Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập TRIẾT học 3 (CHƯƠNG TRÌNH THẠC sỹ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.37 KB, 33 trang )

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC K31
Câu 1: Trình bày đối tượng, đặc điểm và vai trò của triết học Mác-Lênin. Ý nghĩa của vấn đề này
đối với người cán bộ KHKT?
1. Đối tượng của triết học Mác- Lênin: Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác -Lênin là Nghiên cứu
những quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy. Vai trò của con người đối với thế giới trên cơ sở
giải quyết khoa học vấn đề cơ bản của triết học. (1 điểm)
2. Đặc điểm của triết học Mác-Lênin: Triết học Mác-Lênin là một học thuyết khoa học và tiến bộ, nó
mang trong mình 3 đặc điểm chính sau:
* Thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học:
+ Tính Đảng của triết học Mác-Lênin: Lập trường CNDV biện chứng, đấu tranh kiên quyết chống
CNDT, siêu hình, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, bảo vệ và mang lại lợi ích cho giai cấp vô sản và quần
chúng nhân dân lao động.
+ Tính khoa học của triết học Mác-Lênin (TH MLN): phản ánh đúng đắn hệ thống các quy luật
vận động và phát triển của thế giới.
+ Vì sao có sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong TH MLN: Do mục tiêu lý tưởng
chiến đấu, lợi ích giai cấp vơ sản phù hợp tiến trình khách quan của lịch sử.
* Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
+ Gắn nhận thức thế giới với cải tạo thế giới là nguyên tắc cơ bản của triết học Mác: triết học MLN
ra đời từ nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của phong trào cách mạng của giai cấp cơng nhân và quần chúng lao
động. Nó trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vơ sản…
+ Thơng qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà phát triển triết học. Triết học lại trở lại chỉ đạo,
hướng dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mà bổ sung và phát triển, mà làm trịn sứ mệnh của
mình.
+ Chỉ có thơng qua hoạt động thực tiễn thì triết học MLN mới trở thành sức mạnh vật chất, mới phát
triển và đổi mới khơng ngừng.
* Tính sáng tạo của TH MLN:
+ Sáng tạo là bản chất của triết học Mác: những nguyên lý, quy luật phổ biến khi vận dụng vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể phải đúng đắn, sáng tạo.
+ Hiện thực khách quan không ngừng vận động và biến đổi, tư duy và ý thức phản ánh chúng
cũng không ngừng bổ sung và phát triển. Triết học với tư cách là một khoa học cũng không ngừng được
bổ sung, phát triển và vận dụng một cách sáng tạo, sao cho phù hợp với từng hồn cảnh.


+ Tính sáng tạo của TH MLN đòi hỏi chúng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học
của từng nguyên lý và vận dụng nó trên quan điểm thực tiễn, lịch sử, cụ thể. Nghĩa là phải xuất phát từ
khách quan, đúng thực tiễn sinh động làm cơ sở cho nhận thức và vận dụng lý luận.
Ý nghĩa của vấn đề này đối với người cán bộ kỹ thuật quân sự:
Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ
nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Người cán bộ kỹ thuật quân sự cần nhận thức rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của Đảng, quân đội
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ của Quân đội là bảo vệ Đảng, nhân dân.
Nắm vững các cơ sở lý luận của các các nguyên tắc, quy luật, cặp phạm trù trong triết học, có sự vận
dụng linh hoạt trong thực tiễn hoạt động của đơn vị và chức năng nhiệm vụ của bản thân.

1


Nắm vững cơ sở lý luận của chuyên ngành, chuyên môn bản thân phụ trách và áp dụng vào thực tiễn
hoạt động công tác và ngược lại từ thực tiên hoạt động công tác, kinh nghiệm xây dựng, khái quát phát
triển các lý luận mới để có thể đáp ứng với sự phát triển không ngừng.
Với quân đội ta hiện nay để đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ thì vấn đề " Chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại" là địi hỏi khách quan, tất yếu từ đó thì người cán bộ kỹ thuật quân sự cũng phải có
nhận thức với sự phát triển tất yếu của khoa học và kỹ thuật quân sự, hiện đại hóa trang bị vũ khí thiết bị
quân sự đáp ứng nhiệm vụ hiện đại hóa qn đội.
Câu 2 : Phân tích tính tất yếu lịch sử của sự ra đời triết học Mác. Ý nghĩa của vấn đề trong bảo vệ
và phát triển triết học Mác - Lênin hiện nay ?
1. Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác Triết học Mác ra đời là do những địi hỏi của thực
tiễn chính trị-xã hội và là q trình phát triển hợp quy luật của triết học và của nhận thức khoa học. Nó
được chuẩn bị bởi những tiền đề cụ thể sau:
1.1 Tiền đề kinh tế-xã hội: Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó
là thời kỳ chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định địa vị thống trị về kinh tế của mình. Cùng với sự phát triển kinh

tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp vơ sản
đã bước lên vũ đài chính trị như một lực lượng độc lập. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu
thuẫn vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Trước hết, là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính
chất xã hội với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này biểu hiện về
mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Để giải quyết mâu thuẫn này, giai cấp vô
sản đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Để đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị,
từ tự phát đến tự giác địi hỏi phải có một học thuyết khoa học, cách mạng soi đường chỉ lối. Học thuyết
khoa học, cách mạng ấy chính là chủ nghĩa Mác, mà hạt nhân của nó là triết học Mác. Như vậy, thực tiễn
xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi
sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về lý luận những vấn đề thời đại
đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
1.2. Tiền đề lý luận: Sự ra đời triết học Mác chẳng những là sản phẩm tất yếu của những điều
kiện kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX, mà còn là sự phát triển hợp quy luật của
lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tất cả những tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng của nhân loại, mà trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp. Đối với triết học cổ điển Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa phép biện
chứng của Hêghen, khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của nó. Đồng thời, hai ơng cịn cải tạo phép biện
chứng ấy, đặt nó trên nền thế giới quan duy vật. C. Mác và Ph. Ăngghen còn kế thừa chủ nghĩa duy vật
của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình, máy móc, chưa triệt để của nó, làm giàu nó bằng phép biện
chứng. Từ đó, C. Mác 7 và Ph. Ăngghen xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ, đó chính là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học. Việc kế thừa và cải tạo
kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là A. Xmít và Đ. Ricácđơ là một nhân tố khơng thể
thiếu được góp phần hình thành nên quan niệm về duy vật lịch sử của triết học Mác. Trong chủ nghĩa
Mác, những quan điểm triết học được hình thành khơng tách rời với những quan điểm chính trị-xã hội
qua việc cải tạo một cách có phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu tiêu biểu là
Xanh Ximơng và S. Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên: Những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trị quan trọng
khơng thể thiếu được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm

bộc lộ rõ tính chất hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức thế
giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện
chứng duy vật. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, nổi bật lên ba phát minh lớn: định

2


luật bảo tồn và chuyển hố năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá của Đácuyn. Các phát minh
trên đây đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, khơng sinh ra và khơng mất đi, nó chỉ chuyển
hoá từ dạng này sang dạng khác, khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, khẳng định tính thống nhất
vật chất của thế giới và khẳng định tính biện chứng của thế giới vật chất. Với những phát minh lớn của
khoa học tự nhiên đã làm cho "quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản:
tất cả những gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những
gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh toàn
bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dịng và một tuần hồn vĩnh cửu" 1 . C. Mác và Ph. Ăngghen đã
phân tích một cách sâu sắc các thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát chúng thành các quan điểm
triết học và từ đó hình thành nên một học thuyết triết học thực sự khoa học- triết học duy vật biện chứng.
Tóm lại, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử khơng
những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn của giai cấp cơng nhân, địi hỏi phải có một lý luận mới
soi đường mà còn là sự phát triển hợp lơgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại; đồng thời, triết học Mác ra
đời cũng là kết quả tất yếu của những trí tuệ thiên tài, những trái tim đầy nhiệt huyết cách mạng.
2. Ý nghĩa của vấn đề trong bảo vệ và phát triển triết học Mác- Lê nin hiện nay?
Trong những năm qua, các thế lực thù địch vin vào sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xơ và Đơng
Âu, vào sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, của sản xuất hiện nay... để phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, từ thực tiễn đấu tranh tư tưởng - lý luận của V.I.Lênin để bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác và thực tiễn cơng cuộc đổi mới của Việt Nam, có thể khẳng định rằng, những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn có giá trị bền vững, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là học thuyết
khoa học, cách mạng và nhân văn. Sự ra đời của Triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch
sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc cách mạng ấy bao hàm tính kế thừa, tiếp thu
tất cả những nhân tố tiên tiến và tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại.

Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học đó khơng dừng lại ở chủ
nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi
xem xét các hiện tượng xã hội. Các ơng đã khắc phục những thiếu sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước
phát triển mới bằng cách tiếp thu một cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất
là phép biện chứng trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép
biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập Triết học Mác đã cải tạo nó, đặt nó trên lập trường duy vật.
Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật
cũ, trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ 19,
Mác và Enghen đã tạo ra triết học của mình.
Triết học Mác - Lê Nin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Lenin hy vọng khắc phục được
những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Trong Triết học Mác - Lenin, các quan điểm duy vật về
tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ
với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất. Kể từ tháng 2 năm 1848 với sự ra đời của Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản - đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác đến nay đã hơn 170 năm. Hơn 170 năm qua
với bao sự đổi thay của thực tiễn phong trào công nhân; chủ nghĩa xã hội từ ước mơ, lý tưởng đã trở thành
hiện thực với hơn 100 năm tồn tại cùng những thăng trầm lịch sử khác nhau; khoa học, cơng nghệ có
những bước phát triển vượt bậc, khó tưởng tượng,v.v.. Nhưng chủ nghĩa Mác vẫn tồn tại, vẫn phát triển,
vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của các đảng cộng sản và hàng triệu triệu cơng nhân
cùng nhân dân lao động tồn thế giới. Có được như vậy là vì sự vận dụng, bổ sung, phát triển là bản chất
cách mạng vốn có, yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác; là đáp ứng yêu cầu thực tiễn của thời đại cũng như
sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Câu 3: Cơ sở lý luận và nội dung nguyên tắc khách quan? Vận dụng nguyên tắc khách quan trong
thực tiễn học tập và công tác?
* CS LL: Dựa trên quan điểm của CNDVBC về vật chất, ý thức, mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Đây là cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong quá trình hoạt
động thực tiễn.

3



- Định nghĩa vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác.
- Định nghĩa ý thức: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách
năng động, sáng tạo.
- Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Vật chất là cái có trước, tồn tại khách quan độc lập với ý thức và quyết định ý thức. ý thức là cái
có sau, phụ thuộc vào vật chất, do vật chất quyết định, nhưng ý thức có tính độc lập tương đối, có vai trị
tác động trở lại đối với sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
+ Vật chất quyết định ý thức trên ba phương diện :
. Quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức: Vì nguồn gốc ra đời quan trọng của YT là lao động, là
thực tiễn xã hội, ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người thông qua lao động ngôn ngữ và các quan hệ XH.
. Quyết định nội dung của ý thức: Vì YT là sự phản ánh TG vật chất và sự sáng tạo cuả YT là sự
sáng tạo trong phản ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh. Hơn nữa, tự thân YT không thể gây ra sự
biến đổi nào trong đời sống hiện thực.
. Quyết định sự biến đổi của ý thức: YT phản ánh TG hiện thực KQ, TG vật chất, bản thân nó
khơng thể gây ra sự biến đổi trong đời sống hiện thực. Nhưng TG vật chất thì vận động và biến đổi khơng
ngừng nên làm cho YT biến đổi.
+ Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất :
. Ý thức do vật chất quyết định nhưng không phải là hoàn toàn thụ động, lệ thuộc vào thế giới vật
chất mà nó có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với vật chất. ý thức trang bị cho con người
những tri thức về sự vật, về bản chất, quy luật khách quan của đối tượng. Trên cơ sở đó, con người xác
định đúng mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. ý thức có thể làm cho con người hoạt
động đúng hay sai, thành công hay thất bại.
. Sự tác động trở lại của ý thức đối với thế giới khách quan cơ thể diễn ra theo hai chiều hướng
khác nhau: thúc đẩy hoặc kìm hãm. Nếu ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ có tác động
tích cực giúp con người đạt được hiệu quả trong hoạt động thực tiễn; ngược lại, thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực
đến hoạt động thực tiễn của con người.
Cần phân biệt khách quan và chủ quan không đồng nhất với vật chất và ý thức. Nhưng mối quan

hệ giữa vật chất và ý thức lại là cơ sở để giải quyết khách quan và chủ quan.
Khách quan là toàn bộ những điều kiện hoàn cảnh bên ngoài chủ thể, tạo thành một điều kiện hiện
thực, tác động lên hoạt động của chủ thể (khách quan không chỉ là vật chất mà bao gồm cả ý thức).
Chủ quan là toàn bộ ý thức của chủ thể cùng với hoạt động của chủ thể tác động vào thế giới (chủ
quan không chỉ là ý thức mà còn cả vật chất)
* Nội dung nguyên tắc :
Khi xem xét phải xuất phát từ bản thân sự vật, từ những điều kiện tồn tại thiết yếu của nó. Phải tôn
trọng hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, từ những
điều kiện, hoàn cảnh, khả năng khách quan. Như vậy, nhận thức, xem xét sự vật đúng như nó vốn có,
khơng thêm, khơng bớt, khơng được lấy ý muốn chủ quan áp đặt, đánh giá sự vật, hiện tượng.
Cùng với tơn trọng khách quan phải phát huy vai trị năng động chủ quan, năng động trong nhận
thức, năng động trong quá trình tổ chức thực hiện.
Khắc phục những hạn chế tuyệt đối hóa khách quan dẫn đến trơng chờ, ỷ lại, mất cơ hội. Tuyệt đối
hóa chủ quan dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí.

4


Thực hiện nhất quán nguyên tắc này sẽ khắc phục được những sai lầm của CNDT, bệnh chủ quan
duy ý chí, của lối suy nghĩ và hành động giản đơn thường hay gán cho sự vật những điều mà sự vật vốn
khơng có.
* Vận dụng ngun tắc khách quan trong thực tiễn học tập, công tác:
- Nhận thức điều kiện khách quan, quy luật khách quan
+ Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà khơng được tùy tiện
đưa ra những nhận định chủ quan .
+ Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học
có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực nghiệm
- Phát huy vai trò tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn:
+ Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
+ Hai là: Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm kiếm

các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắng họat động của con người
đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra.
Câu 4: Cơ sở lý luận và nội dung nguyên tắc toàn diện? Sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp
đổi mới? (vận dụng trong công tác và học tập)
* Cơ sở lý luận: Dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
+ Khái niệm liên hệ phổ biến: là phạm trù triết học, dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách
quan.
Từ nguyên lý liên hệ phổ biến thì mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong sự liên hệ phổ biến nhiều
vẻ vô cùng phong phú, liên hệ là khách quan, nghĩa là khơng có sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách
độc lập, cơ lập.
* Nội dung ngun tắc tồn diện
Khi xem xét sự việc phải xem xét tất cả mối liên hệ cấu thành sự việc, bên trong và bên ngoài,
trực tiếp và gián tiếp. Nhưng phải xem xét có trọng tâm, tìm ra mối liên hệ bản chất bên trong của nó,
chống xem xét tràn lan, phiến diện và chủ nghĩa triết trung.
Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải xem xét các mối liên hệ của sự vật hiện tượng này với
sự vật hiện tượng khác, cũng như giữa các bộ phận, các mặt, các yếu tố trong một sự vật.
Phải xem xét các giai đoạn phát triển của nó. Mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới
nói chung trong sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau và
các giai đoạn đó khơng tách rời nhau, có liên hệ làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm
mở đầu cho giai đoạn khác tiếp theo.
Khi xem xét nó phải gắn với điều kiện thực tiễn. Muốn thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển phải
tổng hợp nhiều biện pháp, đồng thời phải có biện pháp trọng tâm, trọng điểm, phải có mắt khâu mang tính
đột phá.
Quan điểm tồn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm toàn diện khác với chủ nghĩa
chiết trung và thuật nguỵ biện.
* Sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới:
Nhận thức và quán triệt quan điểm toàn diện trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng
tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội, đẩy mạnh

cơng nghiệp hố - hiện đại hố, đi tới bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc

5


tế, vừa giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ, an ninh quốc phịng… trong đó xác định phát triển kinh tế là
trọng tâm.
Trong khi khẳng định tính tồn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của q trình
đổi mới. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư
duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh
vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. Có thể khẳng định đây
là sự vận động và quán triệt quan điểm toàn diện trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới và đem lại những
thắng lợi to lớn cho sự nghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam.
Chúng ta có thể thấy sự ổn định, đứng vững và từng bước phát triển của đất nước trước những biến
cố của thế giới đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu để thể hiện rõ sự đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta trong lãnh dạo sự nghiệp đổi mới. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đơng
Âu bị sụp đổ đó là sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, chứ không phải
là chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Nước ta đã có một thời kỳ chìm
sâu trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và một loạt những điều chỉnh trong thời kỳ đổi mới của
Đảng và Nhà nước đã đưa đất nước dần thốt khỏi tình trạng nghèo đói, đời sống của người dân được
nâng cao.
Quan điểm tồn diện cịn được Đảng ta nhận thức và quán triệt ngay trong chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là việc Đảng
và Nhà nước vẫn thừa nhận vai trị tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại
của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức
sở hữu cơng cộng với vai trị chủ đạo là thành phần kinh tế nhà nước trong cơ chế thị trường hiện nay, đây
là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam chúng ta. Và như thế, việc nhận thức và qn triệt tốt ngun
tắc tồn diện của Đảng có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta trong thời gian tới.
Vận dụng quan điểm tồn diện trong thực tiễn học tập, cơng tác:
Với vị trí và u cầu cơng việc của trợ lý ban Doanh trại thuộc phòng HCKT, trực tiếp quản lý tài sản

doanh trại và bảo đảm nhu cầu điện, nước, chỗ ăn, ở, làm việc và học tập của toàn bộ cán bộ, giảng viên,
nhân viên, học viên và hạ sĩ quan chiến sĩ trong tồn đơn vị. Trong cơng việc, khi tiến hành quản lý của
mình cần có những biện pháp phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng quản lý, linh hoạt trong xử lý
công việc nhằm đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ được thuận lợi. Khi nhận nhiệm vụ cần đánh giá sự
tổng thể, sự liên quan của nhiệm vụ với các nội dung có liên quan và mối liên hệ với các nhiệm vụ khác,
của các đồng chí trong đơn vị để có hướng giải quyết nhanh, chính xác và hiệu quả nhất. Trong quá trình
học tập, cần hiểu rõ được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân cũng như các mỗi liên hệ xung quanh một
cách tồn diện. Bởi từ đó, tự bản thân luôn luôn ý thức rèn luyện, học tập, rút kinh nghiệm nhằm phát huy
ưu điểm và hạn chế nhược điểm của chính mình. Trong tất cả các hoạt động, kể cả xây dựng tập thể vững
mạnh hay hồn thiện chính từ bản thân mình, cũng ln cần kiên trì để phát huy cái mạnh, hạn chế mặt
yếu. Nắm các các yếu tố tác động đến công tác xây dựng để luôn đạt được thành quả như mong đợi trong
tất cả các hoạt động mà mình tham gia.
Câu 5. Trình bày nhận thức của đồng chí về vận dụng nguyên tắc toàn diện trong chủ
trương xây dựng quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” hiện nay? Vai
trò của người cán bộ kỹ thuật quân sự?
Nguyên tắc toàn diện là một trong những nguyên tắc, phương pháp luận cơ bản, quan trọng nhất của
phép biện chứng duy vật. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự vật, hiện tượng trong toàn
bộ mối liên hệ của nó.Cơ sơ lý luận của ngun tắc tồn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến- là một
trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin.Trong phép biện
chứng duy vật, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Nội dung nguyên tắc toàn diện:Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
tượng chúng ta rút ra nội dung quan điểm toàn diện trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn:

6


+ Về nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ tác động qua lại với
những sự vật, hiện tượng khác và cần phải phát hiện ra những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các
thuộc tính, các giai đoạn khác nhâu của bản thân sự vật , hiện tượng. Lênin khẳng định”Muốn thực sự

hiểu được các sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt của mối liên hệ và quan hệ của
sự vật đó”.
+ Về mặt thực tiễn, quan điểm tồn diện địi hỏi để cải tạo sự vật hiện tượng cần làm thay đổi mối liên hệ
bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng
khác. Muốn vậy cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương tiện để giả
quyết sự vật.Mặt khác, quan điểm tồn diện địi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách
dàn đều và chính sách có trọng tâm trọng điểm. vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn
những vấn đề trong tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết những vấn đề khác.
Xây dựng QÐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là quan điểm, chủ
trương đúng đắn của Ðảng ta; là giải pháp quan trọng trong chiến lược xây dựng thế trận quốc phịng tồn
dân vững mạnh, bảo đảm cho QÐND Việt Nam luôn ở thế chủ động và giữ vai trò là lực lượng nòng cốt
trong thế trận chiến tranh nhân dân.
Lịch sử 75 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân (QÐND) Việt
Nam, trong kháng chiến giành độc lập dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như công cuộc đổi mới
đất nước đã thể hiện sâu sắc, đầy đủ bản chất, truyền thống của một quân đội cách mạng; xứng đáng với
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Quân đội ta trung với Ðảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh
vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Ðó cịn là biểu hiện đậm nét nhất sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Ðảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội ta. Trên cơ sở đánh giá khách quan, tồn diện,
khoa học tình hình thế giới, khu vực và xuất phát từ yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng định phương hướng: “Xây dựng QÐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Xây dựng quân đội cách mạng: đây là vấn đề cơ bản hàng đầu trong nhiệm vụ xây dựng quân đội của
Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Xây dựng QÐND cách mạng được xác định là nền tảng, là kim chỉ
nam trong các hoạt động xây dựng quân đội. Tức là xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại phải tuân thủ theo yêu cầu, nội dung, tiêu chí xây dựng quân đội cách mạng. Ðó là quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; chiến
đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì mục tiêu, lý tưởng của Ðảng.
Trong tình hình phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết càng phải giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng
cho quân đội. Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và Nhân dân; tăng

cường bản chất của giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối với quân đội.
Bên cạnh đó, đấu tranh có hiệu quả với chiến lược “Diễn biến hồ bình”, nhất là âm mưu, thủ đoạn “phi
chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng
của Ðảng trong quân đội. Ðồng thời thực hiện quân với dân một ý chí trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng quân đội chính quy: Xây dựng QÐND chính quy là quá trình tạo ra sự thống nhất về nhận
thức tư tưởng; về tổ chức biên chế, trang bị; về huấn luyện, giáo dục- đào tạo và thực hiện các chế độ,
nền nếp… làm cho qn đội có tính tổ chức, tính kỷ luật, tập trung thống nhất cao; tồn quân hành động
theo điều lệnh.
Thực hiện xây dựng quân đội chính quy phải bảo đảm tính tồn diện trên mọi lĩnh vực, các mặt công tác
và phù hợp với từng loại hình đơn vị. Trong đó, tập trung vào nâng cao trình độ chính quy trong huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu; quản lý bộ đội, quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật... Ðồng thời, bảo đảm chính
quy, thống nhất về trang phục, lễ tiết, tác phong quân nhân và thực hiện nền nếp các chế độ quy định. Kết
hợp chặt chẽ giữa xây dựng nền nếp chính quy với rèn luyện kỷ luật, chấp hành pháp luật của bộ đội, bảo
đảm an toàn tuyệt đối trong huấn luyện, diễn tập, lao động sản xuất.

7


Xây dựng quân đội tinh nhuệ: Xây dựng QÐND tinh nhuệ ln là mong muốn, khát vọng của tồn
Ðảng, tồn dân, tồn qn ta, và đó cũng là u cầu đặt ra trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng quân
đội. Trong đó, quân đội phải tinh nhuệ trước hết về chính trị và trình độ tác chiến. Sự tinh nhuệ về chính
trị biểu hiện tập trung ở việc trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Ðảng, Nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; kiên định mục tiêu lý tưởng của Ðảng, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội; chấp hành
nghiêm đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; sẵn sàng
nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Sự tinh nhuệ về trình độ tác chiến biểu hiện ở khả năng phát huy nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân
dân Việt Nam và khả năng khai thác, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật; phối hợp chặt
chẽ với các lực lượng, xử lý tốt các tình huống, giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội. Có

thể nói, xây dựng quân đội tinh nhuệ là tạo ra đội quân nhạy bén, sắc sảo về chính trị, tinh thơng kỹ chiến
thuật, có cách đánh, có thể lực, có tài thao lược đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Từng bước hiện đại: Xây dựng QÐND từng bước hiện đại là từng bước nâng cao chất lượng vũ khí
trang bị, phương tiện hiện đại, hiện đại hoá nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, chủ động hội
nhập quốc tế, phát triển công nghiệp quốc phịng trong tình hình mới. Ðại hội XII của Ðảng ta xác định
phương hướng xây dựng QÐND Việt Nam từng bước hiện đại, trước mắt tập trung xây dựng một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại như: HQ, PK-KQ, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện
tử, Trinh sát kỹ thuật, Cảnh sát biển. Ðồng thời, đẩy nhanh lộ trình thực hiện từng bước hiện đại các lực
lượng khác cũng như tiếp tục nghiên cứu, lựa chọn những ngành, lĩnh vực quan trọng để đầu tư phát triển
theo hướng hiện đại, nhằm tạo nên sức mạnh chiến đấu mới của quân đội ta.
Bốn nội dung: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ln có quan hệ mật thiết với nhau,
làm tiền đề cho nhau và hợp thành một chỉnh thể thống nhất trong phương hướng xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam. Trong đó, xây dựng QÐND cách mạng là nền tảng, xây dựng chính quy là động lực,
nâng cao trình độ tinh nhuệ về tác chiến là then chốt và từng bước hiện đại hố vũ khí trang bị kỹ thuật là
trọng tâm. Tuyệt đối hoá hay hạ thấp bất cứ nội dung nào cũng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc
củng cố, tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây dựng QÐND Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là quan điểm, chủ trương đúng đắn của Ðảng ta; là giải pháp quan
trọng trong chiến lược xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân vững mạnh, bảo đảm cho QÐND Việt Nam
luôn ở thế chủ động và giữ vai trò là lực lượng nòng cốt trong thế trận chiến tranh nhân dân.
Vai trò người cán bộ kỹ thuật quân sự: Đội ngũ cán bộ kỹ thuật (CBKT) trong Quân đội là những
người trực tiếp nghiên cứu, quản lý, khai thác, sử dụng, nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật
phục vụ cho công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện các nhiệm vụ khác. Để đáp ứng yêu
cầu đề ra, đội ngũ CBKT phải được xây dựng vững mạnh, có lập trường tư tưởng vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, năng lực chuyên môn giỏi; tư duy độc lập, sáng tạo; có trình độ tiếp thu những tiến bộ của
ngành Kỹ thuật quân sự, ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn; say mê nghiên cứu khoa học - cơng nghệ,
tích cực trong thực hiện nhiệm vụ khắc phục mọi lệch lạc trong nhận thức cũng như trong hành động,
nhất là những biểu hiện chỉ coi trọng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật đơn thuần mà không quan tâm đến
các mặt cơng tác khác.
Câu 6: Trình bày cơ sở lý luận, nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể ? Vận dụng nguyên
tắc lịch sử - cụ thể trong thực tiễn học tập, công tác của anh (chị)?

Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử cụ thể : Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại,
vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không
gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu
tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ
khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hịan tồn bản chất của sự vật.u cầu của ngun tắc lịch sử cụ
thể. Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều kiện khơng gian và
thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều kiện khơng gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến

8


tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự
vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải phân tích nguồn
gốc xuất xứ, hồn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý
luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi được vận
dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể: Chân lý luôn là cụ thể nên khi xem xét sự vật phải xuất phát từ ĐK
KG và TG, gắn với hoàn cảnh tồn tại lịch sử của nó, phải biết phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể và do
đó, phải sáng tạo trong nhận thức và hành động. Chống bệnh giáo điều rập khuôn máy móc, chủ nghĩa hư
vơ lịch sử và bệnh "chung chung trừu tượng".
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể vào trong thực tiễn học tập công tác
Như yêu cầu nguyên tắc lịch sự cụ thể các đc triển khai thêm
Câu 7: Trình bày cơ sở lý luận, nội dung của nguyên tắc phát triển? Vận dụng nguyên tắc
phát triển trong thực tiễn học tập, công tác của anh (chị)?
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển: Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý
về sự phát triển.

• Sự vận động và sự phát triển:
- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay đổi
nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất,
là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh hướng vận
động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi
kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có
thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những
quy định về lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo
trên.
+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như
lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng,
nghèo nàn, khơ khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của
“sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy
vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ
và sự nảy sinh ra cái mới”.
- Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái mới; giữa cái
riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình thức; giữa bản chất và hiện
tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
- Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng: phát
triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển
trong tư duy, tinh thần.
• Nội dung nguyên tắc
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
- Phát triển mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một hệ thống vật chất, do việc
giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
Vận dụng nguyên tắc phát triển trong học tập công tác?


9


Vấn đề đặt ra nếu như khơng có sự vận động và phát triển thì sẽ như thế nào? Về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội? Trả lời câu hỏi này là ra liên
Câu 8: Tại sao thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác
– Lenin? Vận dụng? (cơ sở lý luận, nội dung của nguyên tắc thống nhất giữ lý luận và thực tiễn.
vận dụng trong học tập và công tác)
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lenin.
Lý luận với nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là tổng hợp các tri thức
về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy trong quá trình lịch sử của con người.
Thực tiễn là tồn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn: Lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng ở chỗ :
Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra lý luận. Do đó, lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng từ nhu cầu của thực tiễn, nghiên cứu lý
luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Song, lý luận khi đã hình thành có tác động trở lại đối với thực tiễn, nó là kim chỉ nam vạch phương
hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào lý luận để định hướng dẫn
dắt, đồng thời lý luận cũng được bổ sung từ thực tiễn. Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng sẽ biến
thành sức mạnh vật chất to lớn. Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao đem lại những hiểu biết
sâu sắc về sự vật, về bản chất, quy luật vận động, phát triển của đối tượng. Lý luận có khả năng dự báo
những xu hướng vận động, phát triển của thực tiễn. Cung cấp cho con người những định hướng, kế
hoạch, phương pháp hành động phù hợp.
Nói về vai trị của lý luận, Lênin viết : “ Khơng có lý luận CM thì khơng có phong trào CM ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: “ Lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông, thực
tiễn không gắn với lý luận là thực tiễn mù quáng”.
Lý luận và thực tiễn phải thống nhất vì xuất phát từ chức năng của lý luận, nhận thức là cải tạo thế
giới khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn mà con người khái quát lý luận, từ đó quay về chỉ đạo

thực tiễn để lý luận bổ sung không ngừng.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn giúp ta vừa phát triển được lý luận, vừa có hiệu
quả trong hoạt động thực tiễn, tránh được sự lạc hậu của lý luận, đồng thời tránh được hành động tự phát
trong hoạt động thực tiễn.
Nó giúp ta có cơ sở khoa học để khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Bệnh kinh
nghiệm chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thoả mãn với kinh nghiệm, tuyệt đối hoá kinh nghiệm, xem
thường lý luận. Bệnh giáo điều: tuyệt đối hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, chỉ biết sách vở,
lý luận suông, không căn cứ vào thực tiễn. Thực chất của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn người cán bộ KHKT phải làm gì?
- Phải khơng ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận, tri thức chuyên ngành, thường xuyên cập nhật kiến
thức, học tập suốt đời.
-Học phải đi đôi với hành, nhà trường phải kết hợp với xã hội
- Có phương pháp phân tích KH, phát hiện ra nhu cầu thực tiễn, nắm được bản chất của thực tiễn. Vận
dụng lý luận vào thực tiễn phải sáng tạo, đổi mới không ngừng.
- Bổ sung phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Câu 9: Trình bày sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của LLSX của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?

10


A. MỞ BÀI: Để nền kinh tế của một đất nước phát triển thật sự nó được chi phối bởi rất nhiều yếu tố,
trong đó có quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, đây là một quy luật
hết sức phổ biến và đóng vai trị quan trọng trong cơng cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự
mâu thuẫn hay phù hợp của nó đều có những ảnh hưởng nhất định đến cơ cấu cũng như sự phát triển của
nền kinh tế nước ta. Sự thống nhất mối quan hệ giữa LLSX và QHSX tạo nên một nền kinh tế có lực
lượng phát triển, và kéo theo đó là một QHSX tiến bộ. Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ này em xin bàn về
vấn đề: Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay.
B, NỘI DUNG: I. Lí luận của chủ nghĩa Mác -Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất
1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất ( LLSX) là sự kết hợp giữa người lao động ( sức khỏe thể chất, kinh nghiệm,..) với
tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
- LLSX gồm hai yếu tố cơ bản: người lao động và TLSX nhất định. Các yếu tố trong LLSX không thể
tách dời nhau. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó yếu tố con người giữ vị trí hàng đầu, TLSX
đóng vai trị rất quan trọng.
2. Khái niệm và kết cấu của QHSX
- Quan hệ sản xuất (QHSX) là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
- QHSX kết cấu gồm có ba mặt: quan hệ sở hữu đối với TLSX, quan hệ tổ chức, quản lí sản xuất và quan
hệ phân phối kết quả sản xuất. Ba mặt quan hệ này thống nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động kích
thích , thúc đẩy hoặc cản trở, kìm hãm những mặt khác. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai
trị quyết định hai mặt kia.
QHSX mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan của con người. QHSX là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của
con người.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX.
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó LLSX quyết định
QHSX và QHSX tác động ngược trở lại LLSX.
-Vai trò quyết định của LLSX đối với sự hình thành và biến đổi của QHSX:
+Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX tất yếu địi hỏi phải có một QHSX phù hợp
với nó trên cả ba mặt của QHSX đó.
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt
đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX mà trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi của LLSX
này mà QHSX phải biến đổi cho phù hợp.
+ LLSX thường biến đổi nhanh hơn ( yếu tố người lao động luôn thúc đẩy sự phát triển của nó), cịn
QHSX thường biến đổi chậm hơn (vì QHSX bị quy định bởi quan hệ về sở hữu TLSX bị níu giữ bởi yêu
cầu phải bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị hiện đang nắm giữ quyền sở hữu TLSX.
Do đó, sự phát triển của LLSX khi đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với QHSX hiện

có, địi hỏi tất yếu phải phá bỏ QHSX lỗi thời và thay thế bằng QHSX mới phù hợp.
-Tác động ngược lại của QHSX đối với LLSX.
+ QHSX quy định mục đích, cách thức sản xuất và cách thức phân phối những lợi ích từ quá trình sản
xuất do đó nó trực tiếp tác động tới thái độ của người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của
quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động.
+ Sự tác động của QHSX với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:

11


Một là, Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.
Hai là, Nếu QHSX khơng phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Quy luật này là quy luật cơ bản , quan trọng tác động tới tồn bộ q trình lịch sử nhân loại, ở đó LLSX
khơng ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của QHSX đối với nó dẫn tới việc phá bỏ
QHSX đã lỗi thời thay thế bằng QHSX tiến bộ hơn. Q trình đó lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người
trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội.
II. Thực tiễn sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX của ĐCSVN
trong sự nghệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ cảu LLSX là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển
xã hội, quy luật này nói lên vai trị quyết định của LLSX đối với QHSX và sự phụ thuộc của QHSX đối
với LLSX. Đồng thời nó cũng tác động trở lại đối với LLSX.
1. Nội dung quy luật:
LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn
nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người -Quy luật về sự phù hợp của QHSX với
tính chất và trình độ của LLSX.
Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt
mình QHSX tác động trở lại đối với LLSX.
+ Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và của lao động. Khái qt có 2 hình thức cơ bản là: tính
chất các nhân riêng lẻ, hoặc tính chất xã hội. Cịn trình độ của LLSX là trình độ phát triển của sản xuất
biểu hiện ở trình độ phát triển của khoa học công nghệ, công cụ lao động, kỹ thuật, kỹ năng, tri thức của

người lao động, trình độ phân cơng lao động.
+ LLSX quyết định QHSX, vì: LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của q trình
sản xuất, cịn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã hội của sản xuất nên có tính chất
tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của LLSX.
LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của
LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX phát triển.
Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới
phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu
tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
+ QHSX tác động lại LLSX:
QHSX tác động lại LLSX ở chỗ, nó quy định mục đích của sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất,
phương thức phân phối sản phẩm. Do vậy, nó tác động đến thái độ người lao động. QHSX phù hợp sẽ
thúc đẩy LLSX phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX tác động trong lịch qua sự thay thế kế tiếp
nhau của các PTSX từ thấp đến cao. Đó là cách nhìn thế giới trên phương diện tổng thể, quy luật chung,
xu hướng chung của lịch sử thế giới. Nhưng thực tế thì lịch sử đã chứng minh rằng, không phải bất cứ
nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự qua các PTSX.
2. Vận dụng của Đảng ta trong tình hình đổi mới đất nước hiện nay?
Nghiên cứu nắm vững quy luật này Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn cách mạng:
+ Việt Nam lựa chọn con đường đi lên XHCN không qua TBCN là một sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp
với sự phát triển của lịch sử. (phân tích tại sao)
+ Xuất phát từ đặc điểm chủ yếu của Việt Nam là từ sản xuất nhỏ đi lên xây dựng PTSX XHCN, nên theo
quy luật này. Đảng ta cho rằng: phát triển LLSX, thực hiện CNH – HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm

12


của thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.

+ Phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao, đa dạng
hố hình thức sở hữu.
+ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hưỡng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
III. Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng đúng đắn quy luật này ở Việt Nam (liên hệ)
- Không ngừng phát triển LLSX thông qua việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát
triển khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo.
- Không ngừng xây dựng và phát triển các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thơng qua
việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
C. KẾT LUẬN
Qua phần phân tích trên ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa phát triển LLSX với xây dựng hoàn
thiện từng bước QHSX trong thời kì quá độ là mối quan hệ biện chứng, khơng tách dời nhau. Qua đó, địi
hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc phát triển mạnh mẽ LLSX với một trình độ khoa học cơng nghệ ngày
càng cao làm cơ sở cho việc lựa chọn, vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX. Góp
phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân cả nước.
Câu 10: Cơ sở lý luận của quá trình đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội? Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay? Cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng
* Cơ sở lý luận:
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị có vị trí rất quan trọng trong q trình đổi mới ở
nước ta, bởi cả hai yếu tố này đều là những lĩnh vực của đời sống xã hội, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Đây chính là biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng; giữa cái khách quan và cái chủ quan.

Trong mỗi thời đại lịch sử, sự vận động của các chế độ chính trị - xã hội suy cho cùng đều phụ thuộc vào
sự vận động của chế độ kinh tế - xã hội, trong đó phương thức sản xuất có vai trị, vị trí hàng đầu.
Hồ Chí Minh, nhà cách mạng lỗi lạc, bằng chính hoạt động của mình đã cho rằng cần phải kịp
thời đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Vận dụng sáng tạo
lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng,
đổi mới nền kinh tế là vấn đề quan trọng của Việt Nam thời kỳ đầu của cách mạng: “Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tức là tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân chủ nhân dân và bước ngay vào thời kỳ quá độ để xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Xét về thực chất, đó là con đường cách mạng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay
đổi cả tự nhiên, làm cho xã hội khơng cịn người bóc lột người, mọi người đều được ấm no và hạnh
phúc”. Vì vậy muốn có chủ nghĩa xã hội phải có một thời kỳ quá độ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật,
công nghệ, xây dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xây dựng cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, xây dựng cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân. Mục tiêu đổi mới kinh tế

13


là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, Người nhấn mạnh: “1. Làm cho dân
có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành”.
Khi nói về đổi mới chính trị tức là Hồ Chí Minh bàn về sự thay đổi theo hướng phát triển đi lên
của mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, bao giờ Hồ Chí Minh cũng
hướng việc đổi mới đó vào việc thực hiện dân chủ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đây là mục đích, là bản chất của tổ chức và hoạt động chính trị.
Kết hợp chặt chẽ, khoa học giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị nhằm mục đích đề ra các
quan điểm đúng đắn, phù hợp để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất
cho nhân dân. Cần phải đổi mới cả về tư duy lãnh đạo, phương thức lãnh đạo về đường lối cũng như đổi
mới về cơ cấu các thành phần kinh tế thì Việt Nam mới có thể phát triển và hội nhập với bạn bè quốc tế
được. Giải quyết vấn đề đổi mới kinh tế không thể tách rời với đổi mới chính trị, nhưng kinh tế giữ vị trí
hàng đầu và quyết định đến các yếu tố khác. Sự kết hợp này chính là xây dựng mối quan hệ giữa đổi mới

kinh tế phải đi liền kề với đổi mới chính trị.
Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay
Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: Kinh tế nhà nước, Kinh
tế tập thể, Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập
nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai
trị, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất,
chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ sung cho nhau. Đó là nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột. Bởi
vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm
thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng
sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc
về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ
động của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ghi rõ: ”Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp
cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy,
tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân
mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Đại hội VIII chỉ ra “Kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị”.
Câu 11: Cơ sở lý luận quá độ lên CNXH và quá trình thực hiện ở nước ta hiện nay?(sự vận
động của hình thái KT-XH. Sự vận dụng của Đảng ta trong lựa chọn tiến lên CNXH bỏ qua TBCN)
Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái KTXH theo thứ tự từ thấp đến cao.

Đó chính là q trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục của lịch sử. Tuy nhiên, đối
với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng thì một nước nào đó, một dân tộc
nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ XH nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển ở phạm vi tồn
nhân loại vẫn là q trình lịch sử – tự nhiên, còn đối với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc
thang ”nhất định. Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCN đã chứng minh tính đúng
đắn, khoa học của hình thái KTXH và lý luận về khả năng “bỏ qua” một chế độ XH nhất định.

14


- Một HTKT-XH gồm 3yếu tố: LLSX, QHSX - CSHT, KTTT
- Cấu trúc HT KT - XH:
LLSX
NLĐ

QHSX
TLSX

ĐTLĐ

SHTLSX
TLLĐ

CCLĐ

TCQL SX
PPSX

PTSX
- Sự phát triển của các HTKTXH là quá trình lịch sử - tự nhiên:

+ Hình thức KT-XH vận động và phát triển theo những quy luật khách quan: là quá tŕnh pt từ thấp đến
cao, đơn giản đến phức tạp. Ở HTKT XH sau pt hơn trước
+ Đặc điểm quy luật xã hội và vai trò năng động của con người trong thúc đẩy các quy luật xã hội : gồm
các quy luật LLSX-QHSX-KTTT. Loogic pt LS từ thấp đến cao ban đầu pt LLSX đến mức độ nhất định
QHSX cũ mất xuất hiện QHSX mới ra đời, CSHT thay đổi làm cho KTTT thay đổi.
+ Khả năng bỏ qua HT KT – XH để tiến lên HT KT – XH cao hơn và những điều kiện cơ bản: sự pt lịch
sử có tính khu vực từ thấp đến cao do tính pt ko đều của từng QG sẽ ko tuần tự cho nên có thể bỏ qua1
hoặc 1 vài HTKT XH tiến lên HTKT XH cao hơn có 3 ĐK là:
ĐK1: HTKTXH bỏ qua trở nên lỗi thời lạc hậu
ĐK2: HTKTXH định tiến lên trở thành hiện thực và thể hiện rõ tính ưu việt của nó
ĐK3: giai cấp lãnh đạo XH có đủ khả năng quản lý và điều hành XH mới
+ Những tiền lệ lịch sử về bỏ qua HTKTXH để tiến lên HTKTXH cao hơn:
2. Về sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN của Đảng và nhân dân Việt Nam.(4 nội
dung)
- Lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc.
- Hạn chế không thể khắc phục của CNTB.
- Thành tựu của CNXH hiện thực; xu thế của lịch sử.
- Thành tựu cơng cuộc đổi mới và vai trị của Đảng cộng sản Việt Nam
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giúp chúng ta tiến lên CNXH
là Liên Xơ lúc đó đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta
cả về vật chất và tinh thần. Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra cho
chúng ta tấm gương khá sinh động về sự thành công và thất bại đã sâu sắc và chi tiết đến mức có thể từ đó
đưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng. CNXH bị khủng
khoảng và sụp đổ nhưng đó là sụp đổ mơ hình CNXH tập trung quan liêu bao cấp chứ không phải CNXH
với tư cách là 1 XH cao hơn CNTB. Còn đến ngày nay, xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế
giới đã đóng vai trị tích cực, khơng những làm cho quá độ bỏ qua CNTB là tất yếu mà còn đem lại điều
kiện và khả năng khách quan cho sự q độ này. Q trình quốc tế hố sản xuất, tồn cầu hố với sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo khả năng cho những nước kém phát triển đi sau
tiếp thu, vận dụng đưa vào nước mình lực lượng sản xuất hiện đại và kinh nghiệm của những nước đi
trước cũng như tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật hiện đại.


15


Điều kiện đó giúp chúng ta tranh thủ được cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.
Về khả năng chủ quan: Mọi thành công của chúng ta đạt được phải kể đến yếu tố quan trọng bậc
nhất là sự lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông vững chắc. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac –
Lênin ln ln nhấn mạnh vai trị của Đảng vơ sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong
việc thực hiện quá trình phát triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng thì ở Việt Nam, Đảng cộng
sản Việt Nam là một nhân tố có vai trị quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước .Và trong
công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những kết quả khả quan như: đã củng cố
và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Sự lựa chọn con đường quá
độ lên CNXH bỏ qua TBCN của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn của nhân dân ta. Các tầng lớp lao
động cơng nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau chiến đấu, hy sinh để
giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên minh chặt chẽ với
nhau và cùng với Đảng để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành cơng CNXH.
Ngồi ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu của thời kì q độ lên
CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo léo, dễ đào tạo, sẵn sàng đáp ứng được
yêu cầu của thời đại mới. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều
kiện hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nhân dân ta, dân tộc ta cũng đã hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc là áp bức bóc lột. Vì những lẽ đó,
Đảng tất yếu lãnh đạo tồn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát
triển TBCN.
Quá trình thực hiện ở nước ta hiện nay:
Để xác định con đường đi lên của mình, cụ thể trong điều kiện hiện nay chính là thực hiện sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì điều cần thiết là phải xuất phát từ thực trạng kinh tế xã
hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm LLSX và QHSX ở nước ta để lựa chọn đúng hình thức kinh tế
cho hiệu quả, xác định rõ những bước đi cụ thể theo mục tiêu đã chọn. Nghị quyết Trung ương 5 về văn
hoá và Nghị quyết Trung ương 6 (lần1) khoá VIII về kinh tế gần đây đã khẳng định cần phải đẩy mạnh

việc phát huy nội lực kinh tế, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, mạnh
dạn hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Đó chính là những nghị quyết sát thực với cuộc sống, đã
khuyến khích QHSX phát triển trên cơ sở phù hợp với trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung năm 2011) của Đảng đã
xác định 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, đó là:
- Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Nền SX phát triển cao dựa trên LLSX tiên tiến, hiện đại, chế độ cơng hữu về TLSX chủ yếu.
- Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
- Các dân tộc bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
- Quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Cương lĩnh vạch ra những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình thực hiện những đặc trưng của
CNXH trên đất nước ta. Những phương hướng đó vừa mang tính bảo đảm khơng chệch hướng XHCN,
vừa qn triệt tinh thần đổi mới cho phép không lặp lại những sai lầm cũ, tinh thần từng bước thực hiện
những đặc trưng của CNXH.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở VN, là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và
KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa LLSX TBCN, những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế

16


độ TBCN, như về khoa học và công nghệ, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt
Nam. Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu.
Cái thiếu lớn nhất của chúng ta là một nền đại cơng nghiệp. Cơng nghiệp hố phải gắn liền với hiện đại
hoá. CNH, HĐH ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH. Đó là nhiệm vụ trọng
tâm của trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta. Con đường CNH HĐH ở nước ta cần và có

thể rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt nhằm mục đích xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội (đi tắt đón đầu).
Kết hợp giữa phát triển LLSX với xây dựng QHSX phù hợp trong thời kỳ quá độ tiến lên xây
dựng CNXH ở Việt Nam. Từng bước xác lập QHSX phù hợp với sự phát triển của trình độ sản xuất. Xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung
của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX ở nước ta.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong
thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam. Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước thì phải khơng ngừng đổi mới hệ thống chính
trị. Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Câu 12: Trình bày quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về những nhiệm vụ chủ yếu của
thời kỳ quá độ đi lên CNXH?
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền
sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền
kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta
hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến
đổi. Điều này địi hỏi phải áp dụng tồn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một q trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng
làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất
phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các điểm sau:
+Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải

quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong Di chúc Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng toàn dân Việt Nam.
+Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng! Nhà nước, và nhân dân ta chưa có kinh
nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm
vừa học và có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh
đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
+Thứ ba sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước là luôn luôn bị các thế lực phản động trong và
ngồi nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ q độ. Hồ Chí Minh ln ln nhắc nhở cán hộ, đảng viên trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nơn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn Vấn đề cơ bản là

17


phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các
khâu trung gian, quá độ, luận tự từng bước, từ thấp lên cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận động xã hội, lại phải có nghệ
thuật khơn khéo cho thật sát với tình hình thực tế.
Câu 13: Cơ sở lý luận để xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay? Vận dụng ở nước ta
trong quá trình đổi mới?Tồn tại xã hội và ý thức xã hội. (Tính độc lập tương đối của YTXH. Ý
nghĩa của vấn đề trong xây dựng nền VHVN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc)
I. TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA YTXH. Ý NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN VHVN
* Khái niệm Ý thức xã hội: Ý thức xã hội là toàn bộ các lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm
tư tưởng, quan điểm cùng những tình cảm tâm trạng, truyền thống,.....của một cộng đồng xã hội, nẩy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội là vì:
1. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội: Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội thì khi tồn tại xã hội biến đổi sẽ tất yếu dẫn tới những sự biến đổi của ý thức xã hội. Tuy nhiên không
phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn tới sự biến đổi của ý thức
xã hội; trái lại, nhiều yếu tố của ý thức xã hội (trong đời sống tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể

cịn tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội đã sinh ra nó đã được thay đổi căn bản. Sở dĩ như
vậy là vì:
+ Do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ
có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác
động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức
không thể phản ánh kịp.
+ Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình
thái ý thức xã hội.
+ Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm; những tập đồn người, những giai cấp nhất định
trong lịch sử. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ
và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã
hội so với tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất
định, tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển
của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời
sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên suy đến cùng, khả năng vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc
vào tồn tại xã hội.
3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã
hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không
mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Do ý thức có tính kế thừa
trong sự phát triển, nên khơng thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ
kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư
tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật,…nhiều khi
không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.
4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng: Sự tác động qua
lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình thái ý thức xã hội có
những mặt, những tính chất khơng thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội. Lịch sử phát
triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có
những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.


18


5. Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội: Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê
phán quan điểm duy tâm, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh tế”.
Theo Ăngghen: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tơn giáo,… Đều dựa vào sự phát triển
kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh
hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính
chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tu tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ
tu tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ
mở rộng của tu tưởng trong quần chúng;…Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng
tiến bộ và tư tưởng ý thức phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
* Ý nghĩa của vấn đề này trong xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đềbức thiết. Xây dựng ý thức xã
hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sựlãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền
văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xâydựng ý thức xã hội mới, chúng ta cần phải
đẩy mạnh cơng mới, văn hố mới,con người mới; khơng ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng khoa
học,cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ýthức xã hội mới.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể,họ còn bị chi phối bởi quan điểm,
tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thốngcủa cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi
ý thức xã hộitiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân vàngược lại. Bởi
thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thứcxã hội mới và việc xây dựng ý thức xã hội
mới trở thành một nhiệm vụ củacơng cuộc xây dựng xã hội mới.
Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là tồn bộquan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm
trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủnghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương của Đảngvà Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộcxây dựng
xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phongphú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó
cịn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tìnhcảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng

xã hội.
Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đờisống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc cũng tiếp tục khẳngđịnh một số định lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề
này có thể khái quát lại trên một số điều cơ bản sau:
Thứ nhất: Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặtdưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Thứ hai: Xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xâydựng và phát triển nền văn tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoáthực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành
nền tảng tinh thầncủa xã hội
Thứ ba: Xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lýluận, tuyên truyền, giáo dục, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng
trở thành nềntảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Thứ tư: Xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặtchẽ giữa “xây dựng ” và “chống”.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nókhơng hình thành một cách tự phát
trong lịng xã hội cũ; nó cần được chủđộng nhận thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con
người trongxã hội mới, thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựngxã hội mới. Vì
vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu pháttriển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập. Trước hết, đó là tri thức,tình cảm, quyết tâm kiên định con đường xây dựng nền kinh tế thị
trườngđịnh hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cầntrang bị cho con người
những tri thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là những tri thức
về khoa học và cơng nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá trình xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng
với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọngcống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ
trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xâydựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát

19


huy lòngyêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đồn kết dân tộc; nâng cao ý thức phịngchống tham
nhũng, lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên. Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức
xã hội mới, cần chống nhữngbiểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó.

Xây dựng ý thức xã hội mới là q trình lâu dài, phức tạp, để có hiệuquả, chúng ta phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất: Đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hốmới, con người mới.
Thứ hai: Khơng ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoahọc, cách mạng, tiến bộ, đáp ứng
yêu cầu xây dựng xã hội mới, con ngườimới.
Thứ ba: Tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáodục, phát huy vai trị của các
phương tiện thơng tin đại chúng trong quá trìnhtuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Thứ tư: Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậytính chủ động, tự giác của cán bộ,
đảng viên và QCND
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG NỀN VHVN
* Cơ sở lý luận: Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tư tưởng văn hóa rất quan trọng trong
q trình đổi mới ở nước ta, bởi cả hai yếu tố này đều là những lĩnh vực của đời sống xã hội, giữa chúng
có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Đây chính là biểu hiện mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; giữa vật chất và ý thức.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế đã và đang tạo ra những
chuyển biến toàn diện và sâu sắc về văn hóa, xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra điều kiện thuận
lợi để nước ta phát huy ảnh hưởng tích cực của những giá trị truyền thống Việt Nam với bè bạn khắp năm
châu, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao tầm vóc của
mình trên trường quốc tế. Những thành quả văn hóa - xã hội trong đổi mới đang cổ vũ động viên nhân
dân ta ra sức phấn đấu để đạt tới mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
cũng làm nảy sinh nhiều hạn chế, yếu kém trong đời sống văn hóa. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra trạng thái dao động, hồi nghi, giảm sút lịng tin ở một số người, kể cả
một số cán bộ, đảng viên. Kinh tế thị trường kích thích khát vọng làm giàu, làm giàu bằng bất cứ giá nào,
lấy đồng tiền làm mục tiêu lớn nhất, dẫn đến nhiều kiểu làm ăn bất chính, với lối sống hưởng lạc, xa hoa,
lãng phí, với thái độ lạnh lùng, giả dối trong ứng xử. Nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội phát sinh đang làm xói
mịn đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh và quan hệ giàu tình nghĩa của dân tộc ta.
Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất hiện tâm lý sùng
ngoại, nhiều người đã chạy theo tâm lý thực dụng và cá nhân cực đoan, ích kỷ, hưởng lạc trong thế giới tư
bản. Họ ngộ nhận những giá trị văn hóa, coi thường những giá trị dân tộc, tiếp nhận xô bồ mọi thứ văn

hóa ngoại lai khơng phân biệt hay dở, tốt xấu. Đời sống văn hóa - nghệ thuật cịn nhiều bất cập, thiếu
vắng những tác phẩm lớn tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến; có hiện tượng phủ nhận
thành tựu văn học cách mạng, tách rời văn nghệ với chính trị, xu hướng thương mại hóa, chạy theo thị
hiếu thấp hèn...
Điều đáng quan tâm và nhức nhối, là sự suy thoái về tư tưởng và đạo đức, lối sống trong một bộ
phận khơng ít cán bộ có chức, có quyền. Tình trạng tham nhũng, hối lộ, sách nhiễu dân chúng, những
hiện tượng quan liêu, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của dân, không tôn trọng pháp luật đã diễn ra
khá nặng nề; việc chạy theo chức - quyền - danh - lợi, mua quan, bán chức, cơ hội, bè cánh, mất đồn kết,
lời nói khơng đi đơi với việc làm, khơng cịn là hiện tượng cá biệt, đã gây bất bình trong nhân dân, gây
tổn thương đến những giá trị văn hóa của CNXH.
Thực trạng trên đang đặt ra những yêu cầu mới và nặng nề trong q trình xác lập những giá trị
văn hóa mới, đấu tranh đẩy lùi những tiêu cực xã hội... xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc
văn hóa dân tộc với việc tiếp nhận văn hóa thế giới trong q trình mở cửa, hội nhập. u cầu đó địi hỏi
phải qn triệt sâu sắc di sản văn hóa Hồ Chí Minh. Tăng cường và đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng,

20


quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân đối với các hoạt động văn hóa, xã
hội, đồng thời tạo nên sự tham gia tích cực hơn nữa của tồn xã hội trong công tác này. Trước những yêu
cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi phải quan tâm sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu
khách quan.
* Vận dụng:
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới về kinh tế, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc: “Kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, tư tưởng văn hóa là nền tảng”. Quan
điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn
xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt q trình lãnh đạo của Đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại
hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát
triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo tồn dân xây dựng là nền văn
hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã ra nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội".
Tháng 7-2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Kết luận Về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục
phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội”.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những yêu cầu cấp thiết
để tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho việc triển khai các nghị quyết của Đảng
về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa
những quan điểm và thành tựu lý luận này để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 2020.
Câu 14: Phân tích tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên
CNXH. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam hiện nay?
* Đảng ta luôn xác định rằng, ở nước ta vẫn còn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đảng ta chỉ khẳng định
trong ĐK mới hiện nay, không được cường điệu cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt rè, không dám đổi
mới; đồng thời, không được coi nhẹ, xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác.
- ĐTGC là không thể tránh khỏi trước hết là cuộc ĐT giữa một bên là QCND, các lực lượng XH đi theo
con đường XHCN vì mục tiêu dân giàu nước mạnh XH cơng bằng văn minh, và một bên là thế lực, tổ

chức phần tử chống độc lập dân tộc và CNXH chống lại nhà nước phá hoại Đảng, gây rối trật tự XH.
- ĐTGC cịn được thể hiện đó là cuộc ĐT giữa hai con đường CNXH và TBCN đây là cuộc ĐT giữa các
nhân tố thúc đẩy đất nước theo hướng TBCN với những nhân tố thúc đẩy đất nước theo định hướng
XHCN.

21


- Ngày nay, lợi ích cơ bản, lâu dài của các giai cấp trong cộng đồng Việt Nam thống nhất với lợi ích dân
tộc; cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự nghiệp bảo vệ
độc lập dân tộc, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Trong giai
đoạn hiện nay, khi các lực lượng thù địch trong nước và trên thế giới ln tìm cách ngăn cản, phá hoại
cuộc cách mạng của nhân dân ta, không phải ai cũng nhận thức đúng và tự giác phấn đấu vì mục tiêu trên.
Cho nên, nếu khơng đấu tranh quyết liệt với các lực lượng ngăn cản việc thực hiện mục tiêu đó thì khơng
thể biến mục tiêu thành hiện thực.
* Nội dung chủ yếu của ĐTGC trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH_HĐH đất
nước khắc phục nước nghèo, thực hiện công bằng XH chống áp bức bất công, ĐT với những tư tưởng và
hành động tiêu cực, ĐT làm thất bại các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc
xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh hạnh phúc.
* Vai trò của quân đội đối với đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là tất yếu lịch sử, là vấn đề có tính quy luật
trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
- Phối hợp các lực lượng làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hịa bình", gây bạo loạn lật đổ; ngăn
chặn, xử lý kịp thời và có hiệu quả các hành vi xâm phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia, thật sự là lực
lượng nòng cốt cùng toàn dân giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân, thành quả cách mạng và chế độ Xã hội chủ nghĩa, giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước.
- Quân đội tham gia tích cực và có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động xóa
đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị địa phương, đời sống văn hóa mới, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; là lực lượng chủ lực trong phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai,

cứu hộ, cứu nạn, rà phá bom, mìn, khắc phục hậu quả chiến tranh... Có thể nói, ở đâu có khó khăn, nguy
nan, thì ở đó có Qn độ
Câu 15: Cơ sở lý luận và nội dung của việc xây dựng và phát huy nguồn lực con người nước
ta hiện nay?( Quan điểm của CN M-L về bản chất con người, quan điểm của ĐCSVN về phát huy
nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước)
* Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của triết học Mác về bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Là thực thể sinh vật vì
con người dù phát triển đến đâu cũng là một động vật và cũng như mọi động vật khác con người là một
bộ phận của tự nhiên, con người phải đấu tranh để tồn tại phải ăn uống phải sinh con đẻ cái, con người
cũng tuân theo các quy luật sinh học. Là thực thể xã hội: vì các hoạt động xã hội trước hết và quan trọng
nhất là HĐ LĐSX làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Đề cập đến mặt XH của
con người là lao động sáng tạo, có tình cảm, đạo đức, tâm tư, nguyện vọng, xúc cảm thẩm mỹ, điều này
con vật khơng thể có được. Yếu tố xã hội quyết định hình thành bản chất con người, vì vậy cần tạo mơi
trường, cơ chế để con người phát huy bản chất. Như vậy con người không phải là động vật thuần tuý mà
là động vật XH, một thực thể SVXH và thực thể SV, thực thể XH khơng tách rời nhau hồ quyện vào
nhau tạo lên một cấu trúc hoàn chỉnh của con nguời. Trong đó thực thể SV là tiền đề mà trên đó thực thể
XH tồn tại và phát triển, thực thể XH chính lả đặc trưng bản chất để phân biệt con ngưới với con vật.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Con người vượt
lên thế giới loài vật trên cả 3 phương diện khác nhau : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ
với chính bản thân con người. Cả 3 mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ
xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác.
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể của lịch sử. Con người là sản phẩm của lịch
sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, song điều quan trọng hơn là con người luôn là chủ thể của
LS xã hội. Mỗi con người sống trong điều kiện lịch sử bị điều kiện khách quan quy định con người mang
dấu ấn của thời đại đó, đồng thời con người là chủ thể của LSXH, thông qua hđ TT con người tác động
vào thế giới, cải tạo thế giới… Thúc đẩy sự phát triển của XH từ thấp đến cao và như vậy trong quá trình

22



cải biến tự nhiên con người cũng làm ra lịch sử của mình. Như thế vai trị tích cực của con người ở chủ
thể sáng tạo.
* Nội dung:
Đảng ta luôn quan tâm vấn đề phát huy nhân tố con người, coi con người là mục tiêu, nhân tố
quyết định CNH – HĐH đất nước. Đảng ta khẳng định: nguồn lực q báu nhất, có vai trị quyết định
nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng XHCN như Việt
Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người. Trong
bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc
chúng ta có tranh thủ tận dụng thành cơng những thuận lợi, những cơ hội và vượt qua những thách thức,
khó khăn mà q trình đó đặt ra hay khơng phụ thuộc chủ yếu vào việc phát huy nhân tố con người, vào
chất lượng nguồn nhân lực. Đảng ta đã nhận thức một cách đúng đắn về chiến lược con người và khẳng
định bằng nghị quyết, chủ trương, chính sách thật sự coi trọng con người và coi con người là nhân tố có
tính quyết định để xây dựng thành cơng xã hội mới.
Hiện nay Đảng ta xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể
của chiến lược phát triển. Phát triển nhân tố con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Để xây dựng và phát huy nguồn lực con người, cần tiến hành một số vấn đề sau đây :
Giải quyết hài hồ mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Xây dựng và thực hiện
chính sách xã hội đúng đắn, phù hợp với lợi ích của con người. Lấy con người làm mục tiêu của sự phát
triển, mọi sự phát triển đều xoay quanh con người. Có cơ chế, chính sách nhằm phát huy vai trị của yếu
tố con người, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng ta đã chỉ ra: “...kết hợp tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi
ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hồ các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực
con người là cơ bản nhất của sự nghiệp Cơng nghiệp hố – Hiện đại hố...”.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con
người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề, tạo công ăn việc làm.
Xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh, đảm bảo cuộc sống an toàn cho con người, ngăn
chặn những hành vi vi phạm tới quyền, lợi ích của cơng dân, đảm bảo cho cơng dân thực sự là người làm
chủ xã hội. Tạo ra một môi trường công bằng dân chủ để phát huy sự sáng tạo của con người.
Thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, quan tâm đến vấn đề đổi mới giáo dục

đào tạo, giáo dục đào tạo cùng khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Xây dựng và thực hiện giá trị, thang bậc giá trị người lao động về đạo đức, nhân cách, trí tuệ
người lao động. Đảng ta khẳng định : “...nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước...”.
Câu 16: Trình bày mối quan hệ giữa triết học và các khoa học? Vai trò của triết học Mác -Lê
nin đối với khoa học hiện đại?
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học là mối quan hệ hai chiều, nghĩa là, triết học và các khoa học đều
có tác động biện chứng lẫn nhau. Nếu như sự tác động của triết học đến khoa học có thể chia thành những
giai đoạn và mỗi giai đoạn có những hình thức nhất định, thì ngược lại, sự tác động của khoa học đến sự
phát triển của triết học không phải khi nào cũng rõ ràng và có khuynh hướng rõ rệt. Từ chỗ lúc đầu là một
sự hòa trộn đan xen giữa tri thức khoa học và triết học, dần dần là sự tách ra của khoa học và sau đó, khoa
học bắt đầu ảnh hưởng đến sự phát triển của triết học.
Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học
- Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được phản ánh trong ý thức ngun thủy
của lồi người dưới hình thức thần thoại.(*)Trong thần thoại bên cạnh niềm tin vào các lực lượng thần
thánh, siêu tự nhiên, thì các vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới có một vị trí đáng kể. Triết học và
thần thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích thế giới. Thực chất triết học cũng tìm cách trả lời cho các

23


vấn đề mà trước đó đã được đặt ra trong thần thoại, nhưng bằng một phương thức khác. Triết học là sự
phân tích lý luận các vấn đề ấy dựa trên lơgíc, các tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch
sử, sự ra đời của triết học trùng hợp với sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên của tri thức khoa học, với
sự hình thành nhu cầu nghiên cứu lý luận. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy
Lạp cổ đại khi mới hình thành khơng độc lập với các tri thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với
chúng để hình thành nên mơn khoa học tổng hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là
các nhà khoa học, như Thalets, Pithagore,... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem
xét thế giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị đẩy xuống vị trí
thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Triết học tự nhiên thịnh hành ở phương Tây vào lúc khoa học thực

nghiệm chưa phát triển, khơng đủ để tìm ra quy luật của các hiện tượng tự nhiên. Chính vì vậy mà trên
thực tế, triết học tự nhiên là dòng triết học mang tính tư biện (speculation): Những giải thích của nó về thế
giới chủ yếu là dựa trên những phỏng đoán và giả định. Nhưng bắt đầu từ thời Phục hưng và đặc biệt là
trong các thế kỷ XVII - XVIII, sự phát triển của khoa học, nhất là các khoa học tự nhiên ngày càng diễn
ra nhanh chóng. Mối quan hệ triết học - khoa học có sự đổi chiều. Khoa học tự nhiên từ chỗ phụ thuộc, bị
dẫn dắt bởi triết học, thì giờ đây, nó độc lập trong lĩnh vực nghiên cứu của mình, hơn nữa cịn tác động
quyết định đến khuynh hướng phát triển của triết học và phương pháp tư duy. Chính sự thay đổi này đã
tạo ra tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng (posistivism) tuyên bố rằng,
chỉ có các khoa học cụ thể mới cần thiết, đem lại các tri thức tích cực (positive), cịn triết học thì khơng.
Chính xác hơn, chủ nghĩa thực chứng thừa nhận trong quá khứ, khi mà các khoa học còn chưa phát triển
đầy đủ, thì triết học từng đóng vai trị tích cực là khoa học bao trùm, tổng hợp mọi tri thức, thậm chí là
“khoa học của các khoa học”. Nhưng khi các khoa học lần lượt xuất hiện và trưởng thành, đem lại một
khối lượng tri thức khổng lồ thì triết học dần đánh mất vai trị lịch sử của mình. Số phận của triết học thật
trớ trêu, chẳng khác gì King Lear - nhân vật văn học của Shakespeare, người chia toàn bộ vương quốc và
tài sản to lớn của mình cho các con đã trưởng thành để rồi trở thành trắng tay và bị đuổi ra đường.
- Khơng nghi ngờ gì nữa, kể từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa học đến triết học càng ngày
càng rõ rệt. Theo dõi sự phát triển của khoa học trong thời kỳ này, chúng ta thấy rằng q trình phân
ngành diễn ra nhanh chóng: Cơ học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý, thiên văn học,... lần lượt trở
thành các khoa học độc lập. Mỗi một khoa học tự xác định cho mình đối tượng nghiên cứu riêng. Giới tự
nhiên được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở thành đối tượng của những nghiên cứu độc lập.
Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa học, khi mà nhiệm vụ chủ yếu
là phải sưu tập, tích lũy các tài liệu. Nhưng phương pháp được coi là cần thiết và chính đáng ấy của khoa
học tự nhiên cũng đã ảnh hưởng đến và in dấu lên tư duy triết học đương thời - phương pháp tư duy siêu
hình. Mặt khác, trong các khoa học tự nhiên thời bấy giờ, chỉ có cơ học là mơn khoa học được coi là đạt
đến mức độ hoàn thiện nhất định và vì thế, tư duy cơ học máy móc cũng đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến
triết học. Chúng ta có thể nói rằng, trong thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa học tự nhiên đã có ảnh
hưởng quyết định đến sự phát triển của triết học. Mỗi bước tiến mới của khoa học đều bằng cách này hay
cách khác tác động lên xu hướng phát triển và tư duy của triết học.
- Như đã biết, một trong các tiền đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng là trạng thái và các thành tựu của
khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Khác với các thế kỷ trước đó, khoa học tự nhiên trong thế kỷ XIX đã

khơng cịn là khoa học sưu tập nữa. Những gì nó tích lũy được trong thời kỳ trước đã cho phép nó có thể
sắp xếp, tổng hợp lại. Và nhiệm vụ này đến lượt nó, khiến người ta phải chú ý nhiều hơn tới những mối
liên hệ vốn có của bản thân giới tự nhiên: Sự thống nhất của thế giới tự nhiên, sự vận động và phát triển
nội tại của nó. Các phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX trong các lĩnh vực vật lý và sinh
vật, như định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, thuyết cấu tạo tế bào và thuyết tiến hóa của các
lồi, đã chứng minh trên những nét cơ bản và đem lại một cái nhìn duy vật biện chứng về thế giới tự
nhiên. “Nhờ ba phát hiện vĩ đại đó và nhờ các thành tựu khác của khoa học tự nhiên...”([1]), mà giờ đây
đã có thể có được “một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới một hình thức gần như có
hệ thống”([2]). Trước kia việc cung cấp một bức tranh bao quát như vậy là nhiệm vụ của triết học tự
nhiên. Triết học tự nhiên, như chúng ta đã đề cập trên, là khuynh hướng triết học có từ thời kỳ cổ đại và
tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau đó, khi mà các khoa học tự nhiên cịn chưa phát triển. Vì vậy,
triết học tự nhiên đã thay thế những những mối liên hệ hiện thực, chưa biết bằng những mối liên hệ tưởng
tượng, hư ảo, thay những sự kiện cịn thiếu bằng những giả định, phỏng đốn, thậm chí gán ghép cho tự

24


nhiên nhiều sự tưởng tượng hư ảo kỳ quái. Khi làm như thế triết học tự nhiên đã có nhiều tư tưởng thiên
tài, dự đoán trước được nhiều phát hiện sau này đồng thời cũng đưa ra nhiều điều vô lý, nhưng khơng thể
nào khác được. Ngày nay thì khác. Những thành tựu quan trọng của khoa học tự nhiên đã cung cấp cho
chúng ta những bằng chứng chứng minh rằng giới tự nhiên là thống nhất. Ngày nay, một bức tranh bao
quát về những mối liên hệ không những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà còn giữa các lĩnh vực hầu như
của toàn bộ giới tự nhiên, được rút ra chủ yếu từ những kết quả nghiên cứu do các khoa học tự nhiên đem
lại. Trong những điều kiện như vậy, thì một thứ triết học tự nhiên đứng ngoài và đứng trên các khoa học
là hoàn toàn không cần thiết. Mọi ý định khôi phục triết học tự nhiên của các triết gia khơng cịn phù hợp
nữa, thậm chí, theo Ph.Ăngghen, phải coi ý định đó là “những bước thụt lùi”(3).
- Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là trực tiếp và theo đường thẳng, mà là
gián tiếp tạo ra bầu khơng khí tinh thần cho phép hình thành một kiểu tư duy, một cái nhìn tương ứng với
trạng thái đạt được của khoa học về thế giới. Thông qua những tri thức và phát minh khoa học, các khái
niệm, các phạm trù triết học có thêm những nội dung mới. Chẳng hạn, thuyết nhật tâm của Copernicus

khẳng định rằng, trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ, thì rõ ràng nó đã giáng một địn chí mạng
vào Kitô giáo, mở đầu cho thời kỳ mới của khoa học tách khỏi tôn giáo và thần học. Thuyết tiến hóa của
Darwin đưa đến kết luận rằng, các lồi động vật, thực vật không phải ngẫu nhiên, được sự sáng tạo bởi
những lực lượng thần thánh siêu tự nhiên, mà là kết quả của một q trình hồn tồn do các lực lượng tự
nhiên chi phối. Kết luận đó là một quan điểm của triết học duy vật. Thuyết tương đối của Einstein một
phát minh vạch thời đại. Tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với không gian và thời gian làm cho làm
cho thuyết tương đối mang ý nghĩa duy vật sâu sắc.
Vai trò triết học Mác-Lenin đối với sự phát triển khoa học hiện đại
- Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri thức hiện đại cùng với
xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu là xu hướng ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp
nhiều khoa học thành một hệ thống thống nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại
không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của các ngành khoa học truyền thống thành các khoa học mới như lý hóa,
hóa lý, sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà cịn là sự xích lại gần nhau của các ngành khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Chính xu hướng liên kết này của các khoa học cho
phép các nhà nghiên cứu đưa ra một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm kiếm một cơ sở phương
pháp luận chung thống nhất, khắc phục tính chất phân tán manh mún của các khoa học chuyên ngành, xác
lập cơ sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, triết học đóng vai trị là hạt nhân lý luận kết
nối các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp luận đem lại khả năng thâm nhập vào các q trình
này một cách chủ động và tích cực.
- Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một quá trình phát triển lâu dài. Mối quan hệ ấy không đơn
giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành một trong những “vấn đề triết học”, nghĩa là xung
quanh nó ln tồn tại những quan điểm khác nhau. Có thể thấy hai quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ
nhất, tuyệt đối hóa vai trị của triết học, hạ thấp, coi thường vai trò của các khoa học. Quan điểm thứ hai,
tuyệt đối hóa vai trị của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học. Cả hai quan điểm này
thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch sử
triết học và khoa học mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy về mối quan hệ
giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình – lối tư duy, mà xét trong những điều kiện
nhất định có thể được coi là chính đáng, cần thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ qt thì nó bộc lộ những
hạn chế nhất định.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về mối quan hệ giữa

triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là mối quan hệ biện chứng, thống nhất
của các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ này nằm ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát triển cụ thể mà
mặt này hay mặt kia nổi trội, tác động của mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo một hướng duy nhất.
Các kết luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó
phụ thuộc vào lý luận nhận thức của các nhà khoa học được định hướng bởi thế giới quan triết học nào.
Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, những phát minh mới của khoa học tự nhiên, như
phát hiện ra tia X, hiện tượng phóng xạ, điện tử,... đã làm bộc lộ những hạn chế của bức tranh cũ về thế

25


×