Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN CCCT vị trí và chức năng của gia đình trình bày những biến đổi cơ bản của gia đình việt nam hiện nay và phương hướng xây dựng gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.07 KB, 17 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH. TRÌNH BÀY
NHỮNG BIẾN ĐỔI CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1.1.

1
2
2

Vị trí, vai trị của gia đình trong chủ nghĩa xã hội


2

Chức năng cơ bản của gia đình trong chủ nghĩa xã hội
NHỮNG BIẾN ĐỔI CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG
II.
GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1.
Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay
Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ
2.2.
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3

1.2.

5
5
10
14
15


MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, có vị trí, vai trị to lớn đến sự phát triển của
xã hội. Dưới chủ nghĩa xã hội việc xây dựng gia đình càng có ý nghĩa quan

trọng trong q trình thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa cần nghiên cứu, nắm vững và thực
hiện đầy đủ các nội dung hôn nhân tự do, tiến bộ và phương hướng xây dựng gia
đình mới ở nước ta hiện nay. Xây dựng gia đình ấm no, hồ thuận, tiến bộ là chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là nguyện vọng lớn của tất cả mọi người.
Quân đội nhân dân Việt Nam có vai trị quan trọng đối với việc xây dựng gia
đình mới xã hội chủ nghĩa, đây vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cán bộ
và chiến sĩ chúng ta.
Q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đã mang lại cho xã hội Việt
Nam những tác động và thay đổi không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên
lĩnh vực văn hóa - xã hội. Gia đình - đơn vị cấu thành cơ bản của xã hội tất yếu
sẽ có những biến động, những đổi thay trên nhiều khía cạnh. Đây chính là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các vấn đề phức tạp trong
gia đình và xã hội Việt Nam. Làm thế nào để giải quyết những vấn đề trên và
xây dựng gia đình Việt Nam trở thành “nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững của xã hội, sự thành công của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước” [1, tr.9] là câu hỏi đã và đang đặt ra cho xã hội nói chung và cho mỗi
chúng ta nói riêng.
Trong chiến lược phát triển xã hội, gia đình được coi là một trong những
vấn đề cần được quan tâm. Đó là một mơi trường có ảnh hưởng và tác động trực
tiếp hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của cá nhân và xã hội. Vì vậy, nghiên
cứu vấn đề “Vị trí và chức năng của gia đình. Trình bày những biến đổi cơ
bản của gia đình Việt Nam hiện nay và phương hướng xây dựng gia đình
Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” làm đề tài tiểu luận có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG

I. VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1.1. Vị trí, vai trị của gia đình trong chủ nghĩa xã hội
Quan niệm về gia đình. Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc
biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở hơn nhân và huyết
thống. Gia đình gồm các mối quan hệ cơ bản: quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha
mẹ với các con và quan hệ giữa các anh chị em. Đặc trưng cơ bản của các mối
quan hệ đó là quan hệ tình nghĩa. Quan hệ tình nghĩa phản ánh rất rõ tình cảm,
nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi thành viên trong gia đình đối với nhau, bản chất
trong các mối quan hệ của gia đình đó là quan hệ hơn nhân và huyết thống.
Vị trí, vai trị của gia đình dưới chủ nghĩa xã hội. Gia đình là tế bào, là
đơn vị tổ chức đầu tiên của xã hội và góp phần quyết định đến sự tồn tại, phát
triển của xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết
định trong lịch sử suy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp.
Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh
hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra
những thứ đó, mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử
nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết
định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ
phát triển của gia đình” [2, tr.317]. Nhận định đó cho thấy rõ vị trí, vai trị của
gia đình đối với xã hội.
Trong hệ thống cơ cấu xã hội có nhiều bộ phận khác nhau như: dân tộc,
giai cấp, các giới…, nhiều thiết chế lớn nhỏ như nhà nước, ngành, đồn thể…,
với tính cách là tế bào của xã hội, gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết
chế xã hội nhỏ nhất. Nhưng cơ cấu, thiết chế nhỏ này lại đa dạng và phong phú
trong quá trình vận động vừa tuân thủ theo những quy luật và cơ chế chung của
xã hội, vừa theo những quy định và tổ chức riêng mình. Có thể ví xã hội như là
một cơ thể sống hồn chỉnh và khơng ngừng biến đổi được sắp xếp, tổ chức theo
nhiều mối quan hệ, trong đó gia đình được xem là một tế bào, một thiết chế cơ
4



sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội, hình thành, vận động và biến đổi trên cơ sở
của một phương thức sản xuất nhất định và có vai trị quy định đối với gia đình.
Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thơng qua các hình thức kết cấu và quy mơ gia đình.
Mỗi gia đình hạnh phúc, hồ thuận thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại vận động
một cách êm thấm.
Gia đình là cầu nối giữa mọi thành viên trong gia đình và xã hội. Nhiều
thơng tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. Các tổ chức xã
hội, cơ quan, bạn bè… sẽ có nhận thức đầy đủ và tồn diện hơn về một người
nào đó khi nhận rõ hồn cảnh gia đình của người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã
hội khơng chỉ thơng qua hoạt động của gia đình để tác động đến con người,
nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi người được thực hiện với sự hợp tác chung của
gia đình. Qua đó, ý thức cơng dân của cá nhân được nâng cao và tạo nên sự gắn
bó chặt chẽ giữa gia đình với xã hội.
Gia đình là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho mỗi con người. Trong
gia đình, từ thuở lọt lịng cho đến hết cuộc đời, mỗi thành viên được ni dưỡng,
chăm sóc để trở thành công dân của xã hội. Cho nên, việc xây dựng gia đình
mới đáp ứng được vị trí, vai trị của gia đình là vấn đề quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Rất
quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội
là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý đến hạt
nhân cho tốt” [7, tr.185].
1.2. Chức năng cơ bản của gia đình trong chủ nghĩa xã hội
Xuất phát từ vị trí vai trị của gia đình trong chủ nghĩa xã hội, gia đình
được thể hiện ở các chức năng cơ bản sau đây:
Chức năng tái sản xuất ra con người. Đây là chức năng đặc thù của gia
đình. Chức năng này đáp ứng nhu cầu tình cảm riêng, rất tự nhiên của cá nhân là
sinh con, đồng thời mang ý nghĩa chung lớn lao là cung cấp những lớp người

mới, đảm bảo sự phát triển liên tục trường tồn của xã hội lồi người. Trong mỗi
gia đình, việc coi trọng chức năng sinh đẻ thể hiện ở việc trực tiếp quan tâm đến
5


điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi cho việc mang thai và sinh nở của các
bà mẹ. Việc sinh đẻ diễn ra ở từng gia đình nhưng lại quyết định mật độ dân số
của quốc gia và quốc tế, liên quan chặt chẽ đến quá trình phát triển mọi mặt của
đời sống xã hội.
Chức năng kinh tế của gia đình. Hoạt động kinh tế là chức năng quan
trọng của gia đình trong chủ nghĩa xã hội. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa
đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả
mãn các yêu cầu ăn, mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.
Dưới chủ nghĩa xã hội, chức năng kinh tế của gia đình được hướng vào
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tạo nguồn thu nhập chính đáng kết
hợp kinh tế gia đình với các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy nền kinh tế, xã
hội phát triển. Đối với nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước khuyến khích các
gia đình đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, làm giàu chính đáng,
đồng thời cũng có chính sách giúp đỡ các gia đình nghèo, các gia đình thuộc các
đối tượng chính sách… để mỗi gia đình Việt Nam đều có điều kiện thực hiện tốt
chức năng kinh tế.
Chức năng tổ chức đời sống. Đây cũng là một chức năng quan trọng của
gia đình dưới chủ nghĩa xã hội. Sự kết hợp giữa chức năng kinh tế với chức năng
tiêu dùng trong từng gia đình sẽ góp phần tổ chức tốt cuộc sống xã hội. Thơng
qua đời sống có tổ chức, có văn hố của gia đình mà rèn luyện cho các con biết
làm việc, học tập, vui chơi giải trí một cách hợp lý, có hiệu quả cao, biết sử dụng
thời gian và tiện nghi sinh hoạt có ích nhất. Sử dụng hợp lý các khoản thu nhập
chính đáng đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần tạo lập một cuộc sống hạnh
phúc. Đấu tranh với mọi biểu hiện của lối sống xa hoa, đồi trụy, tiêu pha lãng phí.
Chức năng giáo dục của gia đình.Sinh con nuôi nấng, dạy dỗ là những

hoạt động không thể tách rời nhau trong gia đình. Dưới chủ nghĩa xã hội chức
năng này luôn được quan tâm đúng mức và trở thành nhiệm vụ thường xuyên
trong giáo dục, xây dựng con người mới. Khi còn nhỏ, phần lớn thời gian trẻ em
sống với gia đình, chịu tác động của giáo dục gia đình. Sự tác động của ơng bà,
cha mẹ, anh chị đối với con em về mọi mặt là những yếu tố quan trọng trong
6


việc nuôi dạy thế hệ trẻ. Kết hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội là
phương châm chỉ đạo của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhà nước và các tổ
chức xã hội phải không ngừng tuyên truyền, bồi dưỡng tri thức, nâng cao năng
lực, phương pháp giáo dục cho các bậc cha mẹ, mặt khác các bậc cha mẹ cần
nhận thức đúng việc nuôi dạy các con là nhu cầu tình cảm tự nhiên, là bổn phận
và nghĩa vụ đối với xã hội. Mọi sự nuông chiều quá mức hoặc đánh đập, mắng
nhiếc sẽ tạo cho các con những thói hư, tật xấu như ích kỷ, ngại gian khổ, hèn
nhát, thậm chí có thể trở thành hung hãn, lừa dối, trộm cắp. Điều 34 Luật Hơn
nhân và gia đình nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Cha mẹ
có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc học tập và sự
phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con
hiếu thảo của gia đình, cơng dân có ích của xã hội ” [6, tr.4]. Nâng cao trách
nhiệm và chất lượng giáo dục các con theo chuẩn mực con người mới xã hội chủ
nghĩa là yêu cầu bức thiết đối với mọi gia đình Việt Nam hiện nay.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm - sinh lý. Nhiều vấn đề tâm - sinh lý
thuộc giới tính, thế hệ… cần được bộc lộ và giải quyết trong phạm vi gia đình và
những người thân. Sự hiểu biết tâm - sinh lý cá nhân, sở thích của nhau để ứng
xử phù hợp, chân thành và tế nhị, tạo bầu khơng khí tinh thần ổn định trong gia
đình, làm cho các thành viên đều có điều kiện sống lạc quan và tích cực.
II. NHỮNG BIẾN ĐỔI CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1. Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tồn cầu hóa,
hội nhập quốc tế, gia đình Việt Nam đang chịu những tác động nhiều chiều và
biến đổi mạnh mẽ. Việc phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền
thống trong thời đại ngày nay, khắc phục những hệ quả tiêu cực do cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mang lại là u cầu bức thiết của tồn xã
hội. Gia đình Việt Nam đang trong bước chuyển đổi từ truyền thống sang hiện
đại trên nhiều phương diện và xu hướng khác nhau. Đó là sự biến đổi mang tính
7


tồn diện cả về hình thái, các chức năng, mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình và vai trị của người phụ nữ trong gia đình.
Một là, Sự biến đổi của hình thái gia đình.
Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại gia
đình được hình thành từ nền văn hóa bản địa, chứa nhiều yếu tố dường như bất
biến, ít đổi thay. Theo đó, hình thái gia đình phổ biến là gia đình mở rộng gồm
nhiều thế hệ các thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống và
thường bị chi phối bởi chế độ “gia trưởng”. Trong quá trình phát triển, gia đình
truyền thống đã thể hiện được các ưu điểm về sự gắn bó tình cảm giữa các thành
viên trong gia đình; về vấn đề bảo lưu các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ
và phát huy tốt nề nếp gia phong, gia đạo. Tuy nhiên, gia đình truyền thống lại là
một trong những nhân tố tham gia vào quá trình kìm hãm năng lực phát triển
của các cá nhân, đặc biệt là dưới tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, gia đình truyền thống có vẻ khơng cịn là khn
mẫu của gia đình hiện đại. Sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự
hình thành hình thái gia đình mới là một điều tất yếu.
Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, mơ hình hộ gia đình 2
thế hệ (gồm cha mẹ và con cái) - gia đình hạt nhân tồn tại khá phổ biến ở Việt
Nam (chiếm tỉ lệ 63,4%). Hộ gia đình 3 thế hệ trở lên - gia đình mở rộng có xu

hướng giảm. Trong đó, mơ hình gia đình qui mơ nhỏ có xu hướng phổ biến ở
thành thị hơn nơng thơn và ở nhóm hộ giàu hơn hộ nghèo; tỷ lệ hộ gia đình có 3
thế hệ ở nông thôn thấp hơn thành thị [8, tr.3].
Hai là, Sự biến đổi chức năng của gia đình.
Từ cách tiếp cận xã hội học, xét về bản chất, gia đình có 4 chức năng cơ
bản (sinh sản, giáo dục, kinh tế và tâm lí - tình cảm). Do sự va chạm giữa yếu tố
truyền thống và yếu tố hiện đại, sự chênh lệch giữa tốc độ biến đổi của cơ cấu
xã hội và tốc độ biến đổi của gia đình, chức năng của gia đình Việt Nam có
những biến đổi theo phương thức khác với gia đình phương Tây trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, về chức năng sinh sản, đại bộ phận người dân Việt Nam vẫn
8


cho rằng sinh con là một chức năng quan trọng của gia đình. Tuy nhiên, đã có
một sự chuyển đơi nhận thức rất rõ về số con.
Thứ hai, về chức năng giáo dục - chức năng này được tăng cường hơn bao
giờ hết và trở thành một trách nhiệm nặng nề mà gia đình phải gánh vác.
Thứ ba, về chức năng kinh tế của gia đình, có thể thấy rằng do q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mà gia đình và nơi làm việc
bị tách rời nhau về mặt khơng gian, theo đó chức năng sản xuất của gia đình
cũng suy giảm hoặc mất đi và chức năng tiêu dùng được tăng cường. Điều này
có thể dẫn đến lối sống của gia đình được quyết định tùy thuộc vào công việc
hay mức thu nhập của các thành viên trong gia đình và tiêu chuẩn tiêu dùng của
gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ thỏa mãn sinh hoạt của gia đình.
Đối với trường hợp của các gia đình ở nơng thơn thì chức năng sản xuất và chức
năng tiêu dùng của gia đình khơng bị phân chia rạch rịi nhưng dưới cơ chế xã
hội lấy việc sản xuất phục vụ cho sự trao đơi thì việc xản xuất tự cung tự cấp của
gia đình cũng bị suy giảm.
Thứ tư, về chức năng tâm lí - tình cảm, chức năng này dần dần đang được

xem trọng. Ở các gia đình phương Tây, khi tình yêu vợ chồng đã nguội lạnh thì
họ sẽ chia tay nhau do “khơng có lí do nào buộc họ phải sống với nhau”. Gia
đình ở Việt Nam thì khơng giống như vậy. Hầu hết các gia đình ở Việt Nam vẫn
cịn tồn tại vững chắc đặc tính “gia đình chế độ” - tức là, người vợ kì vọng vào
vai trò trụ cột về kinh tế và vai trò làm cha của người chồng hơn là kì vọng vào
tình yêu và sinh hoạt tình dục của vợ chồng. Cịn người chồng thì ưu tiên kì
vọng vào vai trị quản gia tài giỏi, đảm đang và vai trò làm mẹ của người vợ.
Tuy nhiên, cũng khơng ít biểu hiện cho thấy rằng, ở thế hệ trẻ, số người cho
rằng quan hệ vợ chồng quan trọng hơn quan hệ giữa cha mẹ và con cái ngày
càng tăng lên [8, tr.7].
Ba là, Sự biến đổi của chu kì gia đình.
Chu kì gia đình lấy việc gia đình cũng như cá nhân được tồn tại tiếp diễn
bởi sự lặp đi lặp lại của sinh và tử làm tiền đề và định ra giai đọan bước ngoặt:
là những trải nghiệm quan trọng mà gia đình gặp phải từ khi hai vợ chồng kết
9


hơn cho đến lúc chết đi. Chu kì gia đình bình thường được tiếp diễn bởi các giai
đoạn kết hơn, sinh con, ngừng sinh con, nuôi dạy con cho đến khi con cái rời
khỏi gia đình, kết thúc việc ni dạy con cái đến già nua và qua đời.
Sự biến đổi của chu kì gia đình thể hiện trước hết ở vấn đề kết hôn. Theo
kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2016, tuổi kết hơn trung bình có xu
hướng tăng lên trong những năm gần đây, tình trạng tảo hơn có xu hướng giảm.
Trong đó, tuổi kết hôn ở thành thị cao hơn ở nông thôn, những người làm các
cơng việc địi hỏi chun mơn cao thường kết hôn muộn hơn những người làm
công việc đơn giản, khoảng cách tuổi kết hơn của hai nhóm nghề nghiệp này là
2,9 tuổi với nam và 3,4 tuổi với nữ.
Sau khi kết hơn, điều quan trọng của chu kì gia đình là việc sinh con. Một
thực tế phổ biến rộng rãi là đối với người phụ nữ, việc làm mẹ gây nhiều biến
động trong cuộc sống hơn là việc làm vợ. Việc sinh con đầu lòng là sự kiện

mang lại cho gia đình niềm vui, sự diệu kì, nhưng đó cũng là những căng thẳng
và gánh nặng về tài chính và về việc thích ứng vai trị làm bố mẹ.
Một hiện tượng nổi bật trong số những biến đổi của chu kì gia đình là rút
ngắn thời gian hồn tất sinh sản. Thời gian từ sinh con đầu lòng đến khi sinh
người con cuối cùng đang có xu hướng ngày càng giảm. Do đó, tỉ trọng thời
gian dành cho việc ni dạy con cái trong tồn bộ khoảng thời gian kết hôn của
người phụ nữ cũng giảm dần.
Bốn là, Sự biến đổi về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng. Theo đó cả 3 mối
quan hệ cơ bản của gia đình (vợ - chồng; cha - con, anh - em) tuân theo một tơn
ti, trật tự chặc chẽ. Ví dụ: là vợ - chồng thì phải hịa thuận, thương u nhau,
phu xướng thì vợ phải tùy; là cha - con thì cha phải hiền từ, biết thương yêu và
nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái học tập, ngược lại, phận làm con
phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với
cha mẹ; là anh - em thì phải biết đồn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, anh
chị phải biết nhường nhịn, thương u em, cịn em thì phải biết nghe lời và lễ
10


phép với anh chị.
Theo dòng thời gian, mối quan hệ trên có những thay đơi đáng kể. Sức
nặng của tơn ti, trật tự khơng cịn nặng nề như trước mà thay vào đó là sự bình
đẳng hơn theo kiểu “trên kính dưới nhường” và đề cao sự tự do cá nhân.
Trước hết, số lượng con cái trong gia đình có xu hướng giảm, thu nhập
của gia đình lại tăng lên nên cha mẹ có điều kiện ni con tốt hơn. Bên cạnh đó,
cha mẹ đi làm suốt ngày, phần lớn ở xa nhà, ít có thời gian ở gần con, chăm sóc
và theo dõi việc học tập, vui chơi của con cái. Theo kết quả điều tra gia đình
Việt Nam 2006, có tới 80% trẻ em trong độ tuổi 15 - 17 khi được hỏi đã nói
rằng cha mẹ cho phép chúng tự đưa ra quyết định về mọi vấn đề liên quan tới

cuộc sống của mình. Vì nhiều lí do, trong đó có việc bận kiếm sống, 1/5 số ông
bố và 7% số bà mẹ hoàn toàn không dành thời gian cho việc chăm sóc, dạy dỗ
con cái [8, tr.8].
Năm là, Sự biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Trong xã hội hiện đại, vị thế của người phụ nữ nói chung đã được xã hội
xác nhận trên cơ sở bình đẳng giới nhờ vào kết quả của phong trào nữ quyền.
Người phụ nữ ngày càng có vai trị quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất, tiếp
cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ
hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình. Đồng thời, các thành viên gia đình và các
dịch vụ xã hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng cơng việc nội trợ gia đình đối
với người phụ nữ, góp phần thiết thực tạo điều kiện và cơ hội giúp phụ nữ phát
huy mọi tiềm năng của mình trong hội nhập và phát triển.
Sáu là, Sự thay đổi trong quan niệm của con người về giá trị gia đình.
Do những tác động của mơi trường tự nhiên và điều kiện lịch sử dựng
nước và giữ nước, con người Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau. Sự gắn kết của cá nhân với gia đình (và cao hơn là với làng,
xã, Tổ quốc) đã trở thành một trong những giá trị văn hóa cơ bản của dân tộc
Việt Nam. Với con người Việt Nam truyền thống, gia đình có vai trị hết sức
quan trọng. Gia đình khơng chỉ là nơi sinh sống, nuôi lớn mỗi cá nhân về thể
chất mà cịn là cái nơi ni dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách cho con người.
11


Gia đình là giá trị cao đẹp mà con người mong muốn vươn tới. Trong xã hội Việt
Nam truyền thống, gia đình hạnh phúc và đáng tự hào là gia đình có sự chung
sống của nhiều thế hệ kiểu “tam đại”, “tứ đại”, “ngũ đại” đồng đường. Trong đó,
hạnh phúc gia đình được duy trì trên cơ sở sự gắn kết hài hòa của các mối quan
hệ giữa các cá nhân, thế hệ với những tình cảm và chuẩn mực đạo đức, giá trị tốt
đẹp.
Làn sóng mạnh mẽ của xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế làm cho

nhận thức của con người về gia đình có nhiều thay đổi. Tinh thần tự do, chủ
nghĩa cá nhân lên ngôi đã khiến con người hướng đến cuộc sống độc lập. Gia
đình, đối với khơng ít người hiện nay, khơng cịn là giá trị duy nhất. Ngồi gia
đình, họ cịn nhiều mối quan tâm, nhiều giá trị khác để vươn tới. Hiện nay, ở
nước ta, số người hướng tới cuộc sống độc thân ngày càng nhiều. Khi khơng tìm
thấy niềm hạnh phúc thực sự từ cuộc sống gia đình, có thể tự bảo đảm cho cuộc
sống riêng của cá nhân, nhiều người đã khơng muốn lập gia đình. Khơng ít bạn
trẻ hiện nay lại nghĩ: hôn nhân không phải là cái đích duy nhất và cuối cùng của
tình u. Có những tình u mãi mãi khơng có đám cưới, khơng có hơn thú. Đối
với nhiều người, gia đình khơng phải là bến đỗ cuối cùng và duy nhất. Điều này
đi ngược lại với quan niệm đạo đức truyền thống ngàn đời của con người Việt
Nam: tình yêu phải gắn liền với hôn nhân, hôn nhân là kết quả tốt đẹp và tất yếu
của tình u chân chính.
Một bộ phận những bạn trẻ vị thành niên, vì muốn khẳng định cái tơi của
mình, mặc dù được bố mẹ chu cấp cho một cuộc sống đầy đủ nhưng lại muốn
thốt ly gia đình, tách khỏi vòng tay bố mẹ, sống độc lập bên ngoài xã hội. Đây
là một quan niệm mới, nếu xuất phát từ mục đích tích cực như muốn khẳng định
cái tôi cá nhân, bản lĩnh của tuổi trẻ, muốn hướng đến cuộc sống tương lai độc
lập, khơng phụ thuộc… thì rất có ý nghĩa.
2.2. Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của gia đình Việt Nam được thể hiện trong lịch sử là
thuỷ chung, tình nghĩa, trọng đạo lý. Những nét đẹp truyền thống của gia đình
12


Việt Nam ln được coi trọng, gìn giữ và phát huy, đó là: tình cảm gia đình, vị
trí gia đình được coi trọng, bên trong thì đồn tụ, cố kết, bên ngồi thì tình làng,
nghĩa xóm, nền nếp trên dưới, phụ nữ thuỷ chung, đảm đang, yêu thương chồng
con… Đồng thời cần nhận rõ những mặt đã và đang tác động tiêu cực đến quá

trình xây dựng gia đình mới ở nước ta như: tính cục bộ của gia đình, dòng họ,
địa phương, nghi lễ trong ứng xử, cưới xin, ma chay, giỗ chạp… rườm rà, tốn
kém và phản nhân văn, gia đình đơng con, kinh tế gia đình tự túc, tự cấp, sự bất
bình đẳng giữa nam và nữ, phụ nữ vất vả thiệt thòi về nhiều mặt…
Từ những thực tế trên cho ta thấy, việc xây dựng gia đình mới ở nước ta
có ý nghĩa quan trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xác định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi
thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống
và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng
gia đình ấm no, hồ thuận, tiến bộ” [1, tr.15].
Để thực hiện chủ trương trên, trong xây dựng và củng cố gia đình mới ở
nước ta, cần quán triệt và vận dụng, tổ chức, thực hiện thật tốt các nội dung cơ
bản sau đây:
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Gia đình
truyền thống Việt Nam có giá trị tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy trong điều
kiện mới, những truyền thống đó chính là những tư tưởng: thuận vợ, thuận
chồng tát bể Đông cũng cạn; uống nước nhớ nguồn; trẻ cậy cha, già cậy con;
kính trên nhường dưới; con cháu hiếu thảo với ơng bà, cha mẹ; tối lửa, tắt đèn,
chịm xóm có nhau; lá lành đúm lá rách… Tất cả những giá trị tốt đẹp ấy vừa tạo
nên sự cố kết bền vững trong gia đình, lại vừa đồn kết tình làng, nghĩa xóm,
tình u gia đình gắn chặt với tình yêu quê hương, đất nước. Tuy nhiên, trong
quá trình xây dựng gia đình mới cũng cần khắc phục, loại bỏ những giá trị
khơng cịn phù hợp của gia đình truyền thống như: tính gia trưởng, bất bình
đẳng về giới, bất bình đẳng trong quan hệ giữa các thế hệ; tính cục bộ theo dòng
họ, địa phương…
13


Xây dựng gia đình ấm no, hồ thuận, tiến bộ và hạnh phúc. Đây là một
trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là nguyện vọng của tất cả

mọi người, đồng thời là chuẩn mực cần vươn tới của gia đình mới ở nước ta. Sự
no ấm phải là kết quả của sự lao động cần cù, sáng tạo và chính đáng của gia
đình. Trong gia đình, cần chú trọng xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các
thành viên, nhất là dân chủ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa cha, mẹ với các con
và giữa các con với cha mẹ, tạo nên sự nề nếp, hồ thuận, kỷ cương mới trong
gia đình. Sự bình đẳng vừa thể hiện dân chủ vừa bảo đảm tính nề nếp và hồ
thuận giữa các thành viên trong gia đình. Gia đình tiến bộ trên cơ sở sự tiến bộ
của mọi thành viên và không tách rời sự tiến bộ chung của xã hội. Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội”
[4, tr.103-104].
Hồn thiện các chính sách xã hội có liên quan đến vấn đề xây dựng gia
đình. Một trong những nội dung cơ bản và đặc thù trong việc xây dựng đất nước
hiện nay là cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng phát triển kinh tế với
thực hiện công bằng xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy cần
phải tập trung và giải quyết tốt các vấn đề có liên quan đến việc xây dựng gia
đình: việc làm, phát triển ngành nghề, xố đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, y tế
và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, dân số và kế hoạch hố gia đình. Đây là trọng
trách của Đảng và Nhà nước cũng như của các ngành các cấp ở địa phương
trong việc xây dựng gia đình mới hiện nay.
Quan tâm một cách thiết thực và toàn diện hơn nữa đến phụ nữ, phát huy
vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội. Đây là vấn đề hết sức cơ
bản và cấp bách, làm tốt vấn đề này chính là thực hiện triệt để quan điểm giải
phóng phụ nữ đã được ghi nhận trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước ta.
Khâu then chốt quan trọng của vấn đề này là tạo sự bình đẳng giữa nam và nữ
trong các mối quan hệ xã hội và gia đình. Vai trị của người phụ nữ phải được
phát huy trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục…
14



Coi trọng nghiên cứu, ứng dụng, thực hiện tốt các chính sách, biện pháp,
cơ chế quản lý nhằm giải quyết một số vấn đề nảy sinh liên quan đến hôn nhân
và gia đình. Cần xây dựng các tiêu chuẩn, các chuẩn mực của gia đình mới, gia
đình hiện đại; sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách hợp lý liên quan đến
xây dựng gia đình trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Gia đình hồ thuận, hạnh phúc, tiến bộ, có ý nghĩa hết sức quan trọng,
trực tiếp tác động đến tư tưởng, tình cảm và mức độ hồn thành nhiệm vụ của
cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta. Vì vậy, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phải thường
xuyên quan tâm, giải quyết thoả đáng quan hệ chung - riêng, cá nhân - gia đình.
Kết hợp chặt chẽ giữa đơn vị với gia đình, quân đội với hậu phương trong việc
giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ. Làm tốt chính sách hậu phương quân đội,
chấp hành và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách xây dựng gia đình văn hố
mới trong mỗi gia đình qn nhân ở từng địa phương hiện nay.
Đại hội Đảng lần thứ XIII chỉ rõ những mục tiêu, định hướng phát triển
con người, phát huy vai trị gia đình trong phát triển con người và xã hội. Quá
trình xây dựng, hình thành những con người mới có năng lực, phẩm chất đạo
đức tốt phù hợp với điều kiện phát triển trong tình hình mới, Đại hội XIII của
Đảng đã đề ra nhiều nhiệm vụ cần phải thực hiện đó là: “Quan tâm chăm lo công
tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo
dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng
lớp nhân dân, nhất là thanh niên” [5, tr.143]; khuyến khích, tạo điều kiện để mọi
người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã
hội. Trong giáo dục con người, cần phải “Phát huy vai trò của gia đình, cộng
đồng, xã hội trong việc xây dựng mơi trường văn hóa, con người giàu lịng nhân
ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức tính cần cù, chăm chỉ,
tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại” [5, tr.163]; đề cao tinh thần gương mẫu, tiên phong
của người lãnh đạo, quản lý, tạo mơi trường, khơng gian văn hóa lành mạnh, dân
chủ, nhân văn; khuyến khích tinh thần tự do, đổi mới sáng tạo vì mục tiêu phát
triển đất nước.
15



KẾT LUẬN
Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên cấu thành nên từng cộng đồng,
xã hội. Gia đình giữ vai trị trung tâm trong đời sống của mỗi con người, là nơi
bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân, là một trong những giá
trị xã hội quan trọng bậc nhất của người Á Đơng, trong đó có Việt Nam. Đối với
mỗi quốc gia thì gia đình được coi là “một tế bào xã hội có tính sản sinh” [3,
tr.135]. Do vậy sức mạnh trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều
vào sự tồn tại và phát triển của gia đình. Đối với sự phát triển của xã hội trong
bất kỳ giai đoạn phát triển nào, sự vững vàng bền bỉ của nền tảng gia đình cũng
sẽ là yếu tố quyết định đến sự giàu mạnh, thịnh vượng của đất nước. Cho nên,
việc quan tâm coi trọng đến yếu tố gia đình chính là hướng đi đúng đắn cho việc
tạo dựng một xã hội phát triển ổn định và bền vững.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, Việt Nam đã và đang đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng quốc tế để phát triển
nhanh hơn, tạo tiền đề để rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước. Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của Việt Nam được phát triển theo hướng
ưu tiên tạo ra công ăn việc làm, thu nhập và góp phần vào việc thực hiện cơng
bằng xã hội. Nhờ vậy, xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi nhanh chóng về mọi
mặt cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong đó có sự biến đổi của gia đình. Sự
biến đổi đó theo chiều hướng cả tích cực và tiêu cực. Để góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu
cần có chiến lược xây dựng con người, xây dựng gia đình với tư cách là hành
nhân, tế bào của xã hội.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Luật Hơn nhân và Gia đình, Số: 52/2014/QH13, 2014.
7. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
8. Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Uỷ ban Dân số, Gia

đình và Trẻ em (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Tổng
cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới thuộc Viện Khoa học xã hội và nhân văn
và quỹ nhi đồng Liệp Hiệp Quốc (UNICEP) thực hiện và đã công bố cuối tháng
6/2008.

17



×