Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN môn Âm nhạc MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CNTT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC MÔN ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 35 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH BA
TRƯỜNG THCS ĐỖ SƠN

SÁNG KIẾN:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY
HỌC MÔN ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG THCS”

Tác giả:

Nguyễn Thị n

Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ:

Giáo viên

Đơn vị công tác:

Trường THCS Đỗ Sơn

Đỗ Sơn, năm 2019


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. Cơ sở lý luận:
Trong thời kỳ đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, Đảng và nhà nước
ta luôn coi trọng vấn đề giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục
đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước, mà
sản phẩm chính là nguồn nhân lực cho xã hội, mở đường cho sự phát triển kinh
tế, khoa học cơng nghệ, văn hố…. Đại hội VIII của Đảng ta khẳng định: “Phát


triển giáo dục và khoa học là quốc sách hàng đầu nhằm xây dựng chiến lược con
người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước
phát triển nhanh chóng và bền vững, mau chóng sánh vai được với các nước
phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Từ ý nghĩa và tầm quan trọng ấy mà
đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp
đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo một cách tồn diện có hiệu quả cao,
thiết thực. Đặc biệt là hệ thống giáo dục phổ thông, một bậc học vô cùng quan
trọng. Đây là bước tạo nên sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ Việt
Nam.
Chính vì vậy, tại Nghị quyết số 29-NQ/TW được Hội nghị Trung ương 8
khóa XI thơng qua ngày 4 tháng 11 năm 2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo” đã đặt ra mục tiêu giáo dục phổ thông ở trường THCS là
tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân,
tức là “giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN,
xây dựng nhân cách và trách nhiệm cơng dân…Đặc biệt cịn có thêm u cầu
phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu (về một môn học), định hướng nghề nghiệp
cho học sinh để chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên cấp THPT, vào khối
chuyên, đại học, nhằm đào tạo thành những tri thức giỏi, cao hơn là những nhân
tài cho đất nước.
Có thể nói mục tiêu giáo dục đào tạo của nhà trường là hình thành ở học
sinh nhân cách, tư cách của một công dân và nhân cách, tư cách của một nhân
tài trong tương lai. Vì vậy nhiệm vụ của nhà trường là vừa phải thực hiện nhiệm
vụ giáo dục toàn diện để hồn thiện cho học sinh có tri thức phổ thông nền tảng
và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, vừa phải thực
hiện sự tác động đúng hướng để phát triển năng khiếu của các em về một mơn
học cụ thể nào đó.
Một trong những mơn học có ý nghĩa to lớn và tích cực trong việc hình
thành và phát triển nhân cách tồn diện cho học sinh khơng thể khơng nói đến
mơn âm nhạc. Âm nhạc là một lọai hình nghệ thuật nhằm phản ánh hiện thực

khách quan bằng những hình tượng có sức biểu cảm âm thanh. Ở trường THCS
mục tiêu của môn âm nhạc là thông qua việc giảng dạy một số vấn đề sơ giản về
nghệ thuật âm thanh, nhằm phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc của HS tạo nên
một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định do vậy “văn hóa âm nhạc” sẽ góp phần
đào tạo có chất lượng những lớp người có ích cho xã hội.


Với học sinh THCS, môn âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu
quả nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho HS nhằm góp
phần giáo dục toàn diện cho HS theo mục tiêu đào tạo, tạo cơ sở hình thành
nhân cách con người mới Việt Nam. Tuy nhiên âm nhạc trong nhà trường THCS
với tư cách là một mơn học có mức độ nhất định về mục đích và nội dung, song
mục đích của việc dạy và học môn âm nhạc trong nhà trường phổ thơng là giáo
dục văn hố âm nhạc cho HS nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản
các kỹ năng nhằm tạo điều kiện cho khả năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ
thuật âm nhạc, khơi dậy ở các em những khả năng sáng tạo trong hoạt động âm
nhạc, củng cố thêm về tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuật và nhu
cầu âm nhạc.
Thông qua những phương tiện của nghệ thuật âm nhạc để bồi dưỡng khả
năng nhận thức, phát triển tư duy, óc sáng tạo góp phần cùng các mơn học khác
phát triển năng lực trí tuệ cho HS, bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật, đẩy
mạnh phong trào văn nghệ quần chúng làm cho khơng khí của nhà trường thêm
vui tươi, lành mạnh. Từ mục tiêu giáo dục và những lí do chung của mơn học
âm nhạc nói trên, bản thân tơi nhận thấy đó là một hướng đi và là một phương
pháp giáo dục đúng đắn mang tính đặc thù của việc giáo dục cái hay, cái đẹp,
giáo dục tình cảm, thẩm mĩ âm nhạc góp phần quan trọng vào việc hình thành
nhân cách tồn diện của con người mới: Đức - Trí - Thể - Mĩ. Trong nghệ thuật,
nhất là âm nhạc, sự sáng tạo của mỗi cá nhân đóng vai trị cực kì quan trọng.
Sáng tạo có nhiều mức độ, có thể phát triển từ những ý tưởng đã có, có thể là
thay đổi hệ thống nguyên tắc. Học sinh THCS đang trong thời kì phát triển

nhanh về thể chất, tâm sinh lí, giai đoạn này các em có nhiều suy nghĩ ước mơ
về cuộc sống. Trong quá trình học âm nhạc, đây là giai đoạn rất thích hợp để
phát huy sự sáng tạo của HS.
II. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến:
- Phương pháp trực quan
Trong mỗi tiết dạy âm nhạc, dù đó là nội dung gì, học hát, tập đọc nhạc
hay âm nhạc thường thức, việc học sinh quan sát tài liệu, tư liệu và giáo viên
quan sát mức độ chú ý của học sinh là hết sức cần thiết.
- Phương pháp đàm thoại.
Trao đổi với học sinh để tìm hiểu tâm tư suy nghĩ và sở thích của các em
khi tham gia học tập mơn âm nhạc. Ngồi ra trao đổi với đồng nghiệp, đồng
mơn tìm ra những giải pháp để lơi cuốn học sinh tham gia học tập môn âm nhạc
với thái độ tích cực.
- Phương pháp đối chiếu so sánh
Dự giờ đồng nghiệp, đồng môn và đối chiếu với những tiết học không sử
dụng công nghệ thông tin.
- Phương pháp điều tra
Qua điều tra cho thấy 100% học sinh và giáo viên đều hứng thú với việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong mỗi tiết dạy - học.


III. Mục tiêu:
Cùng với các ngành công nghệ khác phát triển, ngành công nghệ thông tin
đã và đang là nền khoa học mũi nhọn của thế kỷ XXI. Nó là một trong những
động lực quan trọng nhất của sự phát triển xã hội cùng với một số ngành công
nghệ khác. Cơng nghệ thơng tin đã góp phần làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh
tế, văn hoá xã hội của thế giới hiện đại.Với những tiến bộ nhanh chóng và kỳ
diệu của kĩ thuật máy tính và kĩ thuật viễn thông trong vài thập niên gần đây,
Công nghệ thông tin thực sự đã xâm nhập sâu rộng có tính tồn cầu và đã đem
lại những thành tựu to lớn, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong nền giáo dục

quốc dân...
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, cùng với những xu thế phát
triển chung của khoa học kĩ thuật, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành giáo dục những năm gần đây đã được đẩy mạnh và có chuyển biến tích
cực. Những năm gần đây, Bộ GD&ĐT rất chú trọng đến việc đẩy mạnh ứng
dụng CNTT vào việc dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm theo kế hoạch chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ giáo dục Trung học cơ sở của Phịng GD&ĐT huyện nhà ln tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý. Trong đó có:
Chú trọng ứng dụng CNTT trong tổ chức dạy học; tăng cường sử dụng các mơ
hình học kết hợp giữa lớp học truyền thống với các lớp học trực tuyến nhằm tiết
kiệm thời gian và chi phí cũng như tăng cường sự công bằng trong việc tiếp cận
các dịch vụ giáo dục chất lượng cao. Khuyến khích giáo viên thiết kế các bài
giảng e-learning, khai thác sử dụng hiệu quả các ứng dụng CNTT; tham gia các
cuộc thi về ứng dụng CNTT trong dạy học, tổ chức các hoạt động giáo dục do
Bộ, Sở GD&ĐT tổ chức.
Thực hiện chủ chương trên, ban giám hiệu nhà trường luôn chú trọng đến
việc chỉ đạo giáo viên nhà trường ứng dụng CNTT vào giảng dạy, đầu tư nhiều
về cơ sở vật chất như phòng học chức năng đảm bảo cho việc dạy và học. Đối
với giáo viên, hầu hết các giáo viên đều có thể ứng dụng CNTT, sử dụng máy
chiếu trong dạy học.
Là một giáo viên dạy môn âm nhạc, được ban giám hiệu nhà trường động
viên về tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy.
Tơi ln tích cực tìm hiểu nghiên cứu công nghệ thông tin sử dụng các phần
mềm chép nhạc, cắt ghép nhạc, video... đưa vào thực nghiệm trong việc soạn
giảng và dạy học, bước đầu đã có những kết quả khả quan. Trong bài viết này tôi


không đi sâu vào phương pháp dạy học mà giới thiệu khái quát các phần mềm
và khả năng ứng dụng cụ thể của các phầm mềm vào việc soạn giảng sao cho có

hiệu quả cao nhất từ việc ứng dụng CNTT.
Xuất phát từ mục tiêu của môn âm nhạc là: Thông qua môn âm nhạc để
HS cảm thụ âm nhạc, nâng cao thị hiếu thẩm mĩ, đồng thời góp phần giáo dục
tư tưởng, tình cảm tích cực, góp phần đào tạo có chất lượng, những người lao
động mới, phát triển tồn diện; hình thành cho học sinh cơ sở ban đầu thật tốt
đẹp, cần thiết thiết cho sự phát triển lâu dài về tình cảm, trí tuệ và thể chất. Đây
là q trình tác động có tổ chức và định hướng chặt chẽ, liên tục, cụ thể là phát
triển sự yêu thích và sự hưởng ứng say mê đối với âm nhạc, làm cho học sinh có
nhu cầu được tham gia học tập âm nhạc; phát triển thính giác nhạy cảm ở học
sinh, đây là một đặc trưng cơ bản và rõ nét nhất của môn âm nhạc, là bộ môn
nghệ thuật của tai nghe; phát triển những kỹ năng và thói quen về ca hát phổ
thơng; phát triển tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu nghệ thuật lành mạnh, trong sáng,
phong phú, từ đó hình thành nhân cách; phát triển tình cảm thẩm mĩ chính là sự
phát triển xúc cảm qua sự nghe, thấy. Những xúc cảm này không thể dùng lời
thay thế. Mỗi bài hát đều có khả năng biểu cảm và sức sống đã vang lên đầy đủ,
tạo ra tình yêu thiên nhiên đất nước và con người, nhu cầu thái độ tha thiết đối
với vẻ đẹp mà mình cảm nhận để giữ gìn và phát triển vươn lên.
Từ mục tiêu của bộ môn, mục tiêu của năm học này và sự tìm tịi nghiên
cứu của bản thân trong những năm học qua, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “Một
số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả dạy
học môn âm nhạc ở trường THCS”, với mục đích để nâng cao hiệu quả dạy
học môn âm nhạc và được cùng chia sẻ học hỏi các đồng chí, đồng nghiệp trong
dạy mơn âm nhạc ở trường THCS.
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN:
1.Thực trạng của vấn đề
Âm nhạc là một bộ môn năng khiếu giúp HS cảm thấy thoải mái,
vui vẻ hơn sau những giờ học căng thẳng, từ đó phần nào thúc đẩy hoạt động
phong trào văn hóa, văn nghệ trong lớp, trong nhà trường thêm lành mạnh, sơi
nổi, đặc biệt cịn giúp HS thích đến trường hơn. Song việc giảng dạy môn Âm

nhạc cho tất cả các đối tượng HS (có năng khiếu hay khơng có năng khiếu âm
nhạc) cũng cần phải có phương pháp và nghệ thuật để truyền tải được nội dung
vì số HS có năng khiếu âm nhạc là rất ít.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa q trình học tập của
học sinh thì ngồi sự nghiên cứu về phương pháp truyền giảng, phương pháp tổ
chức lớp học mỗi giáo viên cần phải nghiên cứu sử dụng các thiết bị công nghệ,
các phần mềm hỗ trợ dạy học để ứng dụng trong quá trình giảng dạy. Trong


những năm gần đây, CNTT trong dạy học được đẩy mạnh và đã đạt được hiệu
quả tích cực.
Một trong những yếu tố dễ nhận thấy nhất là một giờ học có ứng dụng
CNTT thì việc truyền đạt kiến thức - luyện tập kỹ năng của giáo viên được cải
thiện rất nhiều, học sinh dễ tiếp thu bài, giờ học sinh động, lôi cuốn các em và
kết quả học tập được nâng cao. Việc ứng dụng CNTT không những đáp ứng nhu
cầu bộ mơn mà cịn giúp HS ở vùng nơng thôn tiếp cận và làm quen dần với
phương pháp học tập hiện đại, giáo viên qua đó cũng từng bước nâng cao kỹ
năng nghiệp vụ của mình để đáp ứng với yêu cầu công tác trong thời đại mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của CNTT trong dạy học, trong những
năm học gần đây bản thân tôi đã thực hiện sử dụng CNTT vào giảng dạy môn
Âm nhạc và đã thu được kết quả tốt nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
học bộ mơn nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường, chất lượng
của toàn ngành nói chung, đáp ứng yêu cầu “Đổi mới căn bản, toàn diện chất
lượng giáo dục và đào tạo”.
2. Các tồn tại, hạn chế
Điểm hạn chế nhìn thấy rõ nhất trong việc giảng dạy mơn Âm nhạc chính
là việc hình thành năng lực âm nhạc cốt lõi cho HS chưa đạt hiệu quả cao.
Có khơng ít HS khơng nhận biết được hoặc nhận biết rất chậm nốt trên
bản nhạc của bài Tập đọc nhạc, chưa kể đến nốt trên bản nhạc của bài hát.
Trong các giờ học môn Âm nhạc hầu như HS chỉ thích học hát, ở nhiều

nơi, vì điều kiện cơ sở vật chất cịn thiếu thốn, trình độ giáo viên cũng cịn hạn
chế, chỉ dạy hát là chính, các nội dung tập đọc nhạc, nhạc lý, âm nhạc thường
thức bị coi nhẹ, thậm chí có nơi bỏ qua. Vì thế, việc hình thành năng lực đọc
nhạc, kiến thức âm nhạc cho HS có thể nói là chưa tốt nếu như khơng nói là ở
một số nơi cịn kém hiệu quả. Do vậy chất lượng, hiệu quả giờ học mơn Âm
nhạc cũng như mục tiêu phát triển tồn diện chất lượng giáo dục và đào sẽ khó
có thể đạt được.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Thực trạng đó là do nhiều HS thường phiên tên nốt nhạc ra chữ viết tắt
của tiếng Việt phía dưới nốt nhạc rồi nhìn vào đó đọc nhạc mà khơng nhìn vào
bản nhạc.
Trong các giờ học môn Âm nhạc hầu như HS chỉ thích học hát, ở nhiều
nơi, vì điều kiện cơ sở vật chất cịn thiếu thốn, trình độ giáo viên cũng cịn hạn
chế, chỉ dạy hát là chính, các nội dung tập đọc nhạc, nhạc lý, âm nhạc thường
thức bị coi nhẹ, thậm chí có nơi bỏ qua. Vì thế, việc hình thành năng lực đọc
nhạc, kiến thức âm nhạc cho HS có thể nói là chưa tốt nếu như khơng nói là ở
một số nơi cịn kém hiệu quả.
Do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu (chỉ có 1 chiếc máy
chiếu), khơng phải giờ học nào HS cũng được học qua máy chiếu. Do vậy, HS
nhà trường ít có điều kiện được tiếp cận nên còn bỡ ngỡ trước những trang thiết
bị hiện đại.
Nguyên nhân của những bất cập, tồn tại nói trên có thể nêu ra rất nhiều,
song có một nguyên nhân khá quan trọng thuộc về giáo viên dạy âm nhạc. Đó là


do GV sử dụng sử dụng các phương pháp dạy học tiếp cận nội dung vẫn là chủ
yếu, dạy chay, mà ít chú ý tới việc tiếp cận năng lực của HS thông qua việc sử
dụng thiết bị DH, ứng dụng CNTT trong giờ học Âm nhạc.
Qua một số giờ dạy học bài hát mới, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức ở
cùng một đối tượng là HS lớp 7A, 7B thì tiết dạy khơng ứng dụng CNTT của

trường trong năm học 2018 - 2019 thu được kết quả như sau:
HS tham Khối 7
gia

Số HS hát đúng
giai điệu, sắc
thái phù hợp và
có động tác phụ
họa

Số HS hát
đúng giai
điệu, sắc
thái phù
hợp

Số HS hát
đúng giai
điệu

Số HS hát
chưa đúng
giai diệu

Tổng số

49

5


7

19

18

Tỷ số %

100%

10,2%

14,3%

38,8%

36,7%

4. Tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến.
Trong mỗi tiết dạy âm nhạc, dù đó là nội dung gì, học hát, tập đọc nhạc
hay âm nhạc thường thức, việc học sinh quan sát tài liệu, tư liệu và giáo viên
quan sát mức độ chú ý của học sinh là hết sức cần thiết.
Qua thực tiễn thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn
Âm nhạc ở trường THCS, tơi thấy bước đầu đã có sự thành cơng như: Giờ học
sinh động hơn; tạo được sự say mê, hứng thú học tập cho các em; khơi dậy cho
các em lịng ham mê, u thích mơn học hơn, chất lượng học tập bộ môn của các
em ngày càng được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên để có một giờ học Âm nhạc đạt hiệu quả cao, đòi hỏi giáo viên
phải đầu tư thời gian, công sức cho việc soạn giảng, thầy cô phải thực sự tâm
huyết với nghề

Trong những năm trở lại đây, ứng dụng CNTT trong dạy học được đẩy
mạnh và đã đạt được hiệu quả tích cực. Một trong những yếu tố dễ nhận thấy
nhất là một giờ học có ứng dụng CNTT thì việc truyền đạt kiến thức – luyện tâp
kỹ năng của giáo viên được cải thiện, học sinh dễ tiếp thu bài học và giờ học
sinh động, lôi cuốn các em vào bài học và chất lượng giờ học được nâng cao.
Tất cả các môn học đều có đặc thù khác nhau, vì vậy việc vận dụng các thiết bị
công nghệ và phần mềm tin học cũng khác nhau nhưng nhìn chung ứng dụng
CNTT trong dạy học là một việc làm hết sức cần thiết nhằm nâng cao chất lượng
dạy học và từng bước đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại hố,
khơng những đáp ứng nhu cầu bộ mơn mà cịn dần dần tạo cho học sinh làm
quen với phương pháp học tập hiện đại, giáo viên cũng từng bước nâng cao kỹ
năng, nghiệp vụ của mình để đáp ứng với yêu cầu công tác trong thời đại mới.
Với bộ môn Âm nhạc, đây là một môn học năng khiếu, đặc thù của môn
học là dễ lôi cuốn học sinh với điều kiện giáo viên giảng dạy phải biết sáng tạo


trong phương pháp truyền giảng, luyện tập kỹ năng cho học sinh. Các phân môn
trong bộ môn Âm nhạc đa số đều đỏi hỏi người học phải có năng khiếu và thực
sự u thích. Chính vì thế, việc tìm tịi, sáng tạo các phương pháp dạy học tích
cực trong bộ môn âm nhạc luôn là nhu cầu cần thiết đối với mỗi giáo viên. Ứng
dụng CNTT trong giảng dạy bộ môn âm nhạc là một sự đổi mới trong phương
pháp giảng dạy âm nhạc ở cấp THCS. Hiện nay, ngoài các thiết bị nghe – nhìn
rất phong phú và hiện đại; các phần mềm soạn nhạc, hoà âm cũng được phát
triển không ngừng. Việc nghiên cứu và ứng dụng một chức năng nhỏ trong các
phần mềm ấy đưa vào trong dạy hát hoặc tập đọc nhạc rất thuận tiện bởi tính
năng chung của các phần mềm này là rất dễ sử dụng, khơng địi hỏi người dùng
phải có kiến thức chuyên sâu về máy tính, người sử dụng chỉ cần tiếp cận và
khai thác một vài lần là có thể sử dụng thành thạo. Bên cạnh đó, ngồi sự hỗ trợ
của các thiết bị nghe – nhìn, giáo viên có thể kết hợp các phần mềm này trong
giáo án điện tử, đảm bảo việc truyền giảng kiến thức và luyện tập kỹ năng cho

học sinh sẽ được thực hiện một cách linh động, giờ học hát cũng như giờ học tập
đọc nhạc sẽ được thực hiện một cách nhẹ nhàng nhưng không kém phần sinh
động, học sinh sẽ cảm thấy thích thú khi thực hành bộ mơn và kết quả giờ học sẽ
được nâng cao rõ rệt.
II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
Thấy được những khó khăn nêu trên, bản thân tơi vơ cùng trăn trở. Trước
đây khi cịn là giáo viên trẻ, mới ra trường tôi chỉ giảng dạy bộ môn Âm nhạc
bằng phương tiện dạy học chủ yếu là đàn phím. Sau này khi việc ứng dụng
CNTT trong dạy học ngày càng phổ biến và phát triển, tơi đã tìm hiểu, học hỏi
và mạnh dạn ứng dụng một số phần mềm công nghệ vào dạy học môn Âm nhạc.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều phần mềm dùng để soạn nhạc, hồ
âm phối khí. Các phần mềm đều có lĩnh vực ứng dụng nhất định và có tính
chun biệt khá rõ nét nhưng nhìn chung khi sử dụng đều có đặc điểm tương đối
giống nhau từ thao tác soạn, chữa giai điệu, hoà âm, ghi âm… nên việc sử dụng
cũng khá dễ dàng. Các phần mềm này đa số khơng địi hỏi máy tính phải có cấu
hình cao nên việc phổ biến cũng thuận lợi. Đa số phần mềm soạn nhạc hiện nay
đều chạy được trên môi trường Windows (hệ điều hành phổ biến ở Việt Nam)
nên việc cài đặt, sử dụng rất thuận tiện.
Thiết bị dạy học môn âm nhạc cũng đơn giản và dễ tìm kiếm ngồi thị
trường. Một trong những thiết bị cần thiết nhất cho bộ mơn là đàn phím, hiện
nay đã được trang bị và sử dụng hiệu quả. Kế đến là thiết bị nghe – nhìn và thiết
bị giao tiếp giữa đàn Organ với máy tính (MIDI Cable). Nếu soạn giảng bằng
giáo án điện tử thì các thiết bị trên đã được tích hợp trong hệ thống máy tính nên
việc giảng dạy một tiết học âm nhạc sẽ được thực hiện một cách đơn giản,
khơng cầu kì trong việc chuẩn bị thiết bị, phòng ốc.
II.1. Giới thiệu một số phần mềm được ứng dụng trong dạy học môn
Âm nhạc:
Trong những năm thực tế giảng dạy, ngoài việc sử dụng các trang thiết bị
đã được cấp, việc ứng dụng thêm các phần mềm kết hợp với các thiết bị công
nghệ khác đã tạo được khơng khí khác hẳn trong các tiết học âm nhạc và hiệu



quả được nâng cao, các phần mềm được khai thác và sử dụng là phần mềm
ENCORE (của hãng PASSPORT GVOX), phần mềm CAKEWALK PRO
AUDIO (của hãng Twelve Tone Systems) và phần mềm PROSHOW GOLD
(của hãng PHOTODEX CORPORATION). Cụ thể phương pháp ứng dụng trong
các phân mơn như sau:
II.1.1 CHƯƠNG TRÌNH ENCORE 4.5.3
1. Cửa sổ chính :
Sau khi mở chương trình Encore sẽ cho cửa sổ chính như hình (H1.1).

H
1.1
Trong cửa sổ chính dịng nhạc mặc nhiên được định sẵn:
- Hai khng nhạc trong dịng nhạc hoặc hệ thống dành cho Piano (Khng
nhạc phía trên mang khố Sol, khng nhạc phía dưới mang khố Fa). [Staves
per system = 2
- Số dịng nhạc định sẵn trong trang là 5 [Systems per page = 5]
- Ơ nhịp định sẵn trong từng dịng là 3 [Measure per page = 3]
- Tất cả các điều kiện định trước ở trên đều có thể thay đổi dễ dàng để phù
hợp tính chất từng bản nhạc. (Sẽ được trình bày chi tiết ở phần 2 trong phần bài
tập).
Các thành phần trên cửa sổ của Encore :
Trên cửa sổ chính của chương trình Encore 4.5.3 gồm có các phần :
+ 1: Thanh tiêu để (Title Bar).
+ 2: Thanh Menu (Menu
Bar).
+ 3: Thanh thuộc tính (Ribbon Bar).
+ 4: Thanh cụng cụ (Tool Bar).
+ 5: Thanh cuộn dọc (Vertical Scroll Bar).

+ 6: Thanh cuộn ngang (Horizontal Scroll Bar).
+ 7: Màn hình chứa bản nhạc.
Trong đó:
Thanh tiêu đề (Title Bar ): Thanh tiêu đề nằm phía trên, bên phải có các
nút điều khiển phóng to thu nhỏ cửa sổ.


Thanh Menu 2 (Menu Bar):
Thanh Menu chứa 8 mục điều khiển chính của chương trình Encore: File –
Edit – Notes – Measures – Score – View – Windows – Setup – Help.
Khi kích hoạt mục điều khiển có thể dùng chuột bấm vào mục cần chọn, nếu
có các chữ có dấu gạch dưới các ký tự thì có thể dựng tổ hợp phím Alt + (phím
ký tự có gạch dưới).
Thanh thuộc tính (Ribbon Bar - H1.2): Thanh Ribbon có nút điều khiển
giọng, âm thanh, ghi, xoá, chuyển trang...

1

2

3

H1.2

Thanh cụng cụ (Tool Bar)
Thanh công cụ được đặt thẳng đứng, bao gồm nhiều thanh chức năng đặt
chồng lên nhau - Chỉ xuất hiện một trong các thanh (Thanh Notes - Thanh Clefs
- Thanh Graphics - Thanh Epressons - Thanh Tools - Thanh Dynamics - Thanh
Marks 1 - Thanh Marks 2 - Thanh Symbols - Thanh Guitar - Thanh Color)


H1.3

*Lưu ý: Trên thanh cơng cụ có hai nơi cần lưu ý: (H1.3)
- Khoảng trống 1: Bấm vào đây để dời thanh công cụ.1


- Hộp điều khiển 2: Bấm vào đây để chuyển đến từng thanh cụ thể. Đó là:
a. Thanh Graphics: (Đồ họa)
- Thanh đồ họa dùng để viết chữ.
- Ghi hợp âm ở dạng chữ, dạng thế bấm hợp âm trên Guitar.
- Vẽ đường thẳng, đường bao dạng trịn, vng với các cột đậm, nhạt khác
nhau.
b. Thanh Clefs: (Khóa nhạc)
- Trên thanh khóa nhạc có các nút để ghi khóa nhạc: khóa Sol, khóa Fa,
khóa Đơ...
c. Thanh Color: (Màu)
- Thanh màu dùng để trang trí bản nhạc có nhiều màu sắc khác nhau
d.
Thanh Experession: (Sắc thái)
- Thanh sắc thái ghi chú cường độ tình cảm cần thể hiện trong một câu, một
đoạn hay cả bài nhạc.
e. Thanh Mark 1, Mark 2: (Dấu hiệu)
- Thanh dấu hiệu để ghi các dấu hóa bất thường cho các nốt phụ, dấu hiệu
lượn, dấu vê, dấu nhấn... (được thể hiện trên các ô của thanh).
f. Thanh Tools: (cụng cụ)
- Thanh cụng cụ tạo dấu nối cho các nốt nhạc
- Tạo các đường kẻ kết hợp với dấu tái đoạn
- Tạo các dấu vê, dấu rải...
- Tạo dấu ghi cường độ ...
g.

Thanh Dynamics: (Cường độ)
- Thanh cường độ để ghi chú mức độ mạnh yếu của nốt nhạc.
+ p = nhẹ
pp = nhẹ vừa
ppp = rất nhẹ
+ f = mạnh
ff = mạnh vừa
fff = rất mạnh
h. Thanh Symbols: (ký hiệu)
Thanh ký hiệu để ghi các dấu: chấm lưu, hồi đoạn, Coda, dấu nhắc, các
chữ số ...
i. Thanh Guitar:
- Thanh Guitar có ghi chữ ký hiệu: ghi chữ ngón tay, và các ký hiệu ghi chữ
trên khng nhạc.
j. Thanh notes:
Trên thanh notes có các nút để ghi notes nhạc, dấu lặng, dấu hóa. Khi ghi
notes nhạc hoặc các dấu vào khng nhạc thì click chuột vào nơi đó sẽ chuyển
màu, di chuyển vị trí đến đâu nhắp chuột thì sẽ ghi được. (Nếu notes có dấu
chấm dơi thì nháy chuột ở notes đó và nháy thêm
dấu chấm xong mới ghi trên khuông nhạc).
Thanh cuộn dọc, thanh cuộn ngang, màn
hình chương trình Encore.
2. Mở một tập tin mới:
Để mở tập tin mới: [File  New] hoặc tổ hợp
phím [Ctrl + N]. Màn hình sẽ hiện ra hộp thoại
Choose Page Layout: [H1.6]


Trong phần Layout: (Phần này khi chúng ta chọn Single Staves trong Staff
Format thì cả 3 ơ đều sáng lên lưu ý các nghĩa của nó. Đó là:

Staves per system: Số khng nhạc trên dịng nhạc.
Systems per page: Số dịng nhạc trong trang.
Measures per system: Số ơ nhịp trong dịng nhạc.
Trong phần Staff Format: Định dạng khng nhạc sẵn đó là: Dùng
khuông đơn (Single Staves), Piano hoặc Piano - Vocal.
H1.
Trong đó Staff Format là định dạng khng nhạc, cụ thể:
Single Staves: Khuông đơn, được dùng phổ biến để ghi bản nhạc, phần này là
phần hay dùng cho giáo viên dạy nhạc phổ thơng.
- Ví dụ : Bài Chơi đu - dân ca Thanh Hố được viết bằng khng đơn.

Piano: Có 2 khng nhạc trong một hệ thống, một khng khóa Sol ghi
bè cao và một khng khóa Fa ghi trầm. Ví dụ: Bài Au revoir của Robert
Burns được viết cho Piano, bè cao viết khóa Sol, bè trầm viết ở khóa Fa.


Piano - Vocal: Có 3 khng nhạc trong hệ thống : Khuông đơn 1 để ghi giai điệu
bài hát (Vocal), khuông 2 ghi bè cao của piano, khuông 3 ghi bè trầm của piano.
- Ví dụ:

II. 1.2. Ứng dụng phần mềm ENCORE trong giảng dạy phần Tập đọc
nhạc:
Ưu điểm của phần mềm này là có thể tạo một bản tập đọc nhạc được thực
thi động giống y hệt bản tập đọc nhạc được in trong sách giáo khoa. Từ cách thể
hiện về hình thức lẫn kết cấu câu nhạc, ơ nhịp.., điều này giúp học sinh dễ quan
sát bởi các bài tập đọc nhạc đều được trích từ các ca khúc và thường là rất ngắn.
Bài tập đọc nhạc được thể hiện tồn màn hình giúp giáo viên có thể hướng dẫn
cách thực hiện các kí hiệu, cao độ, trường độ dễ dàng và học sinh dễ nắm bắt.
Phần mềm ENCORE khi thực hiện bài tập đọc nhạc sẽ có tiếng phách gõ và
được hiển thị trên màn hình một cách chính xác và rõ ràng. Chức năng biểu diễn

theo các kí hiệu âm nhạc được soạn sẵn được thực hiện tự động, học sinh dễ
dàng theo dõi bài và nắm bắt cao độ, trường độ, các âm hình tiết tấu.


Với phần mềm này, nếu giáo viên tạo được bản tập đọc nhạc giống với
cách trình bày trong sách giáo khoa thì hiệu quả bài dạy sẽ rất tốt. Tập đọc nhạc
là một phân mơn khó với đa số học sinh, các em chuẩn bị bài ở nhà và khi quan
sát trên màn hình với cách trình bày giống y hệt các em đã soạn thì việc thực
hành bài tập đọc nhạc sẽ được tiến hành một cách dễ dàng.

Phần mềm có khả năng hiển thị tồn màn hình, do đó giáo viên có thể tận
dụng tối đa diện tích của màn hình chiếu để hiển thị bài TĐN rõ ràng, sử dụng
công cụ Custom View trên thanh công cụ và nhập vào tỉ lệ % tương ứng. Để tạo
chú ý ở một số kí hiệu, hình nốt đặc biệt, hay đơn giản là muốn đổi màu sắc cho
toàn bộ bài TĐN để lơi cuốn hơn có thể sử dụng chức năng đổi màu sắc cho các
đối tượng trong bản nhạc ở mục Score Color (trình đơn View).


Nhìn chung, đây là một phần mềm dễ sử dụng nhất trong các phần mềm
soạn nhạc, phần mềm này có thể được ứng dụng không chỉ riêng môn học tập
đọc nhạc mà cịn có thể các phân mơn khác. Tuy vậy, trong thực tế ứng dụng các
phần mềm thì ENCORE tỏ ra hiệu quả hơn hẳn đối với phân môn TĐN bởi
những tính năng phù hợp của nó.
II.1.3. Ứng dụng phần mềm CAKEWALK PRO AUDIO trong giảng
dạy phần học bài hát mới:
CAKEWALK PRO AUDIO là một phần mềm chuyên dụng trong hồ
âm, phối khí và ghi âm. Phần mềm này có khả năng trình diễn các bài nhạc
MIDI với chất lượng âm thanh rất tốt và có thể tương tác với đàn Organ qua
thiết bị MIDI. CakeWalk có phạm vi ứng dụng rộng rãi, từ những phòng ghi âm
chuyên nghiệp đến những nhạc sĩ có nhu cầu soạn và phối nhạc trên máy tính.

Phần mềm này có khả năng ghi âm cùng lúc 256 kênh âm thanh với các tiện ích
sao chép, chỉnh sửa rất thuận tiện.

CakeWalk có thể hiển thị tồn bộ tổng thể bài nhạc nhưng cũng có thể
hiển thị một kênh nhạc theo yêu cầu người dùng. Bài nhạc được hiển thị hàng
ngang và có thể thay đổi màu sắc đồng thời cả giai điệu và lời hát theo tiết tấu,
điều này giúp học sinh dễ theo dõi tiết tấu, cao độ, lời ca bài hát và việc dạy hát
nhạc trở nên đơn giản hơn.


Giáo viên khi soạn bài dạy có thể ghi âm bài hát trên đàn Organ rồi
chuyển qua phần mềm CakeWalk bằng đĩa mềm hoặc đĩa USB, sau đó sử dụng
các công cụ trong phần mềm để chỉnh sửa bài nhạc theo yêu cầu hoặc có thể ghi
âm bài hát ngay trong phần mềm qua thiết bị MIDI. Vì vậy việc soạn bài dạy sử
dụng phần mềm này rất tiện lợi và tiết kiệm thời gian. Các bài hát ghi âm trên
đàn Organ bằng định dạng MIDI khi chuyển qua phần mềm này có thể chỉnh sửa
giọng, nhịp, và các yếu tố khác bằng cơng cụ sẵn có trong phần mềm. Khi ghi
âm trực tiếp thơng qua cáp MIDI thì có thể cài đặt trước giọng, nhịp… nhưng
đòi hỏi người sử dụng phải đánh đàn một cách chuẩn xác với phách gõ của phần
mềm. Sau đó có thể lưu lại với định dạng riêng của phần mềm để khi sử dụng thì
nó hiển thị theo ý người dùng đã cài đặt sẵn.
Hiện nay có rất nhiều phần mềm để soạn nhạc, mỗi phần mềm có một ưu
điểm khác nhau và khả năng ứng dụng cũng khác nhau. Với phần mềm
CakeWalk, có rất nhiều tiện ích trong đó nhưng chúng ta khơng cần phải khai
thác hết các tính năng của nó. Tính năng hiển thị bài
hát như đã trình bày ở trên và khả năng soạn, sửa
nhạc rất tiện lợi sẽ giúp cho việc chuẩn bị một tiết
dạy hát trở nên dễ dàng hơn, giờ học hát sẽ hiệu quả
hơn và thực tế thì học sinh rất hứng thú khi được
học hát qua phần mềm này


II. 1.4. Ứng dụng Phần mềm PROSHOW GOLD trong giảng dạy
phần Âm nhạc thường thức:

Đặc điểm của phần mềm này cho phép người sử dụng có thể tạo một đoạn
Video Clip từ những hình ảnh, đoạn phim sưu tầm được. Thực tế giáo viên rất
khó tìm tư liệu dạng Video để minh hoạ cho bài dạy như các bài học giới thiệu
các nhạc sĩ cổ điển hoặc các loại nhạc cụ. Với phần mềm PROSHOW GOLD,
chúng ta hồn tồn có thể tạo được Video chứa các hình ảnh minh hoạ và lồng
âm thanh vào, sử dụng hiệu ứng tạo ảnh chuyển động (Motion Effect) có thể tạo
được những đoạn phim sống động.


Khi giới thiệu một ca khúc của tác giả trong phần âm nhạc thường thức,
nếu sử dụng Video Clip quay sẵn có thể gây phản tác dụng, học sinh sẽ chú ý
nhiều hơn đến các chi tiết hình ảnh, nhân vật trong đoạn phim mà quên đi nội
dung chính là cảm nhận nội dung, giai điệu bài hát. Để giải quyết vấn đề này,
chúng ta sưu tầm một số hình ảnh minh hoạ sát với nội dung bài hát và sử dụng
phần mềm PROSHOW GOLD để tạo một đoạn Video, những hình ảnh đó sẽ
giúp học sinh cảm nhận sâu hơn nội dung – nghệ thuật tác phẩm .
Phần mềm này tương đối dễ sử dụng, hình ảnh và âm thanh trong đoạn
phim tạo ra có chất lượng tốt. Tuy nhiên, để tạo một đoạn phim như thế đòi hỏi
người sử dụng phải mất thì giờ tìm kiến hình ảnh, đo thời gian hiệu ứng của ảnh
và thời gian của bài hát. Nếu khéo léo chúng ta hồn tồn có thể tạo được một
Video Clip có tính chun nghiệp và phù hợp với yêu cầu bài dạy. Học sinh rất
chú ý khi thưởng thức các bài hát qua phần mềm này, hình ảnh minh hoạ sẽ
giúp các em cảm nhận ý nghĩa – nghệ thuật tác phẩm sâu sắc hơn. Hiệu ứng của
phần mềm sẽ tạo một cảm giác nhẹ nhàng, lôi cuốn mà không làm mất đi sự chú
ý cần thiết vào nội dung – giai điệu bài hát. Các bài học giới thiệu về nhạc cụ,
sinh hoạt nghệ thuật dân gian nếu ứng dụng phần mềm này cũng sẽ đạt hiệu quả

tốt hơn, học sinh dễ tiếp thu và ghi nhớ bài học.

II.1.5. Ứng dụng phần mềm cắt, ghép nhạc Goldwave:
Các tính năng cơ bản của phần mềm Goldwave là: Cắt rời từng đọan
nhạc; chỉnh teppo, transpose (Chỉnh nhanh chậm – cao, thấp một bài hát hay một
đoạn nhạc).
Để sử dụng phần mềm này, yêu cầu của hệ thống là: Sử dụng hệ điều hành
Microsoft® Windows® ME, 2000 (hoặc 2007, 2010) XP, Vista or later RAM:
128 Megabytes of RAM Ổ cứng: 100 Megabytes free
Cách cài đặt: Sau khi download chương trình về máy tính, chạy file
setup.exe để cài đặt chương trình sau khi cài đặt chương trình sẽ được tách thành
2 mảnh GoldWave và Control bạn Close phần Control để nó ghép với phần
chính cho tiện làm việcVào Menu Options > Register để đăng ký. Để đăng ký


bạn vào thư mục Dangky chạy file keygen. Copy paste nội dung ở phần user ID,
license tương ứng vào chương trình.
Một số hướng dẫn khác bằng hình ảnh:

Để ứng dụng phần mềm cắt ghép nhạc Goldwave trong giảng dạy Âm
nhạc giáo viên cần lưu ý:
Những năm gần đây chào lưu hát nhạc BEAT (nhạc được ghi sẵn không
lời) do các nhạc cơng, những nhà soạn nhạc hịa âm và phối khí, chất lượng nhệ
thuật rất cao. Khi sử dụng nhạc này có thể người sử dụng hát bị cao hay thấp,
nhanh hay chậm. Giáo viên có thể ứng dụng phần mềm này để tăng giảm tốc độ
bài hát, (teppo), chỉnh nâng cao hoặc hạ thấp (transpose) cho một bài hát hay
một đoạn nhạc sao cho phù hợp với giọng của của mình. Từ phần mềm này giáo
viên có thể tạo ra những bài hát liên khúc (ghép những bài hát khác nhau thành
một bài). Có những bài hát hiện nay được thu trước khá dài, trong một tiết học
thời gian khơng có nhiều, để tiết kiệm thời gian nên có thể cắt bỏ một số đoạn

nhiều khi chỉ giữ lại một đoạn, một lời hát để thuận lợi cho việc giảng dạy sao
cho phù hợi mà không mất nhiều thơi gian trên lớp.
Trong một số trị chơi âm nhạc thì phần mềm này rất quan trọng, giáo viên
có thể cắt rời từng đoạn nhạc để đưa vào từng nội dung trị chơi. Cũng có thể
làm như một tiếng đi một đoạn, môt câu hát hay một tiếng hát trong bài để HS
đốn ra câu đó hoặc có thể áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhờ vào phần
mềm này.
II.1.6. Một số thiết bị công nghệ ứng dụng trong dạy học mơn Âm
nhạc
Ngồi các phần mềm được khai thác và ứng dụng, trong giảng dạy bộ
mơn âm nhạc cũng địi hỏi những thiết bị nghe – nhìn khác. Một trong những
thiết bị được sử dụng rộng rãi và quan trọng nhất trong dạy học âm nhạc là đàn
Organ, kế đến là hệ thống âm thanh, màn hình để minh họa bài giảng. Nhưng
trong thực tế khi thực hiện bài giảng đa số giáo viên đều mắc phải một vấn đề là
hầu hết các bài hát trong chương trình đều có âm vực vượt quá tầm cữ giọng hát
của học sinh. Nếu để nguyên cao độ hiển thị trên màn hình giống như sách giáo
khoa thì học sinh khơng hát được, nhưng dùng chức năng dịch giọng của phần
mềm thì tên cao độ và khố nhạc thay đổi thì khơng đúng. Vấn đề ở đây làm sao
giữ được cao độ như bài học được in trong sách giáo khoa nhưng âm thanh khi
phát ra đã được dịch. Muốn làm được điều đó chúng ta phải sử dụng một thiết bị


thứ ba là MIDI Cable, đây là một thiết bị giao tiếp giữa đàn Organ và máy tính,
kết
hợp
những
thiết bị
đó
sẽ giải
quyết

được
vấn đề
này.

Khi kết nối máy tính với đàn Organ thơng qua MIDI Cable, tất cả các
phần mềm soạn nhạc hiện nay đều có khả năng nhận diện thiết bị MIDI và
truyền tín hiệu âm thanh qua thiết bị này (kể cả phần mềm ENCORE). Khi thực
thi chương trình, cao độ hiển thị trên màn hình sẽ giữ nguyên nhưng âm thanh
phát ra từ đàn Organ đã được dịch thông qua chức năng Transpose của đàn. Như
vậy chúng ta sẽ tuỳ bài hát hay bài TĐN để dịch trực tiếp trên đàn mà không cần
phải quan tâm đến cao độ hiển thị bởi nó sẽ giữ nguyên như khi soạn, thiết bị
này sẽ giải quyết vấn đề đó nhanh chóng và chính xác.
Hiện nay trên thị trường có hai loại MIDI Cable, một kết nối thông qua
cổng MIDI Joystick/ Game Port trên SoundCard và một kết nối trực tiếp qua
cổng USB của máy tính, cả hai loại thiết bị này đều có chức năng như nhau.


PC
(Cổng USB/MIDI Joystick)

MIDI
Cable

MIDI IN
MIDI
OUT

Dây nối MIDI

Đàn ORGAN


(Cổng OUT)

(Cổng MIDI IN)

Âm thanh khi phát ra trên đàn từ máy tính thơng qua MIDI Cable, con trỏ
nhịp và tiếng gõ phách trên màn hình sẽ kết hợp nhịp nhàng và chính xác. Điều
này giúp học sinh dễ dàng theo dõi, thuộc giai điệu và lời ca của bài hát nhanh
chóng. Quy trình tập hát sẽ được tiến hành nhanh hơn, thời gian còn lại tuỳ vào


khả năng của học sinh mà giáo viên có thể luyện tập để phát triển năng khiếu
cho các em.
II.1.7. Xây dựng giáo án áp dụng một số biện pháp ứng dụng CNTT nhằm
nâng cao hiệu quả giờ học môn Âm nhạc.
Âm nhạc lớp 7
Tiết 6
- NHẠC LÍ: NHỊP LẤY ĐÀ
- TẬP ĐỌC NHẠC: TĐN số 3.
- ÂNTT: Sơ lược về một vài nhạc cụ phương Tây
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
HS nhận biết và làm quen nhịp lấy đà. Đọc đúng giai điệu và ghép lời ca
bài TĐN số 3 (áp dụng nhịp lấy đà). Nhận biết một vài hình dáng của nhạc cụ
Phương Tây phổ biến.
2. Kĩ năng:
- HS hát biết kết hợp với gõ đệm theo phách.
- Rèn kĩ năng đọc nhạc và đánh nhịp 44 .
3. Thái độ: Hướng HS đến tình u mơn Âm nhạc.
4. Định hướng phát triển năng lực, phẩm chất:

- Năng lực chung: Năng lực thực hành âm nhạc. Năng lực hiểu biết âm nhạc.
Năng lực cảm thụ âm nhạc.
- Năng lực chuyên biệt: Năng lực trình diễn và sáng tạo.
- Phẩm chất: u gia đình, u q hương, đất nước
II. Tµi liệu và phơng tiện :
1. Giỏo viờn:
- Loi bi: Hn hợp
- Phương pháp: Thuyết trình, vấn đáp, trực quan.
- Phương tiện: Đàn, đài, đĩa, bảng phụ, phách.
2. Học sinh:
- Sách giáo khoa, vở ghi chép nhạc.
- Học bài cũ, chuẩn bị bài mới.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC :
1. Tổ chức: Kiểm tra sĩ số
Lớp 7A:
7B:
2. Bài cũ:
Gọi 2 HS đọc bài TĐN số 2
GV nhận xét, cho điểm.
3. Bài mới:
a.Giới thiệu bài học :
Tiết trước chúng ta đã biết thế nào là nhịp 4/4, đã cùng nhau học xong bài TĐN
số 3. Để các em có thể hiểu biết hơn về Âm nhạc cũng như đọc nhạc tốt hơn,


hơm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nhịp lấy đà, học bài TĐN số 3 và tìm
hiểu về một vài nhạc cụ phương Tây.
b. Dạy học bài mới
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động 1: Nhạc lí: Nhịp lấy đà

GV ghi bảng
HS ghi bài
- GV hát 2 câu hát đầu tiên trong 2 bài
(vừa hát vừa đánh nhịp) bài Mái trường
mến u (Khơng có nhịp lấy đà). và bài Lí
cây đa ( Có nhịp lấy đà)
- HS nghe và nhận biết sự khác nhau của
phách đầu tiên trong hai bài hát này.
- GV cho HS quan sát hai bài TĐN số 2
và số 3 để nhận biết sự khác nhau của 2
nhịp đầu.
- Các ô nhịp trong một bản nhạc đều có
đủ số phách theo quy định của số chỉ
nhịp. Ơ đầu có thể thiếu.
? Nhịp lấy đà là nhịp ntn? -> Là ô nhịp
đầu tiên của một bản nhạc hay bài hát
không đủ số phách theo quy định của số
chỉ nhịp.
? Lấy VD về nhịp lấy đà và cho biết
nhịp lấy đà đó thiếu mấy phách…
Hoạt động 2:
- TĐN số 3: Đất nước tươi đẹp sao
GV ghi bảng
HS ghi bài
? Nhận biết ô nhịp đầu tiên -> Nốt Sol
đen ở nhịp đầu là nhịp lấy đà.
? Nhận xét cao độ.
-> Son - La - Si - Đô - Rê - Mi - Fa

Hoạt động của học sinh

I. Nhạc lí: Nhịp lấy đà
- Cả lớp thực hiện theo sự hướng dẫn
của giáo viên
-Phát biểu và nhận xét
* Giải thích phách thiếu trong ví dụ:

II. TĐN số 3: Đất nước tươi đẹp sao
Nhạc: Malaixia
Lời Việt: Vũ Trọng Tường

-Hs thực hiện

? Nhận xét trường độ.
->

,

,

-HS đọc thang âm

,

- GV hướng dẫn cho HS thực hiện âm
hình tiết tấu:

4
4

- Trong bài có sử dụng nhiều đảo phách.


-> Nhắc lại, khung thay đổi.
-HS nghe và đọc theo sự hướng dẫn


- GV cho HS luyện thang âm:
Đô - Rê - Mi - Fa - Son

? Các kí hiệu âm nhạc được sử dụng trong
bài?
- Cho HS đọc nhạc từng câu. Mỗi câu
đàn 2, 3 lần cho HS nghe. Gọi 1, 2 em
đọc mẫu. Bắt nhịp cho HS đọc.
- Chỉ định nhóm, cá nhân đọc lại câu
nhạc vừa đọc. GV chú ý sửa sai.
- GV đánh nhịp cho lớp đọc nhạc toàn
bài 2 lần. HS đọc kết hợp gừ phỏch.
- Chia lớp thành 2 nhóm, 1 nhóm đọc
nhạc, một nhóm ghép lời, sau đó đổi lại.
GV đàn
GV đánh nhịp cho 1 lần.
*Chuyển giao nhiệm vụ học tập
Chia từng nhóm đọc nhạc v hỏt li ton
bi

ca giỏo viờn

- Cả lớp đọc theo sự hớng dẫn
của G


- Chia nhóm, tổ, cá nhân thực
hiện bài hát

*Thc hin nhim v hc tp
HS thc hin bài

-1 -2 HS đọc, quan sát

*Bỏo cỏo kt qu thc hin nhiệm vụ
học tập
u cầu một vài nhóm trình bày bài
*Đánh giá kết quả hoạt động

- HS trình bày theo nhóm

+ Sửa cha các chỗ HS hát sai.
- Nghe cảm nhận
+ Nhn xột chung
- GV đánh đàn từng tiết nhạc
cho HS tự đọc theo đàn
Hot ng 3: NTT: S lc v một
vài nhạc cụ phương Tây.
III. Âm nhạc thường thức: Sơ lược về
GV ghi bảng
một vài nhạc cụ phương Tây
HS ghi bài
? Qua tìm hiểu bài, hãy kể tên những
nhạc cụ phương Tây mà em biết.
-> Đàn piano, đàn vi-o-long, đàn ghi ta,
đàn ac-cooc-đe-ong …


? Cho biết đặc điểm cấu tạo (mỗi em nêu


một loại nhạc cụ)
- Khi giới thiệu 1 loại nhạc cụ, GV dựng
tranh ảnh cho HS nhận biết hình dáng
các nhạc cụ đó.
- Dùng các tiếng (Âm sắc) của đàn phím
điện tử để minh họa cho các em nghe.
- GV cho HS nghe một số trích đoạn tác
phẩm có sử dụng các nhạc cụ phương Tây
đó học.
? Kể tên những nhạc cụ phương Tây
khác mà em biết. -> Vi-o-la, vi-o-longxen

c, Luyện tập, củng cố:
- Nhắc lại các nội dung đà dạy.
- Nêu các kiến thức nhạc lý đà học.
- Đọc lại bài TĐN số 3, ghép lời ca
4 - Hoạt động nối tiếp:
- Trả lời câu hỏi trong SGK
- Ôn lại các nội dung, kiến thức đà học chuẩn bị cho giờ
sau: Ôn tập
5 - Dự kiến kiểm tra ®¸nh gi¸:
- Thế nào là nhịp lấy đà?
- Trình bày bài TĐN số 3?
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ NHÂN RỘNG
Môn học âm nhạc ở trường THCS mỗi tuần chỉ có một tiết, nhưng các em
được làm quen với việc học hát, tập đọc nhạc, nhạc lí, âm nhạc thường thức là

một tác động lớn vào thế giới tinh thần của các em.
Trong những năm chưa có điều kiện ứng dụng CNTT trong dạy học, thiết
bị dạy học chỉ có đàn Organ và máy cassette, một số học sinh có năng khiếu thì
việc học rất đơn giản nhưng đa số học sinh khác việc tiếp thu và thực hành âm
nhạc gặp rất nhiều khó khăn; vì vậy việc giáo dục văn hố âm nhạc cho các em
cịn nhiều hạn chế. Thông qua các tác phẩm âm nhạc, thông qua thực hành ca hát
giúp các em tiếp cận và lĩnh hội nghệ thuật nhưng thực tế do điều kiện cơ sở vật
chất, trang thiết bị còn thiếu thốn nên việc dạy học âm nhạc chưa đạt hiệu quả.


Từ khi nhà trường đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học với tất cả các môn
học, dần dần chất lượng giờ dạy được nâng cao, học sinh hứng thú hơn với môn
học và bước dầu đã đạt được những kết quả nhất định.
Với môn Âm nhạc, khi được học và thực hành âm nhạc bằng những thiết
bị công nghệ và các phần mềm được ứng dụng, đa số các em đều rất thích thú và
chất lượng thực hành cũng cao hơn hẳn. Giờ học nhạc được tiến hành nhẹ nhàng
hơn, lơi cuốn hơn. Các em có năng khiếu thì việc tiếp thu và thực hành bài học
trở nên đơn giản và chất lượng, các em chưa phát triển được năng khiếu cũng
tích cực hơn trong học tập. Đa số học sinh dần dần u thích mơn học hơn, như
trước đây số học sinh chưa phát triển năng khiếu âm nhạc thì giờ học nhạc đối
với các em rất khó khăn, thường hay né tránh khi giáo viên yêu cầu thực hành.
Trong những năm gần đây, thái độ của học sinh với mơn học trở nên tích cực
hơn, một tiết học âm nhạc có ứng dụng CNTT sẽ lơi cuốn các em, phương pháp
dạy học hiện đại đã được chứng minh qua kết quả cụ thể.
Học sinh ngày càng mạnh dạn hơn trong thực hành âm nhạc, yêu thích ca
hát và có thái độ đúng đắn với loại hình nghệ thuật này. Số học sinh đạt ở mức
khá, giỏi bộ môn âm nhạc ngày càng tăng, số học sinh yếu giảm; có thể năng
khiếu chưa phát triển tốt nhưng học sinh tích cực hơn trong học tập và chất
lượng bộ môn được nâng cao rõ rệt.
Cụ thể như sau: Học kỳ I năm học 2018 - 2019:

HS tham Khối 7
gia

Số HS hát đúng
giai điệu, sắc
thái phù hợp và
có động tác phụ
họa

Số HS hát
đúng giai
điệu, sắc
thái phù
hợp

Số HS hát
đúng giai
điệu

Số HS hát
chưa đúng
giai diệu

Tổng số

49

8

10


20

11

Tỷ số %

100%

16,3%

20,4%

40,8%

22,5%

Số HS hát đúng
giai điệu, sắc
thái phù hợp và
có động tác phụ
họa

Số HS hát
đúng giai
điệu, sắc
thái phù
hợp

Số HS hát

đúng giai
điệu

Số HS hát
chưa đúng
giai diệu

Học kì II năm học 2018 - 2019:
HS tham Khối 7
gia

Tổng số

49

10

12

23

4

Tỷ số %

100%

20,4%

24,5%


46,9%

8,2%


Từ kết quả khảo sát trên cho thấy việc ứng dụng CNTT trong dạy học
môn Âm nhạc đã đem lại kết quả khả quan:
Đối với HS: Học sinh có sự chuyển biến rõ rệt về ý thức học tập, yêu
trường yêu lớp hơn; Kiến thức, kĩ năng của HS được nâng lên. Phát hiện nhiều
em có năng khiếu để bồi dưỡng; HS tự tin trước đám đông và sôi nổi hơn trong
các buổi sinh hoạt lớp và sinh hoạt ngoại khố; Trong những năm gần đây
trường tơi đã có rất nhiều học sinh được tham gia Hội thi văn nghệ cấp huyện,
cấp tỉnh đều đạt giải cao.
Đối với giáo viên: Tạo bước chuyển về nhận thức của giáo viên trong
công tác giảng dạy. Giải quyết dần những vướng mắc khi thực hiện dạy học kết
hợp sử dụnsg CNTT cho học sinh Tiểu học và học sinh Trung học cơ sở; Thực
hiện có hiệu quả cơng tác dạy học cho học sinh, đảm bảo theo yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy và học ứng dụng CNTT. Góp phần vào sự phát triển của nhà
trường và sự phát triển chung của toàn xã hội.
Đây là một mơn học mang tính đặc trưng riêng nên học sinh cần phải có
năng khiếu và lịng đam mê với mơn nghệ thuật này. Ngồi ra cần phải có
phịng học chức năng, trang thiết bị nghe nhìn, thêm một số tranh ảnh, tài liệu
phục vụ môn học được đầy đủ và phong phú hơn.
IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Từ thực tế giảng dạy và trên cơ sở kết quả đã đạt được qua việc áp dụng
các biện pháp nói trên, bản thân tơi đúc rút ra một số giải pháp để thực hiện sáng
kiến nêu ra có hiệu quả như sau:
Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho học
sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.

Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tớch cực chủ
động sáng tạo của học sinh.
Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ mơn, có phương pháp dạy học linh
hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy từng phân mơn theo hướng
tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh
động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học.
Phương tiện dạy học phải đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng phương tiện
dạy học như một yếu tố gây xúc cảm.
Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu đến hết tiết học,
tạo cho các em sự hứng thú vui tươi bởi vì đặc trưng bộ mơn đó là học vui - vui
học, tránh gò ép đối với học sinh.
Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp, trong trường bằng hình thức
tổ chức hội thi văn nghệ ngoại khóa.


×