền cho nhau những kinh nghiệm quý
để nhận biết về các luồng cá ngư trường, sử dụng ngư cụ; các phương thức đánh bắt cá,
tôm; về thời gian, mùa vụ đánh bắt sao cho hiệu quả,…
Theo ơng Ngơ Văn Ơn làng Nam Thọ: “Đánh bắt này theo mùa. Ví dụ như mùa đơng
thì họ làm nghề khác, cịn mùa hè thì họ làm nghề khác. Mùa hè là họ làm những nghề
như đèn, đuốc, tùy theo môi trường. Cao điểm của dân làng chài là làm quanh năm, chứ
khơng có chia theo tháng mấy, cứ bao giờ êm là làm, động thì lên, bão thì cất”.
 Nghề nghiệp
Đầu tiên là nghề đánh bắt. Đà Nẵng là một trong những địa phương trên cả nước có
diện tích đất ven biển rộng, ngư trường có nhiều lồi thủy hải sản sinh sống, phong phú
về số lượng và đa dạng về loài nên thuận lợi cho ngư dân địa phương sống bằng nghề
đánh bắt ven biển và xa bờ. Có lẽ vậy mà từ bao đời nay, các thế hệ ngư dân Đà Nẵng
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này đã nối nghiệp nhau, lấy nghề đánh bắt cá làm nghề
sinh sống chính.
Ơng Lê Văn Ngọc làng Thanh Khê: “Quăng lưới, kéo lưới, phân loại cá là những công
việc cơ bản của nghề chài lưới dân Thanh Khê nơi đây. Đàn ông, những người trụ cột
trong gia đình sẽ ra khơi đánh cá cịn phụ nữ sẽ ở lại trên bờ để bán cá”.
Thứ hai là nghề làm nước mắm. Cùng với đánh bắt thì nghề làm mắm rất phát triển
trong hầu hết các làng biển Đà Nẵng và gần như đã trở thành một thương hiệu như làng
nghề nước mắm Nam Ô, nước mắm Nam Thọ,... Cũng từ nguyên liệu chính là cá và ruốc,


những ngư dân đã tạo nên các loại mắm thơm ngon như mắm nêm, mắm ruốc, mắm cá
nục, mắm cá cơm – những loại nước chấm không thể thiếu trong bữa ăn của người dân

miền Trung.
Thứ ba là nghề may vá lưới, hầu hết những làng nghề làm ngư nghiệp ở Đà Nẵng như
Thọ Quang, Mân Thái,… đều có nghề may lưới. Sau những chuyến đi biển,những người
dân làng chài thường may vá lại lưới của gia đình mình bị rách hoặc may vá th cho
những gia đình khác. Có khi lưới được may trước nhà hoặc dàn trải trên bãi biển để may.
Nói chung, đây khơng phải là một nghề giống như những làng nghề khác, nhưng phần
nào đáp ứng được nhu cầu về phương tiện đánh bắt của ngư dân
Thứ tư là thợ lặn ban đêm. Nghề mới phát sinh thời gian gần đây tầm 3 – 4 năm ở một
số làng biển như làng biển Nam Ô. Một đội gồm 3, 4 người có sức khỏe tốt, biết bơi.
Đánh bắt vào ban đêm khi biển đã yên tĩnh, mặc đồ lặn và dùng cung tên để đánh bắt. Có
thể đánh bắt cá, mực, tơm hùm,…Sử dụng thúng nhơm hoặc thuyền để đi đánh bắt.
Thứ năm là đóng thúng nhơm. Có hai loại thúng là thúng làm bằng gỗ và làm bằng
nhôm. So với thúng làm bằng gỗ thì thúng nhơm hiệu quả hơn, đi được xa hơn. Vì vậy,
một số làng biển đã phát triển nghề làm thúng nhơm như tại làng biển Nam Ơ. Thúng
nhơm làm theo đơn đặt hàng của ngư dân, làm trong vòng nửa tháng, chạy bằng động cơ
máy với nguyên liệu là dầu.
 Phương tiện lao động
Thuyền là phương tiện lao động chủ yếu của cư dân nơi đây, đặc biệt là thuyền thúng
và thuyền ghe. Ngồi là cơng cụ phục vụ đánh bắt, chúng còn được sử dụng như một
dạng thuyền cứu sinh trong những trường hợp khẩn cấp trên biển, là phương tiện vận
chuyển hiệu quả hàng hóa nhẹ và người.
Thuyền thúng còn là biểu tượng cho sự độc lập và sáng tạo của người ngư dân. Ngư
dân hiện đại thường phải làm việc trên các tàu đánh cá lớn ngồi khơi và họ phải xa gia
đình hàng tháng trời. Việc sở hữu một chiếc thuyền thúng có thể cho phép họ hoạt động
độc lập và có thể tự kiếm sống. Trong nhiều trường hợp, một phần nhờ vào thuyền thúng,
mà nghề câu cá đã trở thành công việc của gia đình và được truyền qua các thế hệ tương
lai. Đó là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn hóa làng biển, văn hóa sử dụng


thuyền thúng, chiếc thuyền tuy đơn sơ nhưng uyển chuyển thích nghi, gắn bó và tồn tại

cùng người ngư dân bám biển suốt mấy đời người.
Và khi nhắc đến thuyền bè thì phải nhắc đến tục vẽ mắt thuyền. Ngư dân ở đây cho
biết họ luôn tin mắt thuyền tượng trưng cho đơi mắt của “thuồng luồng” – một lồi thủy
qi có nhiều quyền năng trên sơng nước, tạo thành vỏ bọc hoàn hảo giúp thuyền tránh
được xung đột với thủy quái khác. Tùy theo người chủ thuyền mà hình dạng đơi mắt
cũng khác nhau
Ơng Lê Văn Ngọc làng biển Thanh Khê: “Trước khi vẽ mắt thuyền sẽ cúng khai nhãn
nhằm làm cho mắt sáng sủa, lanh lợi, ghe thuyền đi đúng hướng và được thực hiện vào
ngày lành tháng tốt, hợp cung mạng với chủ thuyền”.
 Cách thức khai thác
Nghề đi biển gồm hai hình thức chính là đi khơi và đi lộng. Đi lộng là hình thức đánh
bắt gần bờ, thời gian thường bắt đầu từ 5 giờ sáng đến 9-10 giờ trưa, hoặc đến sáng ngày
hôm sau về, ngư cụ thường dùng là lưới, câu. Sản phẩm đánh bắt được chủ yếu là các lồi
cá, tơm, cua, ốc, mực nhỏ. Loại hình đi khơi thường dành cho các phương tiện đánh bắt
lớn, hiện đại. Đi khơi chủ yếu là đi tập thể từ 12 đến 14 đối với cá ngừ và câu mực từ 2030 người, thời gian thấp nhất là nửa tháng, có khi cả tháng, sản phẩm đánh bắt được
thường là các loại cá, tôm, mực lớn… Việc đi khơi phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên thời
gian thường diễn ra ít hơn. Bên cạnh đó, ngư dân Đà Nẵng có một số loại hình đánh bắt
hải sản trên biển như lưới kéo, lưới vây, lưới rê, lưới chuồn, câu mực,..
2.2 Văn hóa tổ chức cộng đồng
 Gia đình
Đặc điểm của gia đình ở đây là loại gia đình ngư dân với với nhiều thế hệ nối tiếp nhau
làm nghề biển. Đàn ơng thường có vai trị lớn hơn cả
Ơng Nguyễn Minh Nam làng Thanh Khê: “ Ở đây con cái nối tiếp cha mẹ làm nghề
biển, có nhiều gia đình có đến 5 thế hệ sống cùng nhau”.
Thành phố Đà Nẵng, nhiều dòng họ ở đây có lịch sử khá lâu đời. Trong đó, tộc Phan
làng Đà Sơn, thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng được
xem là dòng họ lâu đời nhất ở xứ Quảng. Đà Sơn là một trong những làng được thành lập


sớm ở Hóa Châu. Ơng Phan Cơng Thiên, sinh năm 1318 (đời vua Trần Minh Tơng) là

phị mã vua Trần (lấy công chúa Trần Ngọc Lãng) là tiền hiền thành lập làng Đà Sơn.
Đi cùng với ông Phan Công Thiên trong thời gian này cịn có các tộc họ: Nguyễn,
Kiều, Đỗ. Đây được xem là 4 tộc họ tiền hiền của làng. Ban đầu các tộc họ tiền hiền này
cộng cư với người Chăm bản địa khai khẩn vùng đất dưới chân núi Phước Tường (đất
làng Đà Sơn ngày nay). Từ đây, diện tích của làng khơng ngừng được mở rộng, bao gồm
một vùng rộng lớn từ sát sông Cu Đê vào đến Cẩm Lệ ngày nay thuộc động Trà Ngâm,
xứ Trà Na trước kia.
Sau những bước chân đầu tiên của ông Phan Công Thiên vào khai phá làng Đà Sơn
những năm nửa đầu thế kỷ XIV, đến nửa sau thế kỷ XV, nhất là sau cuộc Nam chinh của
vua Lê Thánh Tơng, nhiều dịng họ từ phía Bắc đã di cư vào phương Nam để làm ăn sinh
sống. Và mảnh đất Đà Nẵng đã được nhiều dòng họ chọn làm điểm dừng chân. Nhiều
dòng họ đến đây thời kỳ này được tôn làm tiền hiền của các làng.
Dưới thời các chúa Nguyễn, những cư dân từ phía bắc tiếp tục theo những đồn lưu
dân vào Nam. Nhiều dịng họ đã dừng chân lập làng tại Đà Nẵng, quần tụ hình thành
những làng ấp trù phú. Điển hình như năm 1605, ơng Nguyễn Huyền lập nên làng Hịa
Mỹ (quận Liên Chiểu); năm 1621, ơng Hồ Văn Oai cùng gia đình dừng chân lập làng
Thanh Khê (quận Thanh Khê); năm 1643, ông Văn Đức lập nên làng Trung Nghĩa (quận
Liên Chiểu).
Ông Nguyễn Minh Nam làng Thanh Khê: “Ở đây nhiều họ phổ biến lắm, họ Hồ là tiền
hiền ở đây và phổ biến nữa là họ Nguyễn, Lê, Trần”.
 Làng xã
Ngày xưa có hương ước là lệ làng được văn bản hóa, quy định chặt chẽ về cơ cấu tổ
chức; yêu cầu công khai, minh bạch về bầu bán, bãi miễn các chức vị trong làng; phân bổ
thuế, phân chia ruộng đất cơng; về tuần phịng; về lễ nghi, tín ngưỡng; về lệ hôn thú, tang
ma; về tương trợ, cứu tế; về khai sinh, khai tử, học hành và xử phạt vi phạm… Có thể nói
mọi quan hệ trong làng xã đều được quy định trong hương ước. Hương ước do chính dân
làng soạn thảo, nên rất phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương; hằng năm
hương ước đều được tuyên đọc một lần tại đình làng, để ai cũng nhớ, cũng thuộc và
những điều khoản không còn phù hợp cũng thường được sửa đổi. Đặc điểm của làng xã



là tự trị, tự quản. Nhà nước chỉ can thiệp vào làng xã trong việc thu thuế, bắt lính; xử lý
những vụ án hình sự, hay những vụ tranh chấp dân sự làng khơng hịa giải được; can
thiệp khi có dịch bệnh lớn…còn lại thuộc quyền tự trị, tự quản của các làng xã.
Ngày nay làng xã đã thay đổi, khơng cịn bao bọc khép kín trong lũy tre làng mà là một
đơn vị dân cư mở, mỗi xã là một đơn vị hành chính cấp nhỏ nhất trong hệ thống hành
chính bốn cấp hiện nay. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội hiện nay, bên cạnh những
thành tựu to lớn là những mặt tiêu cực tác động đến cư dân làng chài rất khốc liệt. Như là
việc phát triển kinh tế đã làm thay đổi lối sống của họ làm cho họ khơng cịn đi biển
nhiều như xưa thay vào đó là hoạt động ở lĩnh vực xã hội khác . Phương thức đánh bắt
khoa học trong thời kì hiện đại, dùng máy móc thay cho sức người, phát triển các ngành
nghề đánh bắt trong thời kì hiện đại


Vạn

Việc hình thành các làng chài, vạn chài gắn với việc lựa chọn những vùng đất ven biển
có vị trí thuận tiện, an tồn cho ngư dân trong đời sống, sinh hoạt của ngư dân cũng như
ở gần những vùng biển có nguồn lợi hải sản dồi dào. Do đây là vùng đất của lưu dẫn đến
từ các vùng miền khác nhau trong quá trình di dân lập nghiệp nên ở mỗi vùng biển, làng
chài, vạn chài của Đà Nẵng có những phương thức kiếm sống khác nhau, các phong tục
tập quán và văn hóa khác nhau. Từ các làng chài ven biển trong đất liền cho đến các vùng
hải đảo hiện nay cịn bảo lưu các ngơi đình, lăng, miếu thờ cá voi.
2.3 Văn hóa sinh hoạt
Trong đời sống sinh hoạt gắn với môi trường biển đảo, cư dân Đà Nẵng đã sáng tạo ra
nhiều giá trị quý giá. Đó là những thói quen, hành vi, ứng xử, cung cách sinh hoạt thể
hiện trong chuyện ăn, mặc, ở, đi lại…thích ứng với mơi trường biển đảo.
 Nhà ở
Ngư dân vùng biển Đà Nẵng có kiến trúc nhà cửa khác nhau tùy theo địa bàn. Đối với
các làng ven biển ngày xưa, người ngư dân biết thích ứng để xây dựng nhàkhông cao,

nhưng vững chãi để chống chọi với gió bão. Theo ơng Trần Cơng Vinh, dân làng chài
Thanh Khê: “Ngày xưa, họ làm nhà đơn giản hơn bây giờ nhiều. Nhà thường cất trên
những bãi cát rộng ven biển bởi vì xưa thì họ cũng sống trên biển nên đối với họ, mái nhà
là nơi để chui ra chui vô mỗi khi đánh bắt trở về vậy. Và xưa thì chưa có dự báo thời tiết


nên họ thường làm nhà thấp để tránh bão. Nhưng bây giờ thì khác nhiều rồi, chừ họ có
điều kiện nên nhà bây giờ họ đổ xi măng, làm cao tầng. Gần biển các khách sạn cũng
xuất hiện lên nhiều hơn”.
Ngoài ra, bão lũ đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế - xã hội nói chung của ngư
dân, gây nhiều thiệt hại về của cải vật chất và tính mạng của ngư dân. Cho tới tận ngày
nay, khi về các làng biển chúng ta vẫn thường gặp những ngày giỗ chung của ngư dân,
những người đã cùng mất do một cơn bão nào đó. Theo ơng Trần Công Vinh làng Thanh
Khê: “Khi đi biển, nếu gặp một xác người chết trơi, thì ơng đem vớt vào bờ, thơng báo
cho chính quyền địa phương, người dân quanh đây. Nếu khơng có ai nhận xác thì họ sẽ
được đưa vào nhà thờ Tập Linh hoặc miếu Thuyền để cúng giỗ”. Cách thức ứng xử trên
biển của ngư dân đã tạo nên những mối quan hệ rộng lớn giữa những người cùng hội
cùng thuyền hoặc đơn giản chỉ là người bạn thuyền trên biển cả.
 Ăn
Nếu như cơ cấu bữa ăn truyền thống của người Việt Nam là “cơm, rau, cá, thịt” thì cơ
cấu này càng được thể hiện rõ hơn ở cư dân vùng ven biển Đà Nẵng. Với những hải sản
phong phú đánh bắt được, người dân nơi đây đã tạo nên nhiều món ăn khác nhau, trong
đó cá là loại nguyên liệu được sử dụng để chế biến nhiều nhất. Theo như bà Hoa làng
chài Nam Ô: “Ở đây họ ít ăn thịt lắm con, họ chủ yếu ăn cá, nhiều loại cá lắm như cá
cơm, cá rọc, cá trích.., cịn rau thì mình tự trồng để ăn”. Về đặc sản của cư dân ven biển
thường là gỏi cá, trong đó đặc biệt là gỏi cá Nam Ô. Cũng theo bà Hoa “ Đặc sản ở đây
thì có gỏi cá, dùng cá trích để làm gỏi là chủ yếu”. Cịn theo ơng Trần Cơng Vinh làng
biển Thanh Khê: “Ở đây họ thường ăn gỏi cá trích hoặc gỏi cá khô. Họ cũng thường làm
chả cá thu”. Từ đó có thể thấy, “tính biển” nổi trội hơn cả trong cơ cấu bữa ăn hằng ngày
của cư dân Đà Nẵng.

 Hôn nhân
Ngày xưa, dân làng chài Đà Nẵng đã trải qua những tập tục cưới hỏi mà bất kỳ ai cũng
phải tuân thủ, nhất là dưới thời phong kiến. Có thể nói thời đó tập tục dựng vợ gả chồng
được thực hiện rất nghiêm khắc con cái hầu như phải tuyệt đối nghe theo lời cha mẹ, cha
mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đấy.


Ngày nay với nền văn minh hiện đại thì tục dựng vợ gả chồng có phần dễ dãi hơn
trước. Cha mẹ khơng cịn quyết định chuyện hơn nhân của con cái mà chính con cái phải
tự đưa ra quyết định trong việc lựa chọn tìm hiểu và kết duyên với người sẽ sống đời ở
kiếp với mình. Các nghi lễ vì thế mà cũng đơn giản hơn. Theo như bác Lê Thị Minh
Khanh, làng Nam Thọ: “Hơn lễ thì cũng truyền thống như trước giờ ở Đà Nẵng mình rứa
đó. Lễ thì có 3 lễ là lễ thăm nhà tới lễ hỏi, rồi lễ cưới, còn như ở xa họ dồn 2 lễ lại cưới
ln chứ khơng có lễ hỏi”. Thay vì phải tuân thủ rất nhiều nghi lễ trước khi cưới như: Lễ
chạm ngõ, lễ xin dâu, lễ ăn hỏi, lễ đính hơn, lễ vấn danh, lễ nạp tài và sau khi cưới lại có
lễ lại mặt thì bây giờ chỉ cịn lại 3 lễ chính là lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới.
 Sinh đẻ
Mỗi làng đều có những kiêng kị trong việc sinh đẻ khác nhau, nhưng đa phần nó cũng
khá giống với người dân đất liền. Trong thời kỳ thai nghén, người đàn bà phải kiêng kỵ
nhiều thứ. Đối với sinh đẻ, khi chưa có bệnh viện, chưa có người biết phẫu thuật, thì
người phụ nữ đều sinh nở tại nhà, do các bà đỡ có kinh nghiệm đỡ đẻ.
Trong tháng đầu hay là giai đoạn "ở cữ", để "tránh cho đứa trẻ ốm đau, người ta kiêng
người lạ, người "nặng vía" tới thăm. Thăm, mừng đầu tiên là ông bà, cô bác trong nhà vì
cho rằng người có cùng dịng máu và mồ hơi giống cha mẹ đứa trẻ thì đứa trẻ dễ quen
hơn. Nếu chẳng may đứa trẻ bị nóng sốt, khó ở, gia đình thường "đuổi vía" hay "đốt vía"
bằng lửa, hoặc bằng túm cây lá có gai như lá dứa dại, cành gai tầm soọng. Khi đứa trẻ
tròn một tháng, cha mẹ thường làm lễ đầy tháng để báo cáo với tổ tiên, gia đình nào có
điều kiện thì mời những người thân thiết tới chia vui. Sau khi tròn một năm thì làm lễ
thơi nơi.
 Tang ma

Hầu như các làng biển đều vẫn duy trì được những nghi lễ trong tang ma như: Khâm
liệm, nhập quan, viếng, đưa tang, hạ huyệt, viếng mộ.
Theo ông Trần Công Vinh làng Thanh Khê: “Bất cứ ai đi biển cũng có thể gặp tai nạn.
Khi đi biển, nếu gặp một xác người chết trơi, thì chú đều vớt đem vào bờ, thơng báo cho
chính quyền địa phương, người dân quanh đây. Nếu khơng có ai nhận xác thì họ sẽ được
đưa vào nhà thờ Tập Linh hoặc miếu Thuyền để cúng giỗ”.


Theo ông Cao Văn Minh làng biển Nại Hiên Đông cho biết: “Đi biển là khơng cho
người có khăn trắng tới nhà và khơng được xuống dưới thuyền”.
2.4. Văn hóa tâm linh
Vì cư dân làng biển ln phải đối mặt với nhiều bất trắc như bão, sóng dữ nên họ có
một tín ngưỡng dân gian sâu đậm hơn, mang nhiều dấu ấn nghề nghiệp hơn so với cư dân
xa biển.
 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Đại đa số các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên trong nhà, ít nhất là có treo di ảnh một
cách trang trọng, xuất phát từ lịng thành kính đối với cha mẹ, ơng bà, cụ kỵ. Đây là một
tín ngưỡng rất quan trọng và gần như không thể thiếu trong phong tục của làng biển Đà
Nẵng.
 Tín ngưỡng thờ cá Ơng
Tín ngưỡng thờ cúng Cá ông ở Đà Nẵng phát triển với nhiều lễ hội được tổ chức đều
đặn hàng năm tại khu vực ven biển thành phố. Hoạt động tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông tại
Đà Nẵng chủ yếu diễn ra ở các lăng, miếu ven biển, thuộc địa phận các phường sinh sống
bằng nghề sông nước như phường Nại Hiên Đông, phường Mân Thái, phường Xuân Hà,
Thanh Khê Tây, Thanh Khê Đơng, v.v…
Trong cộng đồng ngư dân, tín ngưỡng thờ cúng Cá Ơng thể hiện lịng tơn kính đối với
các vị thần biển cả, qua đó, gởi gắm mong ước của người dân về một năm mưa thuận gió
hịa, ra khơi bình an và mùa màng bội thu. Đặt trong thời điểm hiện tại, sự phát triển của
tín ngưỡng thờ cúng Cá Ơng, mà đặc biệt là quy mơ các lễ hội Cầu ngư, thể hiện rõ quyết
tâm bám biển, phát triển nghề biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc của ngư

dân thành phố.
Lễ cúng cá Ông là một trong những lễ hội lớn nhất của ngư dân ven biển Đà Nẵng, lễ
cúng này khơng có ngày thống nhất chung, tùy theo từng làng nghề mà người ta có những
ngày cúng riêng, có làng chọn ngày cá Ông đầu tiên lụy hoặc ngày nhận sắc của vua
phong. Lễ cúng này được tổ chức và được xem như một hình thức của ngày giỗ Ơng.
 Tín ngưỡng Thờ Thành Hoàng và các vị tiền hiền


Thành Hồng là vị thần được thờ chính trong các đình làng tại địa phương. Ở các nhà
thờ của các tộc, đình của các làng ln dành nơi nghiêm trang để thờ Thành Hoàng - vị
thần bảo hộ, giúp đỡ cho cuộc sống của người địa phương.
Ở các đình làng, ngồi thờ cúng Thành Hồng, cịn có hình thức thờ các vị tiền hiền
nhằm thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của người dân đối với các vị tiền nhân đã
có cơng lập làng, mở cõi. Theo một số nhà nghiên cứu, thờ tiền hiền ở các đình làng tại
Đà Nẵng mang bản chất của loại hình thờ cúng ông bà tổ tiên đã được nâng cao. Tín
ngưỡng thờ tiền hiền diễn ra sôi động và thu hút đông đảo bà con tham gia tại các lễ hội
đình làng và ở một số cơ sở tín ngưỡng của bà con người Việt gốc Hoa trên địa bàn thành
phố.
 Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của cư dân
người Việt ở nước ta, nhất là trong đời sống của cư dân ven biển Đà Nẵng, tín ngưỡng
thờ Mẫu được cư dân ven biển gọi là thờ Bà. Người ta thờ Bà Thiên Y A Na và các hóa
thân, Bà Ngũ Hành, Bà Thủy Long, Bà Dàng…
Tục thờ nữ thần Thiên Y A Na (hay Bà Chúa Ngọc theo cách gọi của người Việt) là vị
thần Mẹ xứ sở trong tín ngưỡng của người Chăm. Trong q trình tiếp biến văn hóa,
người Việt đã đón nhận và thờ phụng Bà khá phổ biến ở các làng ven biển Đà Nẵng. Các
lăng miếu thờ Bà thường được xây cất trên các gị, đồi hoặc chỗ cát cao.
 Tơn giáo
Đa số ngư dân làng chài theo đạo Phật như Nam Ô, Nam Thọ, Tân Thái. Một số ít theo
đạo Tin Lành như làng Nam Ơ. Số cịn lại theo lương.

 Kiêng kỵ
Làm nghề biển, sống chung với biển nên những ngư dân Đà Nẵng có đời sống tâm linh
phong phú. Khi ra biển, đối diện với những hiểm nguy do thiên nhiên gây ra đã dần dần
tạo nên tâm lý kiêng kỵ của người dân miền biển. Trong tâm thức, họ luôn quan niệm
rằng, “có kiêng có lành” nên rất tin vào quỷ thần. Theo thời gian, qua những tháng năm
lênh đênh trên biển khơi, có những điều giúp họ gặp may mắn và cũng có những điều mà
họ cho là xui, rủi nên họ tin vào một thế lực siêu nhiên nào đó.


Theo ông Trần Viết Vĩnh, dân làng Thanh Khê: “Ngày xưa thì ơng bà ta đặt ra nhiều
kiêng kỵ lắm. Ví dụ như kiêng phụ nữ chạm tay vào lưới vì ơng bà ta hồi xưa cịn phân
biệt nam nữ, hồi xưa phụ nữ chạm tay vào lưới thì xui lắm. Kiêng kỵ bây giờ thì vẫn cịn
chỉ là ít hơn ngày xưa thơi. Ví dụ như chừ khi ra ngồi khơi thì kiêng khơng để chén, bát
mẻ trên thuyền. Ngoài ra, nếu họ đánh bắt được nhiều cá cũng khơng nói cá nhiều,
khơng nói trúng hoặc lắm cá. Đánh khơng được cũng khơng nói biển khơng có cá”.
Mỗi lần đi ra biển ngư dân luôn coi ngày trước, tổ chức cúng trên tàu để mong ra khơi
được thuận buồm xi gió, cầu mong Ơng Ngư và những âm linh trên biển phù hộ, giúp
họ đánh được nhiều cá tôm.Trước khi ra biển, công việc chuẩn bị lưới, thuyền đều rất
quan trọng. Người ta kiêng phụ nữ chạm tay vào lưới vì khơng biết người phụ nữ lúc đó
có được “sạch sẽ” không. Người đi biển kiêng như vậy để tránh bị ô uế và gặp điều
không may.
Khi đã ra ngồi khơi thì người ta kiêng khơng để vật dụng trên thuyền rớt xuống biển,
bởi quan niệm nếu để vật rơi xuống biển thì bị chìm thuyền. Dù đồ vật có bị hỏng hay bể
thì cũng để lại trên thuyền mang về vì như vậy sẽ làm tổn hại đến Bà Thủy và sợ Bà nổi
giận gây trở ngại cho họ trong những ngày hành nghề trên biển.
Khi ở ngoài khơi thì ngư dân đặc biệt kiêng kỵ việc chửi thề, đặc biệt là chửi mắng
người “khuất mày khuất mặt”. Nếu phạm điều này thì họ sợ sẽ bị những âm linh, cô hồn
làm cho gặp xui xẻo, không thu hoạch được gì.
Cịn trong những gia đình sống bằng nghề đi biển, khi ăn cá, nếu đã ăn hết phần trên
thường họ không lật con cá lại mà dùng đũa gỡ xương, rồi gắp tiếp phần cịn lại, họ cũng

khơng úp thúng khi đi nghề, trên thuyền không úp chén bát và những dụng cụ khác,…
Trong lời nói hàng ngày họ cũng tránh dùng những từ như: úp,lật, đổ, sẩy, sa, rớt, rơi, trở,
… bởi họ sợ nói những từ đó, khi đi biển sẽ gặp nhiều điều khơng may. Ngồi ra, nếu họ
đánh bắt được nhiều cá cũng khơng nói cá nhiều, khơng nói trúng hoặc lắm cá. Đánh
khơng được cũng khơng nói biển khơng có cá. Những kiêng kỵ này xuất phát từ những
đặc điểm nghề nghiệp, từ những nhận thức về thiên nhiên, nhưng tựu chung vẫn thuộc về
lĩnh vực tâm linh
Hiện nay, những người đi biển trẻ tuổi đã bớt đi một số kiêng kỵ không phù hợp như
không kiêng phụ nữ xuống thuyền, không kiêng gặp đàn bà. Việc cúng tế mỗi lần ra khơi
cũng ít hơn xưa. Tuy nhiên những kiêng kỵ này cũng đã phản ánh tâm thức, quan niệm


của ngư dân Đà Nẵng đối với việc hành nghề, những mong muốn của người dân làm
nghề biển. Họ khát khao mỗi lần ra biển sẽ được an toàn trở về và đánh được nhiều cá
tôm. Việc thực hiện những kiêng kỵ khơng chỉ tạo sự bình an trong tâm tưởng mà còn thể
hiện lòng biết ơn của ngư dân đối với các lực lượng phù hộ cho họ trong cuộc sống.
 Lễ hội
Người dân Đà Nẵng có những lễ hội đặc sắc khác nhau. Mỗi làng biển đều có những
nét đặc thù riêng, nhưng tựu chung những lễ hội đó đều nhằm tơn vinh vẻ đẹp và những
giá trị to lớn của biển đối với đời sống con người. Cầu thần biển phù hộ độ trì cho sóng
n biển lặng và cho một mùa cá mới bội thu. Trong số đó, phải kể đến lễ hội Cầu ngư –
một lễ hội độc đáo, tiêu biểu nhất và mang đậm tính cộng đồng trong hệ thống lễ hội
miền biển Đà Nẵng. Theo cộng đồng cư dân vùng biển Trung Bộ thì đây là lồi cá có mối
quan hệ gắn bó vơ cùng mật thiết, được ví như vị Thần hộ mệnh với nghề biển. Lễ Cầu
Ngư cũng sẽ là cơ hội để thể hiện lòng biết ơn đối với vị phúc thần này bởi đã nhiều lần
giúp đỡ ngư dân, ghe thuyền vượt qua hồn cảnh thiên nhiên khó khăn, sóng to gió lớn
trên biển cả mênh mơng.
Lễ hội Cầu ngư ở Đà Nẵng thường diễn ra trong khoảng thời gian từ giữa tháng giêng
đến tháng 3 âm lịch. Vào tháng Giêng, lễ hội Cầu ngư diễn ra tại làng Thanh Khê và
Tân Thái. Tháng hai âm lịch lễ hội diễn ra tại làng Nại Hiên Đông, Nam Thọ và Nam Ô.

Lễ hội thường tổ chức tại lăng Ông (chủ yếu phần lễ) và bãi biển (chủ yếu phần
hội). Theo ông Hồ Văn Ngân, từng phụ trách cúng tại nhà thờ tộc Hồ làng Thanh Khê:
“Trong năm thì làng mình có lễ hội Cầu Ngư là lễ hội lớn nhất. Được tổ chức trong 3
ngày từ ngày 14 đến 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Và đồng thời trong năm thì làng
mình sẽ có lễ cúng cơ bác ở nhà thờ Tập Linh vào ngày 23/3 âm lịch”.
Cũng theo ông Hồ Văn Ngân: “Lễ hội này đầu tiên là lễ Nghinh Ơng, sau đó là lễ cầu
an và cầu ngư sau đó thì dân sẽ chơi trị chơi như lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co,
đá bóng,…” với mục đích tưởng nhớ các bậc tiền nhân quá cố. Cịn về văn nghệ, nổi bật
trong đó là hát bả trạo (bả: có nghĩa là nắm, trạo mang ý nghĩa chèo đị) diễn tả tinh thần
đồn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, khi phải vượt qua muôn ngàn sóng to
gió lớn mới mang về một mùa bội thu.


Đây là những cơ hội quý báu để tôn vinh vẻ đẹp và những giá trị to lớn của biển đối
với đời sống con người. Ở đó, những giá trị văn hố biển cũng có dịp được trao truyền và
thấm sâu vào suy nghĩ của nhiều thế hệ tiếp nối nhau.
Lễ hội cầu ngư tại Đà Nẵng:
 Ngày 15 và 16-1 âm lịch, tại miếu thuyền (đường Nguyễn Tất Thành), phường
Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê.
 Ngày 25 và 26-1 âm lịch, tại Lăng Âm Linh, phường Mân Thái và tại phường
Phước Mỹ, quận Sơn Trà.
 Ngày 15 và 16-2 âm lịch, tại phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà.
 Ngày 15-2 âm lịch tại Lăng Ông Hải Nam, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên
Chiều.
 Ngày 19-2 âm lịch tại phường Nại Hiên Đơng, quận Sơn Trà.
Ngồi ra vẫn cịn duy trì rất nhiều lễ hội, lễ tục hằng năm tùy vào làng như lễ kỵ Ông,
lễ phạt mộc, lễ cúng tạ ở làng Tân Thái, lễ cúng Cô Bác ở làng Thanh Khê,..
2.5. Văn hóa nghệ thuật
 Kiến trúc, điêu khắc
Đình làng là nơi tơn nghiêm thờ phụng chư vị tiền bối và hậu bối của nhiều chư phái

tộc để tưởng niệm công đức tiền thân. Và cũng là nơi thờ phụng các bậc tiền hiền có cơng
với làng. Đình làng là một thiết chế văn hóa cổ truyền của người Việt; là nơi sinh hoạt
văn hóa, hội họp, nơi dân làng gửi gắm niềm tin, ước vọng về một cuộc sống tốt đẹp
trong tương lai, thông qua các hình thức tín ngưỡng – lễ hội đầy màu sắc và thấm đẫm
tính nhân văn.
 Văn học dân gian
Cư dân ven biển Đà Nẵng trong cuộc sống và lao động, giải trí và sáng tạo ra một nền
văn học dân gian phong phú, mang đậm dấu ấn duyên hải của những người làm nghề
nuôi trồng và khai thác thủy, hải sản. Sáng tác văn học dân gian của cư dân ven biển nước
ta đa dạng với nhiều thể loại khác nhau như truyền thuyết, giai thoại, cổ tích, ca dao, hò,
vè, tục ngữ... vừa phong phú về thể loại vừa giàu có về trữ lượng. Văn học dân gian của
họ phản ánh khá rõ đặc tính con người và cuộc sống lao động vất vả từ bao đời của người
dân vùng biển. Nhiều huyền thoại, truyền thuyết liên quan tới các vị thần linh và nhân vật


lịch sử, các địa danh và thắng cảnh của mỗi làng, mỗi vùng đất phổ biến khắp dải đất ven
biển. Truyện dân gian Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ 100 trứng sinh ra 100 người con trai,
50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên rừng phản ánh gốc gác dân tộc Việt.
Ngoài các huyền thoại, truyền thuyết về Cá Ông, thần Độc Cước, Thủy thần và Tứ vị
Thánh Nương (là Hồng hậu, 2 cơng chúa nhà Nam Tống và thị nữ) ... thì truyền thuyết
lịch sử chiếm một khối lượng lớn trong hệ thống truyện kể dân gian. Trong đó kể về
những nhân vật lịch sử mà chiến công chống giặc ngoại xâm gắn với từng địa danh, từng
dịng sơng, cửa biển... cịn mãi lưu truyền trong dân gian.
Ca dao, dân ca, hò, vè, tục ngữ... mang sắc thái riêng của những ngư dân ra khơi vào
lộng, ngợi ca cảnh đẹp và niềm tự hào về quê hương, nghề nghiệp và cuộc sống của
người dân lao động cùng những khó khăn, vất vả trong cuộc sống, mưu sinh nơi đầu
sóng, ngọn gió.
Nguyễn Thị Hồng, bn bán làng Thanh Khê: Cô nhớ được 2 câu:
"Cha chài, mẹ lưới, con câu,
Ăn nhờ bọt nước lấy đâu mà giàu."


“Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình”
Bà Hoa làng Nam Ơ:
“ Nam Ơ nước mắm thơm nồng
Đi mô cũng nhớ mùi hương quê nhà”
 Diễn xướng dân gian
Hát bả trạo là hình thức diễn xướng dân gian xuất phát từ tín ngưỡng thờ cá ơng (Đại
Đức Ngư ông) của ngư dân ven biển. “Bả” là nắm chắc, “trạo” là mái chèo. Hát “bả trạo”
là hát vững tay chèo theo động tác chèo thuyền. Đây là một hình thức diễn xướng nghi lễ
được trình diễn trong lễ hội cầu ngư truyền thống hoặc trong dịp đưa tang cá Ông của
ngư dân.


Hiện nay, nguy cơ mai một của hình thức diễn xướng này rất lớn. Ơng Lê Văn Nam,
người trơng giữ miếu thuyền Thanh Khê: “Mấy năm gần đây vì dịch nên khơng tổ chức
hát bả trạo được vì khơng đủ kinh phí”. Hầu như ngư dân làm nghề biển ngày càng ít đi,
các vạn chài kinh tế eo hẹp, khơng đủ kinh phí để thuê đội hát bả trạo đến biểu diễn trong
các lễ hội. Bên cạnh đó, hát bả trạo là một loại hình diễn xướng nghi lễ địi hỏi nhiều kĩ
năng về làn điệu, hình thức biểu diễn, phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài nhưng
khơng mang lại nguồn lợi kinh tế cao. Chính vì vậy, thế hệ trẻ đã khơng cịn quan tâm,
u thích loại hình diễn xướng này.
2.6. Văn hóa sinh thái
Văn hóa sinh thái là những kinh nghiệm để nhận biết về luồng cá, ngư trường, thời
gian mùa vụ thích hợp để đánh bắt cá, tơm, mực và cách nhìn nhận hiện tượng tự nhiên
về cơn bão, mưa gió...và người dân nơi đây đã rút ra những kinh nghiệm về các hiện
tượng thiên nhiên để đi biển được nhiều cá tôm hơn, bội mùa và an tồn hơn.
Ơng Hồ Văn Ngân làng Thanh Khê: “Ngày xưa khi chưa có máy móc thì họ xem bầu
trời, gió, trăng, sóng mà đốn được có ra khơi hay khơng”.
Bác Ngơ Văn Ơn, làng Nam Thọ: “Như hồi trước, thời ơng bà chúng tơi thì phải ngó

trời. Ví dụ như đảo hướng mơ là gió hướng nấy. Thứ 2 nữa là bầu trời đen, ứng lên chỗ
nào mây chừng mô là họ biết hết. Bây chừ có thiên văn rồi, họ báo thời tiết”.
Giờ đây đã có máy móc, phương tiện truyền thơng nên những kinh nghiệm kia đã
khơng cịn được người dân áp dụng. Tuy nhiên để giảm thiểu tối đa rủi ro đối với nghề cá
– nghề phụ thuộc vào tự nhiên, trước những chuyến đi biển dài ngày, ngư dân phải quan
sát sắc trời, sắc nước chứ không chỉ dựa một cách thụ động vào dự báo của các phương
tiện thông tin hiện đại. Kết hợp giữa tri thức dân gian cùng với tiến bộ khoa học là điều
cần thiết để đối phó với biến đổi khí hậu, để chủ động trong khai thác, bảo vệ nguồn lợi
thủy sản và chủ động trong phòng chống thiên tai.


CHƯƠNG 3: BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HÓA BIỂN ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
Ngư dân Đà Nẵng bao đời nay luôn nỗ lực xây dựng và gìn giữ giá trị cốt lõi của văn
hóa làng chài, văn hóa biển vơ cùng sâu sắc. Tuy nhiên hiện nay, đơ thị hóa ngày càng
phát triển lớn mạnh, khiến cho những nét văn hóa đẹp của làng chài dần bị che lấp đi.
Thứ nhất về văn hóa sinh kế. Nghề nghiệp chủ yếu của cư dân nơi đây là đánh bắt hải
sản, những công việc như chế tạo công cụ nghề biển hay đan lưới cũng dần bị mai một.
Đặc biệt là nghề đan lưới. Từng là nghề mưu sinh của nhiều gia đình, nhưng giờ thì số
người làm nghề đan lưới nơi đây chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngun nhân vì thu nhập
thấp, sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm nên khơng ít người biết nghề đan lưới thì bỏ nghề,
những người trẻ thì khơng muốn học để nối nghiệp của cha ơng.
Vì cơng việc q vất vả, thậm chí nguy hiểm, trong khi thu nhập thấp so với lao động
trên bờ. Nhiều ngư dân lành nghề đã bỏ biển, thanh niên làng biển thì khơng muốn tiếp
nối nghề biển của người đi trước. Hiện nay lao động đi biển tại Đà Nẵng cịn khoảng một
nửa. Trước đây đi biển dễ tìm bạn nghề, vì họ cũng khơng biết chọn nghề gì để làm. Còn
nay, điều kiện kinh tế đất nước khá lên, công việc trên bờ đa dạng, nên bạn nghề cũng
theo đó mà lên bờ, bỏ nghề đi biển quá nhọc nhằn.
Theo bác Ngơ Văn Ơn: “Cái thời ơng bà chúng tơi là làm ghe nan, máy móc hồi nớ
khơng có, phải đi ghe mườm, ghe chèo, thúng bơi…Bây giờ chừ thay đổi lại máy móc
hiện đại hết, ra ngồi đó phải có máy dị để đi tìm cá, thay đổi chớ”.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, trong đó, sự chuyển đổi nghề nghiệp ở
một bộ phận những người theo nghề đi biển là tác nhân lớn nhất. Đối với bộ phận ngư
dân, đơ thị hóa đi kèm với việc thu hồi đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng không ảnh
hưởng nhiều và trực tiếp đến sự chuyển đổi nghề nghiệp của họ như những người nông
dân hay người buôn bán kinh doanh, song, lại tạo cho họ cơ hội “đổi đời” nhờ bồi
thường, bán đất; đồng thời, có nhiều cơ hội việc làm mới với mức lương cao và ít rủi ro,
nguy hiểm hơn. Một số làng ngày xưa hầu hết mọi người đều làm nghề đi biển nhưng nay
đã giảm rõ rệt, có làng chỉ cịn vài chục hộ cịn làm nghề. Vì gắn với nghề nên khi cư dân
ven biển thay đổi sinh kế đã tác động không nhỏ đến sự và phát triển của tín ngưỡng, dẫn
đến hiện tượng thiếu người thực hành nghi lễ, thiếu kinh phí duy trì... Thay đổi sinh kế
cũng góp phần làm phai nhạt niềm tin vào tín ngưỡng. tồn tại


Thứ hai về văn hóa tổ chức cộng đồng. Ngày xưa khi ông nội hoặc ba mất, con trai sẽ
được thừa kế nhiều tài sản hơn do gánh vác trách nhiệm nhiều hơn. Bây giờ mọi thứ đã
thay đổi, không còn trọng nam khinh nữ, nam nữ đều thừa kế tài sản như nhau.
Thứ ba về văn hóa sinh hoạt. Những ngôi nhà làm bằng nguyên vật liệu như gỗ, tre
tranh nay đã được thay thế bằng xi măng cốt thép kiên cố và tiện nghi hơn tùy vào điều
kiện của mỗi gia đình. Làng đã thành phố. Các làng biển được quy hoạch thành từng khu
dân cư riêng. Vì vậy, dấu tích về nhà ở của ngư dân trong quá khứ chỉ còn trong hồi cố
của những bậc cao niên. Theo bác Cửu làng Nam Thọ: “Hồi xưa người ta xây nhà chỉ làm
bằng tôn, hồi xưa nữa là làm bằng lá, bây giờ phát triển rồi nên làm phòng khách phòng
ngủ, còn hồi xưa là làm hai bên hai cái giường xong rồi nằm ngủ thôi”.
Về ẩm thực, những biến đổi trong văn hoá ẩm thực của cư dân biển Đà Nẵng cũng
được thể hiện rõ ràng qua cách ăn uống, thói quen ăn uống của con người nơi đây. Từ xưa
người dân đã biết nhiều cách chế biến các loại hải sản như kho, hấp, nướng... Do đặc thù
nghề nghiệp nên họ được ăn cá thoải mái và luôn rành rẽ những bộ phận ngon nhất của
từng lồi cá. Đặc biệt, với người dân biển thì có lẽ cá lúc nào cũng là của ăn của để, cư
dân biển thường thích ăn cá hay các món ăn được chế biến từ thành quả của chính mình,
đặc biệt là các loại mắm hay nước mắm do chính họ làm ra từ con cá tươi mới đánh bắt

lên qua quá trình ủ ướp tạo ra loại nước mắm mặn mịi đậm vị biển. Khi đơ thị hóa phát
triển thì nguồn hải sản trong bữa ăn của ngư dân đã giảm đi đáng kể. Ngư dân làm nghề ít
đi, nguồn hải sản khơng dồi dào như trước. Thêm vào đó, có nhiều nguồn thực phẩm
được nhập về, thực phẩm đơng lạnh và những loại rau củ, thịt dê, bò, sữa cũng chiếm một
phần trong thực đơn hàng ngày của người dân. Họ khơng cịn quanh năm ăn cá, rong
biển. Việc thay đổi này cũng khiến cho đời sống ẩm thực của ngư dân thêm đa dạng
Những phong tục, tập quán liên quan vịng đời người như sinh đẻ, hơn nhân, tang ma
ngày nay đã giảm dần nhiều lễ nghi. Cô Nguyễn Thị Hồng làng biển Thanh Khê: “Sinh
đẻ ngày xưa họ kiêng cử nhiều lắm. Ngày xưa có thai thì không siêu âm chi hết chỉ khi đẻ
ra mới biết là bé trai hoặc là bé gái”.
Lễ cưới trước đây gồm nhiều nghi lễ như lễ chạm ngõ, lễ xin dâu, lễ ăn hỏi, lễ đính
hơn, lễ vấn danh, lễ nạp tài thì bây giờ chỉ cịn lại 3 lễ chính là lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và
lễ cưới. Theo bác Lê Thị Minh Khanh làng biển Nam Thọ: “Lễ nghi kết hơn ngày trước
khá cầu kì, gồm nhiều lễ khác nhau. Tuy nhiên bây giờ đã được đơn giản hóa hơn . Làng


biến Nam Thọ ngày xưa thường là cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, cịn bây giờ là tùy thuộc
vào bọn trẻ yêu ai là sẽ gả đó. Đám cưới ngày xưa khơng được tổ chức rình rang , hồnh
tráng như bây giờ”.
Thứ tư về văn hóa tâm linh. Cách thực hành nghi lễ cũng có nhiều thay đổi. Trước đây,
khi tiến hành cúng tế trong các lăng, miếu, đình thường có rất nhiều nghi lễ nhưng nay thì
giảm bớt, thay vì thực hiện nhiều nghi lễ thì chỉ thực hiện các nghi lễ chính. Về quy mơ
diễn ra lễ hội cũng có sự thay đổi lớn. Ngày xưa, lễ hội thường được tổ chức tại đình,
lăng hoặc miếu. Nhân dân các làng gần đó cùng đến để tham gia hội rất đông, bây giờ
hầu như thế hệ trẻ không còn quá quan tâm đến lễ hội như vậy nữa.
Trong các lễ hội tại đình làng, lăng miếu cịn có sự xâm nhập của những trang thiết bị
hiện đại, văn hóa ngoại lai như loa, âm ly, bóng điện nhấp nháy trên bàn thờ,... Trước đây,
khi hành lễ, các vị trong ban q tế chỉ đọc bằng miệng, khơng có sự hỗ trợ của loa, âm
ly,... Lễ vật ngày xưa chủ yếu là những sản vật mà bà con tự sản xuất như heo, gà, rượu
gạo, bánh nếp thì nay có thêm rượu tây, bia, các loại bánh ngoại. Trang phục tham gia lễ

thì khăn đóng áo dài nhưng có người cịn đi giày tây, có khi mặc quần tây phía trong áo
dài khiến cho buổi lễ giảm phần nghiêm trang, kính ngưỡng.
Sự hiện diện của các yếu tố hiện đại góp phần làm đa dạng cách thức thực hành tín
ngưỡng, mang hơi thở hiện đại nhưng cũng góp phần làm lu mờ những giá trị truyền
thống của lễ hội có tính chất cầu mùa, cầu an.
Thứ năm về văn hóa nghệ thuật. Hiện nay, q trình đơ thị hóa trên làng biển Đà Nẵng
đã phần nào đó tác động đến kiến trúc nơi đây, tuy vẫn giữ được những cơ sở hoạt động
về tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng như đình làng, lăng Ơng, nhà thờ tiền hiền,..
Nhưng q trình đơ thị hóa đang làm thay đổi về không gian, cảnh quan sống quen thuộc
của người dân. Ngôi làng truyền thống ngày xưa chạy dọc theo bờ biển được thay thế
bằng những khách sạn cao tầng, không gian được phủ xanh bởi cây cối giờ đây đã thưa
vắng dần.
Những tri thức quý về ứng xử hay các di tích, các phong tục, tín ngưỡng, lễ hội bị biến
đổi dần… Rõ ràng, khi không gian sống, không gian sinh tồn bị thay đổi mạnh mẽ thì vấn
đề bảo tồn văn hóa truyền thống của cộng đồng ngư dân gặp nhiều khó khăn


Với sự đơ thị hóa và tác động của xã hội hiện đại ngày nay, ở các làng ven biển Đà
Nẵng đang dần quên lãng các câu ca dao, tục ngữ về nghề biển nơi mình sinh sống. Chỉ
cịn những người già hay những người có kinh nghiệm lâu năm mới biết được về các câu
ca dao, tục ngữ. Đa số người trẻ ở các làng biển hiện nay đều khơng cịn nhớ về câu ca
dao, tục ngữ q nhiều.
Đối với hình thức diễn xướng dân gian, hát bả trạo vẫn tổ chức ở nhiều làng biển như
Thanh Khê, Nam Thọ tuy nhiên những năm gần đây đã khơng cịn diễn ra do thiếu kinh
phí.
Thứ sáu về văn hóa sinh thái. Một số tập tục, kiêng kỵ của ngư dân cũng có nhiều thay
đổi. Trước đây, khi ra biển, đối diện với những hiểm nguy do thiên nhiên gây ra đã dần
dần tạo nên tâm lý kiêng kỵ của người dân miền biển. Họ kiêng từ nhà ra biển, kiêng
trong q trình hành nghề. Bởi do cơng cuộc mưu sinh, phương tiện hành nghề trên biển
chủ yếu là thuyền, luôn đối mặt với biển cả bao la và đầy rẫy nguy hiểm. Ngày nay, với

sự phát triển của công nghệ hiện đại, nghề đi biển ít phụ thuộc vào những hiện tượng tự
nhiên mà đã có đài dự báo thời tiết, các thông tin từ nhà mạng. Hơn nữa, khi niềm tin tín
ngưỡng phai nhạt thì cũng khiến cho những kiêng kỵ, tập tục dần mất đi.
Bác Ngơ Văn Ơn làng biển Nam Thọ: “Ngày xưa là ơng bà mình ngó lên trời ra ngồi
là biết trời sắp động, đó là kinh nghiệm người ta làm từ mô đến giờ. Ngày xưa trăng sáng
là các cụ không đi biển là vì ngày xưa nghề biển thì họ làm cái mành đèn, lưới vây là ánh
sáng để dụ cá vào nó yếu không sáng được hơn trăng nên cá không vào được nên người
dân họ sẽ không đi biển. Nhưng ngày nay thì hiện đại là họ đi biển dùng đèn pha sáng
hơn trăng rồi, nên khơng có cá là họ nghỉ chứ có cá mà trăng thì họ vẫn đi”.


KẾT LUẬN
Biến đổi văn hóa là một quy luật tất yếu của làng biển Đà Nẵng hiện nay. Nó đã và
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, ảnh hưởng đến các khía cạnh văn hóa của cộng đồng
cư dân, nhất là ngư dân ven biển. Nhìn chung, văn hóa biển của ngư dân Đà Nẵng nơi
đây khá phong phú từ loại hình tín ngưỡng đến những nghi lễ cũng như kiêng kỵ trong
quá trình hành nghề,... Tất cả những điều đó được đúc kết trong q trình lao động và
sinh sống lâu dài, được lưu giữ, trao truyền từ đời này qua đời khác và có ý nghĩa thực
tiễn to lớn. Bên cạnh việc duy trì, bảo lưu những yếu tố truyền thống, tín ngưỡng của
cộng đồng cư dân ven biển Đà Nẵng thì cơng tác bảo tồn văn hóa, tín ngưỡng truyền
thống trong q trình đơ thị hóa đóng một vai trị quan trọng góp phần tạo dựng diện mạo
làng biển Đà Nẵng hiện đại, năng động nhưng vẫn mang đậm dấu ấn truyền thống.


×