Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN TCCT xây DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THEO NGHỊ QUYẾT đại hội XIII của ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.92 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN
HỌC VIỆN

HỌ VÀ TÊN:
ĐƠN VỊ: NGÂN HÀNG TMCP ĐÀU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

CHỦ ĐỀ 2:
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam theo Nghị Quyết Đại Hội XIII của Đảng

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC MÔN:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 2/2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG, HOÀN
I.
THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


1.2.
Việt Nam
LIÊN HỆ VÀO XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
II.
VIỆT NAM THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII
CỦA ĐẢNG
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
2.1.
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Các giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
2.2.
xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XIII
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
2
4
4
9
17
18


MỞ ĐẦU

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành từ thời cổ đại, bởi các nhà
tư tưởng phương Tây, hay tư tưởng pháp trị tại Trung Hoa cổ đại, nhưng mãi đến
khi nhà nước tư sản ra đời, với sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản, nhà nước
pháp quyền mới từ nhà nước ý tưởng dần trở nên một nhà nước hiện thực. Về
phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền với tính cách là những giá trị phổ
biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, gắn liền với một nền dân
chủ, nhưng không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của
nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia và cũng khơng
thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mơ hình chung thống
nhất cho mọi quốc gia, dân tộc mà nó tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính
trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển để xây dựng cho mình một mơ hình nhà
nước pháp quyền thích hợp.
Quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước là đòi hỏi khách quan. Đảng ta
khẳng định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Ở đó quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát
huy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhà nước đó, dân chủ được
bảo đảm bằng pháp luật, dân chủ đi đơi với kỷ cương trật tự, được thể chế hố
bằng pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam biểu hiện trực tiếp sức mạnh của của hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền
lực của nhân dân, mọi tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do
đó, bằng pháp luật và vì cơng lý. Điều đó đã được thực tiễn chứng minh từ khi
nhà nước ra đời đến nay. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Xây dựng, hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1



NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử
nhân loại là nhà nước đảm bảo tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã
hội, trong đó pháp luật phải là ý chí chung, phản ảnh lợi ích chung của nhân dân,
pháp luật phải bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Bộ máy nhà nước tổ
chức và thực hiện có hiệu quả các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; ngăn
chận sự lạm quyền, lạm quyền từ phía nhà nước.
Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với
một giai cấp mà là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thực hiện quản lý
xã hội theo pháp luật, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Tiếp thu những tiến bộ khoa học về nhà nước pháp quyền đồng thời quán
triệt quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật kiểu mới có thể khái quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam như sau:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân;
quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; nhà nước tổ chức, hoạt động theo pháp luật,
quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của Nhân dân; do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước Nhân dân và sự
giám sát của Nhân dân.
1.2. Các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam


2


Các nghị quyết của Đảng, nhất là nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) đã nêu lên những quan điểm cơ bản và
phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết
định đó. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước
trong thời kỳ mới, trong các văn kiện của Đảng của đã nhấn mạnh một số chủ
trương, nhiệm vụ với các yêu cầu sau đây:
Một là, Xây dựng được một Nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân, bảo đảm thực hiện ngày càng đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước phải đảm bảo tất cả
quyền lực thuộc về Nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con
người của nhân dân, tất cả vì hạnh phúc của Nhân dân.thơng qua các hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để Nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ
Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của Nhân dân đối với hoạt động của cơ
quan và cán bộ, công chức nhà nước.
Hai là, Xây dựng một Nhà nước có đủ năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã
hội có hiệu quả, phát huy được mọi tiềm năng, lợi thế của dân tộc; đồng thời tiếp
thu hợp lý những thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và
những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Ba là, Xây dựng Nhà nước có bộ máy gọn nhẹ, được tổ chức chính quy, có
quy chế làm việc khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát và điều hành được hoạt
động của xã hội, cũng như hoạt động của bản thân bộ máy nhà nước.
Bốn là, Xây dựng Nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện hiệu
quả quản lý xã hội theo pháp luật, giữ vững kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội,
bảo đảm an ninh, quốc phòng, nảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Năm là, Xây dựng Nhà nước có đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước trong
sạch, tồn tâm, tồn ý, thật sự là công bộc, tận tuỵ phục vụ Nhân dân; có trách

nhiệm với Nhân dân, đồng thời có bản lĩnh chính trị, năng lực quản lý, loại trừ
được bệnh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, vi phạm quyền làm chủ
của Nhân dân.
3


Sáu là, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xây dựng và
hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính
chất của các cơ quan nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự lãnh đạo của các tổ chức
đảng đối với việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.
Bảy là, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân phải trở thành định hướng, yêu cầu bao trùm toàn bộ
tổ chức, hoạt động của Nhà nước, đồng thời là trách nhiệm của Đảng, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận và của mọi công dân.
Các yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện
đại đồn kết dân tộc và đồn kết dân tộc mà nịng cốt là liên minh cơng nhân,
nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các yêu cầu
trên đòi hỏi cần đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, trong cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cũng như trong đổi mới cơ chế vận hành của Nhà nước.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân từ khi ra đời cho đến nay,
luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, coi
trọng việc xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện quan trọng
trong quản lý Nhà nước.
II. LIÊN HỆ VÀO XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI
HỘI XIII CỦA ĐẢNG
2.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay
* Nhà nước của nhân dân
Ở nước ta hiện nay, quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Hiến Pháp năm
2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
4


giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Để đảm bảo thực
thi quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay, cần phải xây dựng nhà nước pháp
quyền thật sự của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp xác định: “Nhà nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Trước hết, cần phải xác định rõ ràng rằng: Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là nhà nước mà ở đó mọi
quyền lực Chính trị - quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, được tổ chức tập
trung thành Nhà nước và “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Quyền lực chính trị là do Nhà nước
nắm giữ, nhưng quyền lực ấy là của nhân dân giao cho. Chính nhân dân là người
tổ chức ra nhà nước và trao quyền lực cho Nhà nước. Nhà nước là công cụ của
nhân dân, thay mặt nhân dân để thực thi quyền lực chính trị mà nhân dân giao
cho. Muốn quản lý và điều hành tốt xã hội, Nhà nước phải thông qua nhân dân,
tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, kiểm tra, kiểm
soát và giám sát hoạt động của Nhà nước. Chính nhân dân là người quản lý nhà
nước và xã hội, đồng thời, là người tổ chức và thực thi quyền lực chính trị quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đó là nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng “Bao nhiêu quyền hạn đều vì
dân” [2, tr.209]. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nguồn gốc của
quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Để nhà nước thực sự của dân, Hồ

Chí Minh yêu cầu không chỉ thể hiện bằng những khẩu hiệu trìu tượng, mà phải
xác lập bằng một cơ chế khoa học. Đó là cơ chế nhân dân tạo ra quyền lực nhà
nước một cách dân chủ, nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước một
cách hữu hiệu và nhân dân có quyền thu hồi lại quyền lực nhà nước nếu có sự
tha hố từ chính cán bộ của nhà nước.
Để xây dựng nhà nước, ngay từ khi giành được độc lập, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cụ thể hóa bằng cách tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, nhà nước
do nhân dân bầu ra, chính quyền từ trung ương xuống địa phương đều do dân
5


bầu. Đó là nhà nước pháp quyền, hợp hiến, dân chủ, hợp pháp, đề cao tính hiệu
quả, hiệu lực trên thực. Thực hiện chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhanh chóng thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ là xây dựng và hoàn thiện thể chế
cho nhà nước mới, ban hành và thực thi trong thực tế và được hoạt động trên cơ
sở pháp luật, những quy định cụ thể.
Để thực hiện quyền của dân, nhà nước kiểu mới được Chủ tịch Hồ Chí
Minh xây dựng trên cơ sở có những cơ chế bảo đảm nhân dân có quyền kiểm
sốt đối với đại biểu của mình đã bầu ra. Xây dựng cơ chế để làm cho tất cả
các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở là phải dựa vào nhân dân,
lắng nghe ý kiến, chịu sự kiểm sốt chặt chẽ của nhân dân, chính quyền phải
liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một
yêu cầu để nhà nước thực hiện đúng theo nguyên tắc, đúng theo luật, khơng bị
lạm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng các cơ chế để nhân dân có
quyền bãi bỏ các địa biểu quốc hội hay đại biểu hội đồng nhân dân nếu vi
phạm pháp luật, khơng làm trịn chức trách, nhiệm vụ.
* Nhà nước do nhân dân
Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng và là người sáng
tạo ra lịch sử, sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần nuôi sống xã hội. Trong sự
nghiệp cách mạng của mọi thời đại, nhân dân giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong

việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị của chế độ chính trị xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật, tơn trọng tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Hiến pháp quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Theo đó, Nhà nước pháp quyền là cơng cụ
quyền lực của nhân dân, do nhân dân tổ chức ra, thay mặt nhân dân, thực thi
quyền lực chính trị được nhân dân giao cho. Điều quan trọng, cốt yếu trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là phải đảm bảo tuân thủ
6


đúng Hiến pháp và pháp luật, lấy pháp luật làm tiêu chí chung để kiểm sốt, điều
hành và quản lý xã hội và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới phương
thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hồn thiện mơ hình tổ chức của Nhà
nước, phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi
trọng kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Cần nhận
thức rõ ràng rằng: Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì
quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Tính
thống nhất quyền lực tập trung cao nhất là ở Quốc hội. Quốc hội được xác định
là “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được nhân dân giao cho
nắm giữ toàn bộ quyền lực trong bộ máy nhà nước. Trong quá trình tổ chức và
thực thi quyền lực chính trị ấy, Quốc hội thực hiện việc phân cơng, giao quyền
cho các cơ quan nhà nước khác và “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân

theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội” của các cơ quan khác của Nhà
nước. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước cùng phối hợp với nhau để thực thi
quyền lực mà nhân dân giao cho, đồng thời, chịu trách nhiệm và báo cáo với
nhân dân trong quá trình thực thi quyền lực của mình. Chính sự phân cơng và
phối hợp chặt chẽ đó đã tạo nên sự thống nhất, thông suốt, đồng bộ và hiệu quả
trong việc thực thi quyền lực nhà nước.
Nhà nước do dân là phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước.
Hồ Chí Minh khẳng định “Khơng có nhân dân thì nhà nước khơng có đủ lực
lượng”, “Lực lượng bao nhiêu là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của nhân dân” [3, tr.167]. Như vậy, nhân dân ở đây đóng vai trị là
lực lượng của mọi hoạt đơng xây dựng và bảo vệ đất nước, còn nhà nước đóng
vai trị dẫn đường. Nhà nước có nhiệm vụ “đem tài dân, sức dân, của dân để làm
lợi cho dân. Nhà nước phải tạo khung pháp lý để cho nhân dân tự do lao động
7


sáng tạo, để tự ni bản thân họ và có trách nhiệm đóng góp cho nhà nước như
nộp thuế để nươi bộ máy nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ tổ chức sắp đặt kế
hoạch để mỗi công dân phát huy tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong chiến tranh cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
mọi thắng lợi của các phong trào cách mạng đều xuất phát từ lực lượng nhân
dân. Sự đóng góp của nhân dân đối với nhà nước khơng ngồi mục đích là lấy
tài dân, sức dân để làm những việc cho dân. Nó vừa là nghĩa vụ vừa là trách
nhiệm, tình cảm của mỗi người dân.
* Nhà nước vì nhân dân
Trước hết nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người và quyền
công dân trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị , xã hội, đảm bảo quyền làm chủ
của nhân dân trong phạm vi cả nứơc, từng địa phương, từng cơ sở và tập thể lao
động. Trong thực tế, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc thảo luận, phát huy
sáng kiến và tìm cách giải quyết mọi vấn đề của nhân dân. Người chỉ rõ rằng:

“Nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa
vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta” 4, tr.188].
Nhà nước vì dân thể hiện ở tinh thần “bao nhiêu lợi ích đề vì dân” để thực
sự nhà nước vì dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ; các cơ quan của chính phủ, cán bộ từ
trung ương đến cơ sở là người “đầy tớ”, “công bộc” của nhân dân, ở đây cũng
phải hiểu rằng “đầy tớ” khơng có nghĩa là người ăn ở phục dịch “bị sai khiến”
mà là những công chức chuyên thực thi công vụ (tức là việc cơng) trong các cơ
quan nhà nước, khơng vì tư lợi, mà vì lợi ích của tồn thể nhân dân , trước hết là
nhân dân lao động. Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu” việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Người nhấn mạnh: “phải
thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ” [5, tr.171]. Cán bộ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là người phải là cho dân yêu, dân yêu, không tự kiêu, không
mắc các bệnh làm quan cách mạng, phải siêng năng, siêng nghe, siêng đi, siêng
nghĩ và siêng làm. Một nhà nước vì dân khơng chỉ thể hiển trên lời nói mà phải
bằng những việc làm thiết thực như: bảo đảm nhu cầu của nhân dân về ăn, mặc,
ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, quyền tự do dân chủ. Nhà nước phấn đấu không
8


ngừng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, ban hành nhiều
chế độ chính sách như; xố đói giảm nghèo, xây dựng quỹ giúp đỡ những gia
đình chính sách, người có cơng với cách mạng, người già cơ đơn, người khơng
cịn nơi lương tựa, người tàn tật…để mọi người đều được hưởng những quyền
lợi như những người khác.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ln xác định mục tiêu
cao cả nhất là vì con người, mọi hoạt động của Nhà nước luôn hướng tới mục
tiêu phục vụ con người - chủ thể sáng tạo xã hội. Để đảm bảo thực thi đúng, đủ
quyền lực mà nhân dân giao, trong quản lý và điều hành xã hội, nhà nước thực
hiện mở rộng dân chủ hóa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, gắn với kỷ luật, kỷ cương và tăng cường pháp chế, đảm

bảo cho nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. “Nhà nước
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Từng bước tạo điều kiện cho
nhân dân nắm bắt và làm chủ xã hội, trước hết là kinh tế, đến chính trị và thực
sự trở thành chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Nhà nước pháp quyền phải đấu tranh, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ và
lợi ích hợp pháp của nhân dân, giải quyết hài hòa, kịp thời những yêu cầu, kiến
nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân theo đúng quy định của pháp luật.
2.2. Các giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
Một trong những thành tố chủ đề mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng nhấn mạnh là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Trong hệ thống chính trị của chúng ta
có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặc biệt quan tâm.
9


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng định hướng: “Xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển
của đất nước. Tăng cường cơng khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm
sốt quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà
nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội” [1, tr.118].
Trên cơ sở định hướng này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định

mục tiêu chung là: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” [1, tr.174]. Để thực
hiện được mục tiêu này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đề ra 08 giải
pháp cụ thể để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể như sau:
Một là, Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước. Giải pháp này xuất phát từ thực tế chúng ta còn lúng
túng trong việc xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Mặt khác,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết: Cơ chế kiểm soát
quyền lực chưa được phát huy mạnh mẽ. Vì vậy, trong nội dung phương hướng,
nhiệm vụ thứ 10 về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
kiến tạo phát triển, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: Xác định
rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà
nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Đây là nhiệm vụ, cũng là giải pháp hết sức quan trọng, bởi thực hiện được
giải pháp này thì chức năng của từng cơ quan nhà nước sẽ rõ ràng, không chồng
10


chéo, khơng bỏ sót; như vậy, hoạt động của bộ máy nhà nước mới thống nhất và
hiệu quả. Khi các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được xác định rõ
ràng thì việc phối hợp, kiểm sốt quyền lực mới hiệu quả, tránh được tình trạng
lạm quyền, lộng quyền, độc đốn hoặc bng lỏng quyền lực. Tuy nhiên, quyền
lực của Nhà nước Việt Nam là quyền lực của Nhân dân, do vậy không thể dùng

quyền lực của Nhân dân phân chia cho cơ quan, bộ phận nào của Nhà nước.
Quyền lực nhà nước của chúng ta về bản chất luôn là thống nhất.
Hai là, Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”. Giải pháp này cũng xuất phát
từ thực tế việc xây dựng hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ, thiếu kịp thời,
nhiều điều luật thiếu tính khả thi. Tổng kết việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá:
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời
yêu cầu thực tiễn. Rõ ràng, nếu thiếu cơ sở pháp lý, thiếu hệ thống pháp luật thì
hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế, xã hội sẽ khó khăn,
khơng hiệu quả.
Do vậy, nhiệm vụ quan trọng thứ hai trong xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII đề ra là xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Trong quá trình xây dựng pháp
luật, phải lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững làm mục tiêu. Đây vừa là giải pháp, vừa là định hướng quan
trọng trong xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Ba là, Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
11


động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và
hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những

vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Để thực hiện được giải pháp
này, cần tiếp tục thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập
trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân; hồn thiện
cơ chế bảo vệ Hiến pháp, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ
chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Gắn với nhiệm vụ
này cần “đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến
pháp năm 2013”.
Thứ hai, thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Với Mặt trận Tổ
quốc, cần “thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên, tích cực tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước”. Đối với Nhân dân, phải thực hiện tốt, có hiệu quả
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”.
Thứ ba, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc
hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm đại biểu hoạt
động ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.
Bốn là, Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ,
pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh
bạch”. Để thực hiện tốt giải pháp này cần thực hiện tốt năm biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
Thứ hai, phát huy đầy đủ vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng
thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích
12



và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa
Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền
địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn.
Thứ tư, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
Thứ năm, nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại
các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt
động hiệu quả.
Năm là, Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện
đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện tốt bốn biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045,
trong đó có Chiến lược xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động và uy tín của Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều
tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng
tư pháp.
Thứ tư, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện
theo luật định; phịng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động tội phạm và
vi phạm pháp luật. Trong đó tiếp tục: Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Sáu là, Tiếp tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với

địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật
13


định. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần triển khai thực hiện tốt ba biện pháp cụ
thể sau:
Một là, thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây
dựng và vận hành các mơ hình quản trị chính quyền đơ thị theo hướng tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hai là, gắn kết và đổi mới tổ chức, bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp.
Ba là, cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ
ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân
sách Trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương.
Bảy là, Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất,
năng lực, uy tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước. Để thực hiện
được giải pháp này, cần thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đơi với cải cách tiền lương, chế
độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, phục vụ phát triển.
Thứ hai, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến
khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi
mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành
động vì lợi ích chung.
Thứ ba, có cơ chế sàng lọc thay thế kịp thời những người khơng hồn
thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị
xử lý kỷ luật, khơng cịn uy tín đối với Nhân dân.
Tám là, Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành
pháp luật. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện ba biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều

kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành
pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính, kiện tồn tổ chức, tinh giản hợp lý
đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế.
14


Thứ ba, tích cực thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường kết
nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền
với người dân và doanh nghiệp.
Qua phân tích các nội dung nêu trên cho thấy, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng đã đề ra hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ.
Các giải pháp này có quan hệ, tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Giải pháp
đầu tiên tập trung xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp và kiểm soát quyền lực. Trên cơ sở xác định rõ chức năng, vai trò,
vị trí từng cơ quan thì mới thực hiện các giải pháp khác được. Giải pháp thứ hai
tập trung vào xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Nghĩa là hình thành thể chế, cơ sở pháp lý
cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả nhất.
Giải pháp thứ ba tập trung vào đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo
đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, cơ quan lập pháp và cơ quan giám sát tối cao của Nhà
nước. Giải pháp thứ tư tập trung vào xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ
Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh,
công khai, minh bạch. Thiếu nền hành chính này thì Nhà nước khơng thể thực
hiện tốt chức năng quản lý của mình. Giải pháp thứ năm tập trung xây dựng nền
tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính,

phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Giải pháp thứ sáu tập trung hồn thiện tổ
chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn
vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định. Giải pháp thứ bảy tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ Nhân
dân và sự phát triển đất nước. Giải pháp thứ tám tập trung kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.
15


Nội dung các giải pháp mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng đề ra cho việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam cho thấy những điểm mới về tính hệ thống, tính đồng bộ,
tồn diện nhưng cũng cụ thể hơn so với các kỳ Đại hội trước đây của Đảng. Đây
là kết quả kế thừa tinh thần các kỳ Đại hội trước, đồng thời là kết quả tổng kết
thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

16


KẾT LUẬN
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ trương,
đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất
yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Từ các quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nhận thức, quan điểm của Đảng ta về các đặc trưng cơ bản, về các
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được hình thành, phát triển và hồn thiện dần qua các văn kiện, nghị
quyết của Đảng và được thể chế, cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là q trình

lâu dài, địi hỏi Đảng ta phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, khơng ngừng bổ sung,
hồn thiện hệ thống lý luận; phải thực hiện đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt
động lập pháp, hành pháp, tư pháp; đổi mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa và giáo dục, khoa học và công nghệ... đổi mới tổ chức, bộ máy
nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức. Vì vậy, ngồi việc xây dựng
chiến lược, xác định chủ trương, giải pháp đúng đắn phải có kế hoạch và bước đi
thích hợp. Điều quan trọng nhất là thống nhất nhận thức, biến thành quyết tâm
thực hiện trong ồn bộ hệ thống chính trị. Chỉ có trên cơ sở đó mới có thể xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011.

18



×