Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM _ Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.59 KB, 30 trang )

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VN
ĐỀ BÀI:

Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự và đề xuất một số giải pháp
nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này.


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................. 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.............................................................................. 1
1. Những vấn đề chung về quyền tự định đoạt của đương sự trong
luật tố tụng dân sự.............................................................................. 1
1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
........................................................................................................... 1
1.2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự......................................................................................... 1
2. Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và đề xuất
một số giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này.
............................................................................................................. 3
2.1. QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án dân sự............................3
2.2. QTĐĐCĐS trong việc đưa ra yêu cầu.........................................4
2.3. QTĐĐCĐS trong việc đưa ra các yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.............................................................6
2.4. QTĐĐCĐS trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu.................7
2.5. QTĐĐCĐS trong việc thỏa thuận giải quyết VADS...................8
2.6. QTĐĐCĐS trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu
kháng cáo đối với bản án, quyết định giải quyết VADS.....................8
KẾT THÚC VẤN ĐỀ................................................................................. 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................10



ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)
 Nhận viết bài tiểu luận, luận văn.
 Trả lời các câu hỏi bài tập ngành Luật
 Làm bài kiểm tra trắc nghiệm ngành Luật trên
hệ thống.
 Tư vấn Luật


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)
Thanh tốn phí DV:


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)
Thanh tốn phí DV:


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN

HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:

+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)



ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐÁP ÁN ĐÃ BỊ ẨN
HÃY MUA TÀI LIỆU ĐỂ NHẬN ĐÁP ÁN
Liên hệ:
+84377776731 (Viettel)
+84888303105 (Vinaphone)


ĐẶT VẤN ĐỀ

Như chúng ta đã biết, Quyền tự định đoạt của đương sự (QTĐĐCDS) đã
được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta từ rất sớm và
ngày càng được hoàn thiện hơn. Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Tố tụng dân sự
(TTDS) nói chung và pháp luật Tố tụng dân sự về quyền tự định đoạt của
đương sự nói riêng. Tuy nhiên, để đương sự có đầy đủ khả năng trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tịa án thì các quy định về
QTĐĐCDS phải được xây dựng hoàn thiện trên cơ sở bảo đảm quyền con
người, quyền cơng dân. Vậy BLTTDS có quy định như thế nào về các vấn
đề pháp lý quyền tự định đoạt của đương sự trong Tố tụng dân sự? Bảo
đảm việc hiểu và áp dụng thống nhất các quy định pháp luật vào thực tiễn
là một yêu cầu bức thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bày,

em xin chọn Đề số 01: “ Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện nguyên tắc” để làm đề tài nghiên cứu trong bài tiểu luận
này.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, em có tham khảo tài liệu từ
nhiều nguồn nhưng vẫn khơng tránh khỏi sai sót, kính mong thầy cơ góp ý
để bài tập của em được hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn!


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những vấn đề chung về quyền tự định đoạt của đương sự trong luật tố
tụng dân sự.
1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
- Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự
quyết định và quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết
để bảo vệ quyền, lợi ích đó, là một trong những nguyên tắc cơ bản của
BLTTDS. Vì vậy, nó được hiểu là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định
hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và được ghi nhận
trong các văn bản TTDS đồng thời là nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt
động của đương sự khi tham gia tố tụng. Khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh
chấp hoặc họ cho rằng là có vi phạm hoặc đang tranh chấp thì Tịa án phải
xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự
* Cơ sở lí luận của nguyên tắc quyền tự định đoạt ca đương sự trong
TTDS
- Nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS có cội nguồn từ các nguyên tắc trong
giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thoả thuận, tự chịu trách nhiệm và bình

đẳng giữa các chủ thể. Trong TTDS, nguyên tắc QTĐĐCĐS thể hiện ở khả
năng những người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của
mình và các quyền về phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp


pháp bị xâm hại. Có thể thấy rằng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS
chính là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức,
được phái sinh bởi các nguyên tắc trong giao lưu dân sự do pháp luật nội
dung quy định. Mặt khác nguyên tắc QTĐĐCĐS được đặt ra do yêu cầu
bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
- Theo như quy định tại Điều 9 BLTTDS thì Đương sự có quyền tự bảo vệ
hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của
BLTTDS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tồ án có trách nhiệm
bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ. Pháp luật cho phép
đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và để bảo
đảm cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì
pháp luật phải có những quy định nhằm giúp đương sự thực hiện tốt quyền
này. Đương sự sẽ có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu toà án giải quyết vụ
việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc khởi kiện và
yêu cầu này hoàn tồn dựa trên sự tự do ý chí của đương sự. Hơn nữa, để
bảo đảm được quyền bảo vệ của đương sự, pháp luật cịn quy định trong
q trình giải quyết vụ việc dân sự các đương sự được quyền chấm dứt,
thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu, được quyền tham gia phiên tồ,… Nếu
khơng có những quy định về QTĐĐCĐS trong TTDS thì sẽ khơng thể bảo
đảm được việc thực thi nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
Chính vì vậy mà pháp luật TTDS đã đưa ra quy định về nguyên tắc
QTĐĐCĐS trong TTDS tại Điều 5 BLTTDS: Đương sự được quyền tự
mình quyết định việc khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Đây
là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ vào quyền
tự định đoạt này mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi kiện,



yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, các vụ việc dân sự sẽ được giải
quyết một cách nhanh chóng, đúng đắn và khách quan hơn. Cho nên, việc
ghi nhận QTĐĐCĐS trong tố tụng dân sự là một vấn đề cấp thiết.
* Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS
Khi các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống xã hội, bên nào nhận thấy
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì phải tiến hành khởi
kiện hoặc yêu cầu toà án giải quyết vụ việc dân sự. Nếu người có quyền và
lợi ích bị xâm phạm khơng u cầu tồ án giải quyết thì tồ án không được
quyền giải quyết. Việc khởi kiện, hoặc yêu cầu nêu trên hồn tồn dựa trên
sự tự do ý chí của họ. Một khi đã nhận được yêu cầu của đương sự thì tồ
án phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc để đảm bảo quyền lợi cho
người có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này
còn rất nhiều bất cập. Một mặt, người dân khơng có hiểu biết về pháp luật,
nên khơng biết là mình có quyền u cầu tồ án giải quyết khi nhận thấy
quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Hoặc có trường hợp có u cầu
nhưng đương sự lại hiểu sai quy định của pháp luật nên yêu cầu đó là trái
pháp luật và đạo đức xã hội,... Vì vậy, cần phải quy định đương sự hồn
tồn có quyền chấm dứt, thay đổi, hoặc bổ sung u cầu. Bên cạnh đó, từ
phía tồ án cũng cịn tồn tại nhiều sai sót. Có trường hợp, nhận được yêu
cầu của đương sự mà vẫn không tiến hành giải quyết hoặc tồ án giải quyết
khơng đúng, vượt q phạm vi yêu cầu của đương sự. Vì vậy mà việc quy
định QTĐĐCĐS trong TTDS trong đó ghi nhận trách nhiệm của toà án
trong việc bảo đảm QTĐĐCĐS là một yêu cầu cấp thiết. Cho nên BLTTDS


năm 2004 đã đưa ra quy định về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS tại
Điều 5. Việc quy định QTĐĐCĐS là hồn tồn phù hợp với thực tiễn khách

quan. Góp phần bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS,
tăng cường pháp chế XHCN.
2. Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và đề xuất một số
giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này.
2.1. QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án dân sự
Quyền khởi kiện vụ án dân sự (VADS) là một trong các quyền TTDS của
đương sự, được thực hiện đầu tiên trong q trình TTDS. Do tính chất của
quan hệ pháp luật tòa án giải quyết trong VADS, các đương sự có quyền tự
định đoạt việc khởi kiện VADS. Để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương
sự trong khởi kiện VADS, tại điều 4, 5, 9, 186, 190 của BLTTDS năm 2015
đã quy định cụ thể về quyền khởi kiện và đảm bảo quyền khởi kiện của
đương sự, theo các quy định này thì đương sự có quyền tự định đoạt việc
khởi kiện VADS khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nếu có đủ
năng lực hành vi TTDS, thì đương sự có thể tự mình hoặc ủy quyền cho
người khác khởi kiện VADS. Trong trường hợp đương sự không đủ năng
lực hành vi TTDS thì người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ quyết
định việc khởi kiện VADS thay cho đương sự. Để đảm bảo quyền tự định
đoạt của đương sự trong khởi kiện VADS, Tịa án khơng được từ chối giải
quyết vụ việc dân sự, kể cả trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng.
Tịa án cũng chỉ thụ lý giải quyết khi có đơn kiện VADS của đương sự và
chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện VADS đó.
Theo điều 187 BLTTDS năm 2015 các cơ quan, tổ chức, cá nhân này khởi
kiện không phải để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà khởi


kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác, lợi ích cơng cộng và lợi ích
của Nhà nước. Tuy thế, việc khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân này
không hạn chế quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện của đương sự, trái
lại còn đảm bảo quyền khởi kiện của đương sự, bởi họ là những chủ thể yếu
trong xã hội (phụ nữ, trẻ em v.v…) không thể tự khởi kiện VADS để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình được. Bên cạnh đó, đối với lợi ích
cơng cộng, lợi ích Nhà nước bị xâm phạm thì cũng phải có cơ quan, tổ chức
đứng ra khởi kiện VADS để bảo vệ lợi ích đó.
Đối với trường hợp VADS đã được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, về nguyên tắc để bảo đảm hiệu lực của bản
án, quyết định thì đương sự khơng được khởi kiện lại. Tuy nhiên, để đảm
bảo quyền khởi kiện và quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện của đương
sự thì điểm b khoản 3 điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định các trường
hợp ngoại lệ đương sự có quyền khởi kiện lại như trường hợp yêu cầu xin
ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi
thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người
quản lý di sản, thay đổi ngừơi giám hộ, vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho
thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở
nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của
pháp luật được quyền khởi kiện lại.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, điều
184 BLTTDS năm 2015 theo điều luật này thì đương sự được tự định đoạt
trong việc yêu cầu áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện. Tòa án chỉ
áp dụng quy định về thời hiệu khi có yêu cầu của một bên hoặc các bên và


yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết
định giải quyết vụ việc. Ngoài ra, điều 190 BLTTDS năm 2015 quy định
việc nộp đơn khởi kiện có thể thực hiện bằng các phương thức như nộp trực
tiếp tại Tòa án; gửi đến Tịa án qua đường bưu chính hoặc gửi trực tuyến
bằng hình thức điện tử qua cổng thơng tin điện tử của Tòa án đã tạo điều
kiện thuận lợi cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện. Tuy nhiên, theo
điều 189 BLTTDS năm 2015 thì người khởi kiện VADS phải làm đơn khởi
kiện đến Tịa án mà khơng được trực tiếp đến Tòa án khởi kiện, đây là một
hạn chế.

2.2. QTĐĐCĐS trong việc đưa ra yêu cầu
Đương sự có quyền quyết định khởi kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn
cũng có quyền quyết định đưa ra yêu cầu phản tố, chấp nhận hoặc bác bỏ
yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập. Khoản 4 và khoản 5 điều 72 BLTTDS năm 2015 quy định bị đơn
có quyền: Đưa ra yêu cầu phản tố đối với đương sự, nếu có liên quan đến
yêu cầu của đương sự hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của đương sự; Đưa
ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu
cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Về yêu cầu phản tố: Trong TTDS thì phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi
kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp
luật nguyên đơn đã kiện bị đơn, nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật
mà nguyên đơn đã khởi kiện. Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn
mới, không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải
khởi kiện thành vụ án riêng. Quyền phản tố của bị đơn khác quyền phản đối


của bị đơn. Nếu quyền phản đối là quyền của bị đơn nhằm chứng minh việc
mình khơng xâm hại đến quyền lợi của nguyên đơn như yêu cầu kiện của
nguyên đơn, thì quyền phản tố là quyền bị đơn đưa ra yêu cầu ngược lại đối
với nguyên đơn về một quan hệ pháp luật độc lập, có liên quan đến yêu cầu
của nguyên đơn.
Như vậy, xét về bản chất, quyền phản tố là quyền yêu cầu để bù trừ nghĩa
vụ có liên quan tới yêu cầu của nguyên đơn nên yêu cầu phản tố được giải
quyết trong cùng một vụ án. Với việc quy định cụ thể các trường hợp được
xác định là yêu cầu phản tố theo quy định của BLTTDS đã đảm bảo cho bị
đơn thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong việc đưa ra các yêu cầu để
bảo vệ quyền lợi của mình, bác bỏ các yêu cầu của nguyên đơn.
Khoản 1 điều 200 BLTTDS năm 2015 quy định: Cùng với việc phải nộp
cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của đương sự , bị

đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với đương sự , người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Đồng thời để khắc phục hạn chế của BLTTDS 2004, khoản 3 điều 200
BLTTDS năm 2015 đã quy định thời điểm thực hiện yêu cầu phản tố của bị
đơn: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải. Khi bị
đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đưa ra yêu cầu độc lập, thì Tịa án sẽ phải xem xét giải quyết cùng
với yêu cầu khởi kiện của đương sự.


2.3. QTĐĐCĐS trong việc đưa ra các yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn và bị
đơn hay nói cách khác người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập là người tham gia vào vụ kiện của người khác để bảo vệ quyền, lợi
ích độc lập của mình đối với đối tượng tranh chấp mà Tòa án đang xem xét
và giải quyết. Trong VADS, lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của
nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị
đơn.
Như vậy, khởi kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hay của người khác, là cơ sở pháp lý làm phát sinh các quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự. Khơng có hành vi khởi kiện thì cũng khơng có
q trình tố tụng dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có
đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu của các chủ thể. Đương sự có quyền quyết
định khởi kiện, nội dung khởi kiện và bị đơn có quyền đưa ra u cầu phản
tố thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có quyền đưa ra yêu cầu

độc lập đối với đương sự hoặc bị đơn. Theo điều 73 BLTTDS năm 2015,
thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc
tham gia tố tụng với bên đương sự hoặc với bên bị đơn; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan
đến việc giải quyết vụ án thì có quyền, nghĩa vụ của đương sự ; người có


×