Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học vai trò của triết học mác – lênin trong nhận thức và hoạt động thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.51 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

THU HOẠCH
MƠN: TRIẾT HỌC

VAI TRỊ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG NHẬN
THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN

Họ và tên học viên:
Mã số học viên:
Lớp:
Khóa học:

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.1.
Triết học
1.2.
Triết học Mác - Lênin
II.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG
NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
2.1.
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong nhận thức


2.2.
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong hoạt động thực tiễn
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
2
2
2
3
5
5
8
15
16


3
MỞ ĐẦU
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một
thời gian tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc,
Ấn Độ, Hy Lạp. Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng
mình khác với mọi khoa học cụ thể, nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và
tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Nghiên cứu khái
niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được Triết học là hệ thống
tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con
người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới
quan, giữ vai trị định hướng cho q trình củng cố và phát triển thế giới quan
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.

Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình
thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai
phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình
và phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện
chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Với chức năng thế giới quan và
phương pháp luận, Triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng trở
thành cơng cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải
phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ. Triết học Mác - Lênin
ngày càng khẳng định vai trò to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Do đó, nghiên cứu vấn đề “Vai trò của triết học Mác - Lênin trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn” làm chủ đề thu hoạch có ý nghĩa quan trọng.


4
NỘI DUNG
I. TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản
của con người. Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào
khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ III (TCN).
Ở phương Đông: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là
“trí”, là cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học
thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao. Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là
darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý
trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải [1, tr.167].
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hóa
là Philơsơphia - nghĩa là u mến, ngưỡng mộ sự thơng thái. Như vậy
Philơsơphia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm
kiếm chân lý của con người.
Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái

cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thơng thái có khả năng tiếp cận chân
lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. Có nhiều cách định nghĩa
khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là: triết học nghiên
cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự
vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội lồi người, của con người
trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống
dưới dạng duy lý. Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người
trong thế giới đó.
Nguồn gốc của triết học: Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức
của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống
tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện
của xã hội lồi người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.


5
Nguồn gốc nhận thức: Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật
hiện tượng mn hình mn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới
bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và
phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tn theo quy
luật nào khơng?... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái qt và tính trừu
tượng cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy
trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết,
các lý luận.
Nguồn gốc xã hội: Lao động đã phát triển đến mức có sự phân cơng lao
động thành lao động trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai
giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nơ lệ. Giai cấp
thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất
hiện đã tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai

cấp, những lực lượng xã hội nhất định [2, tr.190].
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia
chúng chỉ có tính chất tương đối.
1.2. Triết học Mác - Lênin
Do nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải tìm cách thích nghi và
cải tạo thế giới. Chính vì vậy, con người ln ln phải tìm hiểu về thế giới
xung quanh và tìm hiểu bản thân mình. Q trình tìm tịi, giải đáp các vấn đề
nói trên ln ln diễn ra trong tiến trình lịch sử, đã hình thành và phát triển
nên những quan niệm nhất định về thế giới và con người. Kể từ khi xã hội
phân chia giai cấp, có sự tách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc,
triết học với tính cách là một hình thái ý thức xã hội mới thực sự xuất hiện.
Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con
người trong thế giới đó.
Lịch sử triết học có nhiều cách trả lời khác nhau đối với các vấn đề của
thế giới xung quanh ta, nhưng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là
duy vật hoặc duy tâm; hai phương pháp nhận thức chính là biện chứng hoặc


6
siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học cũng chính là sự phát triển của
trình độ quan điểm nhận thức, của phương pháp tư duy nhân loại thông qua
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương
pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Đây cũng là sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập, tạo nên động lực bên trong của sự phát triển tư tưởng triết học
nhân loại.
Sự xuất hiện triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại trong
lịch sử triết học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết
học và khoa học của nhân loại, là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan
điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và

phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng.
Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã hội.
Trong triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất
hữu cơ với nhau. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là
hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là
hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biên
chứng duy vật.
Triết học Mác - Lênin ra đời là kết quả của sự kế thừa và phát triển
những thành tựu của tư duy triết học nhân loại. Đồng thời, là kết quả của sự
khái quát hoá những thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin trở thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của lực lượng vật chất - xã hội
năng động và cách mạng nhất tiêu biểu cho thời đại ngày nay là giai cấp công
nhân để nhận thức và cải tạo xã hội.
Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin đang đứng ở đỉnh cao
của tư duy triết học nhân loại, là hình thức phát triển cao nhất của các hình


7
thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự phát
triển thế giới, đã và đang phát triển giữa dòng văn minh nhân loại.
II. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG NHẬN
THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
2.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong nhận thức
Vai trò thế giới quan của triết học: Tồn tại trong mối quan hệ với thế
giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới
và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần

dần hình thành nên thế giới quan.
Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của
con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định
mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.
Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng
thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm
cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế
giới quan của triết học.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế
giới quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trị là nền tảng
thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết
học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai
cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.
Triết học Mác Lênin vừa có chức năng thế giới quan vừa có chức năng
phương pháp luận bởi vì mỗi quan điểm của triết học đồng thời là một nguyên
tắc trong việc xác định phương pháp. Hệ thống các quan điểm triết học Mác
Lênin đem lại cho con người hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận như
nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể,
nguyên tắc phát triển, nguyên tắc thực tiễn… Triết học Mác Lênin là thế giới


8
quan và phương pháp luận khoa học bởi vì thực chất của nó là sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Đặc điểm này làm cho chủ nghĩa
duy vật mang tính triệt để và phương pháp biện chứng trở thành lý luận khoa
học. Nhờ đó triết học Mác - Lênin phản ánh đúng đắn về thế giới, nó trở thành
“cơng cụ nhận thức vĩ đại” cho con người [3, tr.178].

Nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình
trau dồi các quan điểm, các phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực tư duy
sáng tạo của mình, phịng tránh những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và của
phương pháp tư duy siêu hình. Tuy nhiên khơng có nghĩa là chỉ nắm vững lý
luận Mác - Lênin là sẽ giải quyết được các vấn đề của cuộc sống đặt ra. Muốn
tránh được chủ nghĩa giáo điều, con người cần phải có nhiều tri thức của các
khoa học cụ thể và các tri thức từ chính hoạt động thực tiễn đem lại để con
người có thể vận dụng một cách đúng đắn thế giới quan và phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Đối với các khoa học khác, Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan
và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển các khoa học. Nó định hướng
cho các khoa học khác trong việc xác định cơ sở lý thuyết của bộ môn, giúp
cho các khoa học khác khái quát những thành tựu của mình. Ngược lại các
khoa học khác cung cấp tài liệu cho triết học. Do vậy cần phải có sự hợp tác
chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học
để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức thế giới của con người.
Do vậy: Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan
tích cực giúp cho con người sáng tạo trong hoạt động. Thế giới quan sai lầm
làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. Việc nghiên
cứu triết học giúp ta định hướng hồn thiện thế giới quan.
Vai trị phương pháp luận của triết học: Phương pháp luận là lý luận về
phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính ngun tắc chỉ đạo việc tìm tịi,
xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Triết học thực hiện chức
năng phương pháp luận chung nhất. Tri thức triết học là hệ thống tri thức
chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế giới, nghiên cứu các qui


9
luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mỗi luận điểm triết học
đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về

phương pháp. Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận
chung nhất, trở nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế
phát triển chung.
Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển
tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin khơng phải là một đơn thuốc vạn năng
có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và
hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa học
cụ thể và kinh nghiệm hoạt động xã hội.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không được xem thường hoặc
tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận
triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động,
sáng tạo trong cơng tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp
luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi
dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng sẽ giúp mỗi người tránh được
những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tóm lại, Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù
tồn tại ở phương Đông hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu,
trường phái rất khác nhau, nhưng nội dung cất lõi của triết học bao giờ cũng
bao gồm những quan điểm lý luận chung nhất, những lời giải đáp có luận
chứng (dù được tán thành hay khơng được tán thành) cho những câu hỏi của
con người về thế giới xung quanh mình, về vị trí của con người trong thế giới
đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên và với bản thân con người.
Trong triết học, người ta ln tìm thấy những biện luận, phán xét suy tư,


10
những băn khoăn, trăn trở cùng những lời giải đáp cho các câu hỏi về số phận
của cá nhân con người trước thiên nhiên bao la, về nguồn gốc cùng những bí

ẩn của thiên nhiên bao la ấy, những sức mạnh, những lực lượng chi phối nó và
chi phối cuộc sống của chính bản thân con người, về cuộc sống và cái chết
của họ... Những lời giải đáp ấy, dù là khác nhau trong các hệ thống, trào lưu,
trường phái triết học khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất định về
thế giới mà trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống,
trào lưu, trường phái triết học đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một
nhiệm vụ là lý giải về thế giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải
ấy, triết học trở thành cái đinh hướng cho con người trong hành động. Khi trở
thành cái định hướng cho con người trong hành động, triết học thực hiện một
chức năng khác - chức năng phương pháp luận.
2.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong hoạt động thực tiễn
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cả dân tộc Việt Nam. Đó khơng
phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên của Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta, mà đó là
một tất yếu lịch sử, bởi tính cách mạng và khoa học của học thuyết Mác Lênin. Khơng những thế, ngày nay, nó càng có vai trị quan trọng trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
Thế giới ngày nay đang diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc, đã và
đang bị chi phối bởi xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền
kinh tế tri thức đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế
đến chính trị, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh... Trong bối cảnh biến động khơn lường, đặc biệt phức tạp ấy,
vai trị của triết học Mác - Lênin không hề bị suy giảm, mà trái lại, ngày càng
thể hiện rõ hơn vai trò nhận thức và cải tạo thế giới to lớn của mình. Vì vậy,
tất cả các quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển khơng thể khơng tính
đến những thời cơ, vận hội và những thách thức to lớn do tồn cầu hóa, hội


11
nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức đem lại. Hơn thế nữa, để tồn tại, phát

triển và phát triển ổn định, bền vững, khơng bị hịa tan, chệch hướng trước xu
thế tồn cầu hóa, tất cả các quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam, cần phải
phát triển khoa học và công nghệ hiện đại, giáo dục và đào tạo tiên tiến để đẩy
nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn vậy, triết học
phải góp phần phát huy nhân tố con người, khơi dậy tiềm năng vô tận của họ
là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng, mang ý nghĩa quyết định
thành công trên con đường xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Triết học Mác - Lênin là khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng, không thể đứng ngồi cuộc mà phải
góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực hiện có. Trên cơ sở đó, triết học nước ta trong kỷ ngun tồn cầu
hóa cần có những nghiên cứu hết sức cơ bản để vạch ra những định hướng lớn
mang tầm chiến lược nhằm phát triển đất nước đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa với những bước đi thích hợp cho mỗi giai đoạn, thời kỳ; đảm bảo cho
đất nước phát triển bền vững chứ không phải phát triển bằng mọi giá.
Trước tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh
tế tri thức, bộ mặt thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đang vận động, biến
đổi từng ngày. Nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta chưa bao giờ lại
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn như vậy. Xu hướng tồn
cầu hóa, trong đó có tồn cầu hóa về văn hóa, giáo dục và đào tạo đang diễn
ra gay gắt, buộc các cấp có thẩm quyền và cả đội ngũ cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy triết học phải xem xét, rà soát lại tổng thể mọi vấn đề từ nghiên cứu
cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, tuyên truyền, phổ biến tri thức triết học đến
chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giảng dạy, biên soạn giáo
trình, tài liệu dạy học môn triết học theo phương pháp truyền thống hay hiện
đại để đổi mới cho phù hợp, đạt hiệu quả. Trong thời điểm mang tính chất
bước ngoặt hiện nay, đổi mới chương trình, nội dung nghiên cứu, phương



12
pháp giảng dạy triết học là một tất yếu khách quan, song đổi mới như thế nào,
đổi mới cái gì, rất cần phải cân nhắc cẩn trọng và có những quyết định sáng
suốt, chính xác để khơng bị chệch hướng chính trị và đạt hiệu quả cao nhất.
Trong q trình đổi mới, cần khẳng định rõ lập trường, quan điểm có tính
ngun tắc: triết học Mác - Lênin là hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân, là thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta; là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng
Việt Nam.
Trình độ tư duy thấp kém, tư duy giáo điều hoặc sai lầm dưới các dạng
khác nhau đều không thể thúc đẩy sự phát triển, trái lại, còn kiềm hãm, cản
trở sự phát triển của tất cả các lĩnh vực thuộc đời sống xã hội. Vì thế, ngay từ
năm 1878, Ph.Ăngghen đã nhắc nhở chúng ta rằng, “một dân tộc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” [3,
tr.389]. “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng
lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hồn thiện, và
muốn hồn thiện nó thì cho đến tận ngày nay, khơng có một cách nào khác
hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [4, tr.394].
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, chịu sự tác động
gay gắt của tồn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,
nếu vẫn cứ tiếp tục lối mòn của phương pháp tư duy lạc hậu, áp đặt chủ quan,
duy ý chí hoặc siêu hình, tức là khinh thường phép biện chứng duy vật thì
điều đó cũng đồng nghĩa là chúng ta “dậm chân tại chỗ”, “tự trói buộc mình”,
khơng thể bàn chuyện vượt lên phía trước. Tình trạng đồng nhất mơn Triết
học với giáo dục chính trị đã được khắc phục ít nhiều trong những năm đổi
mới đất nước và nó đã đạt được những kết quả nhất định, nhất là sau khi triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII của Đảng về đổi mới giáo
dục và đào tạo.

Tuy nhiên, thời gian gần đây, căn bệnh “khinh thường triết học” lại có
biểu hiện tái phát và có xu hướng nặng nề hơn trước nhiều lần. Điều đáng sợ
là người ta đã từng bước loại bỏ triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của


13
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đến mức “khinh thường” nó. Điều đáng sợ
hơn là hiện nay thế hệ trẻ thờ ơ với “Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin” đang được dạy học tại các trường cao đẳng, đại học ở nước ta. Việc cắt
xén, thu gọn nội dung, giảm đến mức tối đa số giờ lên lớp... đến mức biến
Triết học Mác - Lênin thành những nguyên lý cứng nhắc, khó hiểu, chẳng có
cội nguồn, gốc rễ đã làm cho thế hệ trẻ và không ít người đã hiểu không đầy
đủ về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng lý
luận và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Việc “coi thường, khinh thường” triết học đã được Ph.Ăngghen chỉ ra
rằng: Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng, họ thoát ra khỏi triết học bằng
cách khơng để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì khơng có tư duy thì
khơng thể tiến lên một bước nào, và muốn tư duy thì họ cần có những phạm
trù lơgic... Vì vậy, những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là nơ lệ của
những tàn tích thơng tục hóa, tồi tệ nhất của những triết học tồi tệ nhất. Cho
nên, dù ai có làm gì đi chăng nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Đối với
chúng ta, sống trong một thế giới phẳng đầy biến động khôn lường như hiện
nay, chúng ta khơng chỉ cần có tri thức tổng hợp liên ngành, đa ngành mà điều
quan trọng hơn là phải biết lựa chọn những tri thức nào cho phù hợp với đời
sống đương đại. Vì thế, biết phê phán, biết xác định giá trị, dám nghi ngờ,
dám tìm tịi, sáng tạo để rút ra chân lý, có phát kiến mới, thiết thực, hiệu quả
thật sự là điều cuộc sống địi hỏi, cần thiết. Muốn vậy, mỗi người khơng có
cách nào khác là nắm vững chắc tri thức triết học, đặc biệt là lịch sử triết học
mácxít và phép biện chứng duy vật - phương pháp nhận thức, tư duy thật sự
khoa học, cách mạng làm hành trang, vốn liếng để phân tích, luận giải đúng
đắn bản chất mọi vấn đề phát sinh và cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả.

Thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và những thành
tựu mà chúng ta đạt được trong những năm qua đã chỉ ra rằng: xây dựng và
phát triển nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp là làm theo sự áp đặt chủ
quan, duy ý chí, là bất chấp quy luật khách quan, khơng phù hợp với thực
tiễn. Những sai lầm đó có nguồn gốc sâu sa, bắt nguồn từ phương pháp tư duy


14
siêu hình hoặc “lây nhiễm nặng” quan điểm duy tâm, tơn giáo. Điều đó cũng
có nghĩa là đã mắc bệnh coi thường, nhận thức chưa đúng, chưa trúng và vận
dụng sai lầm các nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật nói riêng,
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, cả C.Mác và V.I.Lênin đều
khẳng định rằng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện
chứng, trong đó, lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định đối với quan hệ
sản xuất. Thế nhưng, do nhận thức chưa đầy đủ quy luật này, lại rơi vào chủ
quan duy ý chí, nóng vội, mong muốn có ngay chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã
mắc sai lầm nghiêm trọng khi quyết định đưa quan hệ sản xuất đi trước một
bước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc làm đó là hồn
tồn trái với quan điểm của C.Mác và V.I.Lênin, là làm cho quan hệ sản xuất
“đi trước” không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sai
lầm đó đã được Đại hội VI của Đảng kết luận mang tính triết học sâu sắc
“phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật khách quan” [5,
tr.154]. Nhờ đó, chúng ta đã tiến hành đường lối đổi mới tồn diện đất nước.
Đó là cơ sở để chúng ta xây dựng lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Rõ ràng là, thế giới quan và phương pháp luận triết học đã và đang đóng
vai trị tích cực trong việc phê phán, bác bỏ phương pháp tư duy siêu hình,

quan điểm duy tâm, tơn giáo; đưa tinh thần của phép biện chứng duy vật vào
trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành tựu mà chúng ta giành
được hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước là một minh chứng đầy thuyết
phục, khẳng định niềm tin vào lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo.
Trước tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc và phát triển kinh tế tri
thức, thế giới ngày nay ngày càng trở nên phẳng hơn; trong đó tri thức khoa
học đóng vai trị là lực lượng sản xuất trực tiếp như điều C.Mác đã dự báo


15
trước đây đã trở thành hiện thực. Thời cơ, vận hội đã và đang mở ra cho mọi
quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, làm gì và làm như thế nào để nắm bắt và tận
dụng thật hiệu quả thời cơ, vận hội đưa đến và hạn chế những tác động tiêu
cực mà nó đưa lại là hồn tồn phụ thuộc vào sự hiểu biết, nắm bắt và vận
dụng sáng tạo thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng
mácxít của chúng ta.
Sống trong một bối cảnh thế giới sôi động và phức tạp như vậy, chúng ta
cần phải có một triết học chân chính dẫn đường với một triết lý nhân sinh
đúng đắn, nhân văn gợi mở, giúp chúng ta vạch đường đi tới. Một triết học
như vậy không thể nào khác là triết học Mác - Lênin, khoa học về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Về
điều này, Jacques Derrđa, nhà triết học đương đại nổi tiếng người Pháp, trong
tác phẩm “Những bóng ma của Mác” đã nhận định rằng, tất cả mọi người trên
toàn trái đất này, dù họ muốn, họ biết hay là không, đều là những người kế
thừa của Mác và chủ nghĩa Mác với một mức độ nhất định...”. Và Jacques
Derrđa khẳng định: “luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và
tranh luận những tác phẩm của Mác. Đó sẽ càng ngày càng là một sai lầm,
một sự thiếu tránh nhiệm về mặt lý luận, triết học và chính trị... Sẽ khơng có

tương lai khi khơng có trách nhiệm đó. Khơng có nếu khơng có Mác; khơng
có tương lai mà lại khơng có Mác. Nếu khơng có ký ức về Mác và khơng có
di sản của Mác”.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công
nếu thiếu sự dẫn đường của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
hoặc coi thường tri thức triết học nói chung, triết học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh nói riêng, sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp nếu những sai lầm
cũ khơng được phá bỏ hoặc chậm được khắc phục. Bởi lẽ, triết học là thế giới
quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng, là công cụ
nhận thức vĩ đại để chúng ta sử dụng vào việc khám phá, chinh phục và cải
tạo thế giới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


16
Đối với chúng ta, nhận thức đúng và giải quyết tốt những vấn đề thực
tiễn mà công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đặt ra trong bối cảnh tình hình hiện nay phải được coi là một trong
những định hướng chủ đạo, nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Chỉ có làm như vậy,
triết học Mác - Lênin mới hoàn thành xuất sắc chức năng, vai trò thế giới
quan, phương pháp luận khoa học cho nhận thức và cải tạo thực tiễn; đồng
thời, làm tốt các vai trị chức năng vốn có: chuẩn mực, phê phán, định hướng,
tiên đoán khoa học, tổng hợp tri thức... của mình. Đó cũng là con đường cần
phải đi tới của triết học Mác - Lênin trong kỷ nguyên toàn cầu: đem lại cách
tiếp cận phức hợp, liên ngành để nhận thức sâu sắc bản chất, xu hướng vận
động, phát triển của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức;
từ đó mà có những luận chứng mới, sâu sắc về mặt lý luận, giúp cho Đảng,
Nhà nước và các cơ quan chức năng từ Trung ương đến cơ sở hoạch định
đúng đắn đường lối, chiến lược, sách lược phát triển kinh tế - xã hội, củng cố,
tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng,

đưa đất nước phát triển đúng định hướng, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu,
chỉ tiêu đã đề ra. Sai lầm trong thực tiễn là rất đáng sợ, nhưng sai lầm trong
nhận thức và sự ngộ nhận mình ln ln đúng, trong khi thực tiễn hồn tồn
khơng phải là như vậy cịn nguy hiểm, đáng sợ hơn nhiều. Cách tốt nhất để
mỗi người chúng ta không mắc phải sai lầm là nắm vững tri thức khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là phép biện
chứng duy vật mácxít. Đây là chiếc chìa khóa mở con đường đưa chúng ta tự
tin, luôn ngẩng cao đầu bước vào thế giới của kỷ ngun tồn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức và nó cũng là bí quyết đưa chúng ta
đi đến mọi thành công.


17
KẾT LUẬN
Triết học có vai trị và ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống và trong nhận
thức. Mọi giai cấp, mọi tầng lớp và từng cá nhân mỗi người có thể nhìn thấy
những mặt tích cực của Triết học để nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với
sinh viên, Triết học có ý nghĩa vơ cùng to lớn, giúp cho sinh viên có thế giới
quan và phương pháp luận khoa học để luận giải các vấn đề nảy sinh trong
quá trình học tập, đồng thời Triết học giúp sinh tiếp cận các mơn học khác
được dễ hơn, từ đó nâng cao kết quả học tập, có cái nhìn khách quan, tiến bộ
về các lĩnh vực trong cuộc sống.
Xét về tổng thể, Triết học Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của
nhân loại do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được
V.I. Lênin kế tục, phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Triết học Mác
- Lênin phơi bày bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại
trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đốn chính xác xu hướng vận động của
các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là
chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học, cách mạng và
nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải

phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được
mục tiêu đó.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác đã lý
giải một cách khoa học và khách quan các quy luật phát triển của xã hội lồi
người thơng qua sự vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội. Với chủ
nghĩa xã hội khoa học, C.Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, đứng lên giải phóng chính mình
để xây dựng một chế độ xã hội khơng cịn người bóc lột người, biến chủ nghĩa
xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, như Lênin nhận định: “đem khoa
học thay thế cho mộng tưởng”. Học thuyết Mác đã trở thành một vũ khí lý
luận, tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức, bóc lột và
bất cơng trong xã hội.


18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học (2012) Dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
2. Ngơ Thành Dương (2015), Một số khía cạnh về phép biện chứng duy
vật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995.
5. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 19, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1980.




×