Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề đặt RA đáp ỨNG yêu cầu đổi mới tư DUY LÃNH đạo TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội (QUA 01 ví dụ cụ THỂ) ở TỈNH hà GIANG và đề XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP đổi mới tư DUY LÃNH đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.23 KB, 16 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI TƯ DUY LÃNH
ĐẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (QUA 01 VÍ DỤ CỤ
THỂ) Ở TỈNH HÀ GIANG VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI
PHÁP ĐỔI MỚI TƯ DUY LÃNH ĐẠO

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY
I.
LÃNH ĐẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI (QUA 01 VÍ DỤ CỤ THỂ) Ở TỈNH HÀ GIANG
1.1.

Đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển kinh tế - xã hội
Ví dụ cụ thể về đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển
1.2.
kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI TƯ


DUY LÃNH ĐẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ II.
XÃ HỘI (QUA 01 VÍ DỤ CỤ THỂ) Ở TỈNH HÀ
GIANG VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI
PHÁP ĐỔI MỚI TƯ DUY LÃNH ĐẠO
Vấn đề đặt ra đáp ứng yêu cầu đổi mới tư duy lãnh đạo
2.1.
trong phát triển kinh tế - xã hội (qua 01 ví dụ về đổi mới tư
duy phát triển bền vững) ở tỉnh Hà Giang
Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới tư duy lãnh đạo
2.2.
trong phát triển kinh tế - xã hội (qua 01 ví dụ về đổi mới tư
duy phát triển bền vững) ở tỉnh Hà Giang
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
3

7

7
10
12
13


MỞ ĐẦU

Những thập niên gần đây, vấn đề con người đang được nhiều quốc gia trên
thế giới đặc biệt quan tâm chú ý, bởi vai trò và khả năng to lớn của con người đối
với tiến trình phát triển của lịch sử. Quan tâm đến nhân tố con người là quan tâm
đến sự phát triển nhân cách của họ một cách toàn diện. Trong sự nghiệp đổi mới
của đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới vấn đề con người. Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Phải xây dựng con người Việt
Nam phát triển một cách toàn diện” [1, tr.98], đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý
phải có trình độ, năng lực và tư duy lãnh đạo.
Hà Giang là tỉnh miền núi gặp nhiều khó khăn trong q trình phát triển.
Hướng đến mục tiêu xây dựng Hà Giang là tỉnh phát triển về du lịch, thương
mại, dịch vụ và nông nghiệp đặc trưng hàng hóa; đến năm 2030 là tỉnh có kinh
tế - xã hội phát triển khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc; đến năm
2045 là tỉnh kinh tế - xã hội trung bình khá của cả nước; tầm nhìn đến năm 2050
là tỉnh có kinh tế - xã hội phát triển khá của cả nước, giữ vị trí quan trọng của
quốc gia về an ninh môi trường khu vực đầu nguồn, đạt mục tiêu là tỉnh phát
triển “xanh, bản sắc, kết nối, no ấm, bền vững”. Tuy nhiên thực tiễn quá trình
phát triển bền vững ở tỉnh Hà Giang cũng gặp rất nhiều khó khăn, những khó
khăn đó đặt ra cho đội ngũ lãnh đạo của tỉnh phải đổi mới tư duy lãnh đạo, nhất là
tư duy trong lãnh đạo kinh tế - xã hội. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Vấn đề đặt ra
đáp ứng yêu cầu đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển kinh tế - xã hội (qua
01 ví dụ cụ thể) ở tỉnh Hà Giang và đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới
tư duy lãnh đạo” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÃNH ĐẠO
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (QUA 01 VÍ DỤ CỤ THỂ) Ở
TỈNH HÀ GIANG

1.1. Đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển kinh tế - xã hội
* Nhà lãnh đạo, quản lý
Người thực hiện sứ mệnh dẫn dắt, điều hành một cộng đồng, một đơn vị
theo định hướng được lựa chọn với mục tiêu cần đạt. Nhà lãnh đạo, quản lý có
chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ khác nhau tương ứng với đơn vị, tổ chức ở
các cấp, ở quy mô khác nhau. Thẩm quyền, nhiệm vụ của một nhà lãnh đạo,
quản lý ở cấp cao, cấp trung ương về một lĩnh vực nào đó khác với nhà lãnh đạo,
quản lý ở cấp địa phương hay ở một tổ chức, một đơn vị nhất định.
Lãnh đạo, quản lý thực chất là hoạt động hướng đích, hoạt động có mục
tiêu định trước. Ở cấp độ khác nhau, ngành, lĩnh vực khác nhau, mỗi đơn vị với
quy mơ khác nhau, hoạt động hướng đích hay mục tiêu cần đạt tới cũng khác
nhau.Vì vậy, hoạt động của mỗi nhà lãnh đạo, quản lý nếu không gắn với mục
tiêu cần đạt của tổ chức, của đơn vị sẽ trở thành loại hoạt động tự thân. Cho nên
mỗi nhà lãnh đạo, quản lý, với tư cách người có thẩm quyền, nhiệm vụ, cần xác
định đúng đắn những mục tiêu cho đơn vị và tổ chức, dẫn dắt cộng đồng dưới
quyền hướng tới mục tiêu đã được lựa chọn [2, tr.120].
* Tư duy và đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển kinh tế xã hội
Tư duy là nền tảng của những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết về sự phát
triển. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết kinh tế
và các trường phái kinh tế. Trong thực tiễn, tư duy phát triển kinh tế - xã hội thể
hiện ở những mục tiêu, định hướng phát triển thông qua các chủ trương, chính
sách kinh tế - xã hội, được thể hiện bằng luật pháp, chính sách cụ thể trong từng
lĩnh vực kinh tế - xã hội.

4


Khi nói đến tư duy mới hay đổi mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội là
nói tới những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách quản lý. Tư duy

mới sẽ có chính sách mới, chính sách mới sẽ tạo ra phong trào mới, phong trào
mới sẽ tạo ra kết quả mới. Vì thế, đổi mới tư duy là khởi đầu cho q trình phát
triển mới. Có thể thấy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, phát
huy cao nhất hiệu quả lãnh đạo ở mọi cấp độ, các giải pháp cần phải đồng bộ
hướng đến cả đội ngũ cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp, môi trường tổ
chức và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị cũng như từng cơ
quan, tổ chức.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào
thế giới thì người lãnh đạo phải có tư duy đổi mới, nhất là lãnh đạo trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội và đáp ứng những yêu cầu sau: Có tư duy đổi mới, có tầm nhìn,
phương pháp làm việc khoa học; có năng lực tổng hợp, phân tích và dự báo. Có
khả năng phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, thời cơ, thuận lợi, vấn đề mới,
khó và những hạn chế, bất cập trong thực tiễn; mạnh dạn đề xuất những nhiệm
vụ, giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả để phát huy, thúc đẩy hoặc tháo gỡ; Có
năng lực thực tiễn, nắm chắc và hiếu biết cơ bản tình hình thực tế để cụ thể hóa
và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối cùa Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước ở lĩnh vực, địa bàn cơng tác được phân cơng; Cần
cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và
vì nhân dân phục vụ; Có khả năng lãnh đạo, chi đạo; gương mẫu, quy tụ và phát
huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, cá nhân; được cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm.
1.2. Ví dụ cụ thể về đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Hà Giang
Đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang
thể hiện trên nhiều nội dung, trong phạm vi nghiên cứu của tiểu luận, tác giả

5


đưa ra ví dụ cụ thể về đổi mới tư duy lãnh đạo về phát triển bền vững nền kinh
tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang.

Hà Giang là tỉnh miền núi vùng cao cực Bắc của Tổ quốc, có diện tích đất
tự nhiên là 7.929,48 km2, cách Hà Nội 318 km theo đường bộ. Phía Bắc tỉnh Hà
Giang giáp với tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc với trên 277 km
đường biên giới; phía Đơng giáp tỉnh Cao Bằng; phía Nam giáp tỉnh Tuyên
Quang; phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái. 90% diện tích Hà
Giang là đồi núi.
Hà Giang là tỉnh miền núi vùng cao cực Bắc của Tổ quốc, có diện tích đất
tự nhiên là 7.929,48 km2, cách Hà Nội 318 km theo đường bộ. Phía Bắc tỉnh Hà
Giang giáp với tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc với trên 277 km
đường biên giới; phía Đơng giáp tỉnh Cao Bằng; phía Nam giáp tỉnh Tuyên
Quang; phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái.90% diện tích Hà
Giang là đồi núi. Hiện nay, tỉnh Hà Giang có 11 đơn vị hành chính (thành phố
Hà Giàng và 10 huyện: Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Mèo
Vạc, Quản Bạ, Quang Bình, Vị Xun, Xí Mần, Yên Minh). Dân số hơn 80 vạn
người, với 19 dân tộc anh em chung sống.
Nằm trong khu vực địa bàn vùng núi cao phía bắc lãnh thổ Việt Nam, Hà
Giang là một quần thể núi non hùng vĩ, địa hình hiểm trở, có độ cao trung bình
từ 800m đến 1.200m so với mực nước biển. Đây là vùng tập trung nhiều ngọn
núi cao. Theo thống kê mới đây, trên dải đất Hà Giang rộng chưa tới 8.000
km2 mà có tới 49 ngọn núi cao từ 500m - 2.500m (10 ngọn cao 500 - 1.000m, 24
ngọn cao 1000 - 1500m, 10 ngọn cao 1.500 - 2.000m và 5 ngọn cao từ 2.000 2.500m).
Hà Giang có mật độ sơng - suối tương đối dày đặc. Hầu hết các sơng có độ
nơng sâu không đều, độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác. Các sơng lớn bao gồm:
Sơng Lơ, Sơng Chảy, Sơng Gâm. Ngồi ra,trên địa bàn tỉnh Hà Giang cịn có các
sơng ngắn và nhỏ hơn như sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng,
nhiều khe suối lớn nhỏ cung cấp nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống
dân cư.
6



Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao, khí hậu Hà Giang về
cơ bản mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn, song
cũng có những đặc điểm riêng, mát và lạnh hơn các tỉnh miền Đông Bắc, nhưng
ấm hơn các tỉnh miền Tây Bắc… Nét nổi bật của khí hậu Hà Giang là độ ẩm
trong năm cao, mưa nhiều và kéo dài, nhiệt độ mát và lạnh, đều có ảnh hưởng
đến sản xuất và đời sống.
Đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội ở
tỉnh Hà Giang thể hiện:
Tỉnh Hà Giang đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho nông dân thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững. Những năm qua, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Hà Giang
đã nhận thức sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững và vận dụng sáng tạo, linh hoạt,
phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Trước hết, Hà Giang đã biết phát huy tối đa lợi thế là nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ. Đồng thời đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường luôn tìm
biện pháp phát huy có hiệu quả các nguồn lực tại chỗ và thu hút đầu tư từ bên
ngồi, khơng trơng chờ và ỷ lại vào Trung ương, đồn kết nhất trí trong nội bộ,
dám nghĩ, dám làm, huy động được mọi nguồn lực của địa phương về nhân lực,
vật lực, tài lực, sức mạnh của nhân dân để tổ chức, thực hiện tốt chủ trương phát
triển nông nghiệp theo hướng bền vững, phát triển kinh tế nông thôn, cải thiện
đời sống của cư dân.
Tỉnh Hà Giang đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề để thúc đẩy mạnh
mẽ phát triển kinh tế - xã hội... Cùng với đó, Đảng bộ tỉnh tiến hành lãnh đạo chỉ
đạo thực hiện tốt khâu đột phá về phát triển du lịch gắn với nông nghiệp đặc
trưng, đặc thù, gắn bảo tồn những tiềm năng, lợi thế, bản sắc văn hóa với quảng
bá xúc tiến, đầu tư dịch vụ. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp sạch với quy mơ phù hợp theo tín hiệu thị trường, phát huy các
sản phẩm thế mạnh của tỉnh như: Chè Shan tuyết, cam Sành, mật ong bạc hà,
thịt bò vàng Cao nguyên đá..

7


Trải qua 30 năm, 6 kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, hạ tầng giao thông
của Hà Giang luôn được quan tâm đầu tư theo hướng đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm, phân kỳ đầu tư hợp lý, lựa chọn giải pháp thiết kế phù hợp... Đồng
thời, khắc phục điều kiện của tỉnh miền núi cịn khó khăn, nguồn vốn đầu tư cịn
hạn hẹp, Hà Giang đã có nhiều hình thức thu hút các thành phần kinh tế, các nhà
tài trợ xây dựng được một số cầu dân sinh và đường bê tông, tạo ra hiệu ứng lan
tỏa, thúc đẩy các vùng, các địa phương trong toàn tỉnh phát triển. Tính đến năm
2021, các điểm nghẽn lớn về giao thông như: quốc lộ 279, quốc lộ 4C, quốc lộ 34,
đường Cột cờ Quốc gia Lũng Cú, đường Xín Mần - Bắc Hà, đường tỉnh 176B,
183, các tuyến đường đến trung tâm xã…, của Hà Giang đã cơ bản được xử lý.
Hệ thống đường quốc lộ thường xuyên được đầu tư xây dựng, bảo trì, giao thơng
đi lại tương đối thuận tiện. Hiện, Hà Giang đang tích cực phối hợp lập các thủ tục
đề nghị Bộ Giao thông Vận tải trình Chính phủ đưa vào quy hoạch tuyến đường
cao tốc nối Hà Giang với tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai và tuyến cao tốc
Cửa khẩu Thanh Thủy - Tuyên Quang để triển khai thực hiện.
Bên cạnh hệ thống quốc lộ, hệ thống đường tỉnh cơ bản đã đáp ứng kết
nối giao thông giữa các huyện; công tác bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ được quan
tâm thực hiện thường xuyên; các trục giao thông đô thị quan trọng tiếp tục được
hoàn thiện. Các tuyến đường ra cửa khẩu cũng được đầu tư nâng cấp, đảm bảo
giao thông thuận lợi như: Đường từ quốc lộ 2 ra Cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy
đường ra cửa khẩu Xín Mần - Đô Long; đường nối tới 4 cửa khẩu tiểu ngạch...
Đáng ghi nhận là, thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới, Hà Giang đã đầu tư xây dựng được 1.790km đường; xây mới, cải tạo
2.590 cầu, cống dân sinh. Chương trình xây dựng cầu dân sinh đạt kết quả cao,
đến nay đã xây dựng được 83 cầu, phấn đấu đến hết năm 2025 xây dựng được
186 cầu theo kế hoạch [5, tr.83].
Hướng đến phát triển bền vững, tỉnh Hà Giang đã sớm xác định cơ cấu kinh

tế phù hợp với từng vùng, từng khu vực trong tỉnh. Mạnh dạn đầu tư vốn,
8


chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Người Hà Giang có truyền thống chịu khó, năng
động, ln học hỏi kinh nghiệm, biết nắm lợi thế, tranh thủ thời cơ nhằm khai
thác thế mạnh của đất đai, tài nguyên để phát triển tạo ra những chuyển biến
nhanh chóng trong lĩnh vực kinh tế và hòa nhập vào khu vực kinh tế trọng điểm
phía Bắc cũng như cả nước.
Một trong những thuận lợi cho phát triển bền vững tại tỉnh hà Giang là tốc
độ tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh tăng liên tục và ổn định, đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực của tỉnh. Cho đến nay, theo đánh giá chung, các mục
tiêu cơ bản của các chương trình, đề án phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững do tỉnh đề ra đã được thực hiện tốt và phát huy hiệu quả, thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh tăng liên tục và ổn định trong nhiều năm. Các
số liệu trên cho thấy bức tranh chung của nông nghiệp tỉnh Hà Giang trong
những năm qua, đạt được nhịp độ tăng trưởng liên tục và ổn định góp phần bảo
đảm vững chắc an ninh lương thực của địa phương; là cơ sở quan trọng để tỉnh
thể thực hiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn,
xây dựng nông thôn mới.
Nông nghiệp Hà Giang phát triển từng bước gắn với bảo vệ mơi trường và
phịng chống ơ nhiễm mơi trường. Thực hiện chương trình phát triển nơng
nghiệp theo hướng bền vững, trong thời gian qua tỉnh Hà Giang hết sức quan
tâm đến công tác bảo vệ môi trường và phịng chống ơ nhiễm mơi trường. Đã
triển khai và thực hiện tốt quy hoạch phát triển chăn nuôi, đảm bảo an tồn dịch
bệnh, làm tốt cơng tác quản lý dịch hại tổng hợp, sử dụng thuốc trừ sâu vi sinh
phòng trừ sâu hại; đầu tư thâm canh dùng phân chuồng, kết hợp phân vô cơ hợp
lý nhằm chống thối hóa đất, xử lý chất thải chăn ni bằng Biogas.
Tóm lại, những yếu tố trên đã thể hiện sự đổi mới tư duy lãnh đạo trong
phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang hiện nay.

II. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI TƯ DUY
LÃNH ĐẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (QUA 01 VÍ DỤ
CỤ THỂ) Ở TỈNH HÀ GIANG VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI
PHÁP ĐỔI MỚI TƯ DUY LÃNH ĐẠO
9


2.1. Vấn đề đặt ra đáp ứng yêu cầu đổi mới tư duy lãnh đạo trong
phát triển kinh tế - xã hội (qua 01 ví dụ về đổi mới tư duy phát triển bền
vững) ở tỉnh Hà Giang
Những thành tựu mà tỉnh Hà Giang đạt được trong phát triển bền vững
thời gian vừa qua có dấu ấn khơng nhỏ của việc đổi mới tư duy, xác định tầm
nhìn trong chủ trương và hành động cũng như vun đắp và nuôi dưỡng khát vọng
vươn lên. Đạt được thành tựu đã khó, giữ gìn và tiếp tục phát triển lại càng khó
hơn, nhưng đó là quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Giang trong cả
chặng đường dài phía trước, trên cơ sở tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt
được. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình phát triển bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh
Hà Giang hiện nay bộc lộ nhiều vấn đề đặt ra đáp ứng yêu cầu đổi mới tư duy
lãnh đạo, thể hiện trên một số nội dung sau:
Tỉnh Hà Giang cũng gặp khơng ít khó khăn, thách thức để phát triển bền
vững, đó là: Hà Giang là tỉnh miền núi, biên giới, quy mơ kinh tế cịn nhỏ, kết
cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thơng cịn thấp kém; trình độ dân trí khơng cao,
chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; biến đổi khí hậu, thiên tai,
dịch bệnh, an ninh nông thôn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp… Mạng lưới giao
thông của địa phương nơi địa đầu chủ yếu là đường bộ được xây dựng từ những
năm 60 của thế kỷ XX. Bốn quốc lộ: quốc lộ 2, quốc lộ 279, quốc lộ 34, quốc lộ
4C, tổng chiều dài 452km, mới có 159km được láng nhựa (chiếm gần 35%).
Trên các tuyến có 17 cầu, chủ yếu là cầu nhỏ, hẹp. Các tuyến đường tỉnh về các
huyện đa phần là đường đất, tỷ lệ được láng nhựa chỉ 8,5%. Hơn 1.250km
đường giao thơng nơng thơn mới có 12km được láng nhựa (chiếm 0,9%), cấp

phối đá dăm 15km, còn lại là đường đất. Ngồi ra, chỉ có duy nhất một bến phà
qua sơng Lơ (phà Sảo), cịn lại là đị ngang, vận chuyển bằng phương pháp thủ
cơng. Việc di chuyển của người dân gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt vào mùa
mưa. Thực tế, phát triển hạ tầng giao thông là vấn đề nan giải với Hà Giang bởi Hà Giang là tỉnh miền núi, biên giới, địa hình chia cắt phức tạp, hiểm trở,
địa chất dễ sạt lở, diễn biến thời tiết bất thường, dân cư phân bổ khơng đều, xa
các trung tâm kinh tế - chính trị của đất nước, nền kinh tế kém phát triển. Trong
10


khi đó, nguồn lực để đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thơng cịn rất hạn hẹp. Đây là
khó khăn, rào cản mà trong những năm tới Hà Giang phải nỗ lực khắc phục,
trong đó địi hỏi tư duy lãnh đạo phải có sư đổi mới để khắc phục khó khăn, trở
lực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Cần phải đổi mới tư duy, đẩy mạnh
phát triển cơ sở hạ tầng đi trước một bước.
Vấn đề đặt ra đáp ứng yêu cầu đổi mới tư duy lãnh đạo về phát triển bền
vững của tỉnh Hà Giang còn ở chỗ: Nhận thức về yêu cầu phát triển theo hướng
bền vững trong tầng lớp nhân dân còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân chưa làm tốt, còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, cịn mang tính
hình thức. Do đó, một số ngành, địa phương và phần lớn nhân dân nhận thức về ý
nghĩa, tầm quan trọng của phát triển theo hướng bền vững chưa đầy đủ. Điều đó,
làm cho cơng tác xây dựng quy hoạch, đề án, dự án, triển khai thiếu đồng bộ, đầu
tư dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp; việc dồn điền, đổi thửa giữa các nơng dân khó
khăn, lên quy mô sản xuất chưa đáp ứng được với yêu cầu của sản xuất theo
hướng bền vững.
Bên cạnh đó, khó khăn trong phát triển bền vững cịn thể hiện cơng tác
điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát
triển nơng nghiệp theo hướng bền vững nói riêng chưa kịp thời. Mặc dù đã chủ
động trong công tác quy hoạch, kế hoạch, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội, trong đó có cơng tác quy hoạch phát triển nơng nghiệp theo hướng bền
vững, nhưng do thiếu vốn và còn tư tưởng coi nhẹ sản xuất nông nghiệp đã ảnh

hưởng trực tiếp đến công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững như: chậm điều chỉnh quy hoạch để phù hợp với tình hình thực
tiễn và diễn biến của thị trường; quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững thiếu đồng bộ, đầu tư manh mún, nhỏ lẻ, chưa mang tính tổng thể gắn
kết giữa các vùng, các địa phương với trung tâm kinh tế - xã hội của tỉnh và khu
vực. Việc xây dựng quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp mới ở dạng định
hướng ở cấp tỉnh, thiếu cụ thể hóa ở cấp huyện và nhất là ở cơ sở. Các định
hướng phát triển thường thiếu yếu tố về thông tin thị trường, vốn, công nghệ,
11


nhân lực và chậm có sự điều chỉnh do sự biến động các yếu tố trên. Vì vậy, định
hướng cịn mang tính hình thức, ít có ý nghĩa khi chỉ đạo thực hiện.
Chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất còn thấp, năng lực của một
bộ phận cán bộ công chức của tỉnh chưa theo kịp sự phát triển. Sự phối hợp theo
mơ hình liên kết “Bốn nhà”: Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà
nông chưa hiệu quả. Khả năng thích ứng trong cơ chế thị trường của nông dân ở
Hà Giang chưa cao, khi gặp giá cả thất thường thì việc chuyển đổi cây trồng, vật
ni chưa phù hợp. Sự gắn chặt giữa phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ tài nguyên và mơi trường chưa cao, khả năng phịng chống, giảm nhẹ
thiên tai cịn hạn chế, tình trạng ơ nhiễm cịn xảy ra ở nhiều nơi.
Chưa hình thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thuận lợi,
chưa tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế nói chung và phát triển nơng
nghiệp nói riêng. Mặt khác, giá cả vật tư nơng nghiệp đầu vào cịn cao; trong khi
giá bán sản phẩm nơng nghiệp trong những năm qua lại có xu thế giảm, không
ổn định nên sức cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp chưa cao làm hạn chế đầu tư
sản xuất, thu nhập và đời sống của dân cư...
Những phân tích trên cho thấy phát triển bền vững tỉnh Hà Giang hiện
nay gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, vấn đề hiện nay phải đổi mới, trước hết cần
đổi mới tư duy lãnh đạo về phát triển bền vững của lãnh đạo các cấp của tỉnh Hà

Giang. Đổi mới tư duy lãnh đạo phát triển kinh tế bền vững là cơ sở, là yếu tố
quyết định để tỉnh Hà Giang có thể phát triển bền vững, hoàn thành các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
2.2. Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới tư duy lãnh đạo trong
phát triển kinh tế - xã hội (qua 01 ví dụ về đổi mới tư duy phát triển bền
vững) ở tỉnh Hà Giang
Trước hết, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục phát huy
tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân và trong các dân tộc anh em tỉnh
Hà Giang; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy
12


tinh thần làm chủ của nhân dân; nâng cao năng lực quản lý nhà nước của các cơ
quan ngang tầm nhiệm vụ; nâng cấp trình độ chun mơn và tinh thần phục vụ
nhân dân của cán bộ; tích cực phịng, chống tham nhũng, tiêu cực. Muốn có
được một nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững trước tiên năng lực của đội
ngũ cán bộ công chức phải nâng lên [3, tr.176].
Hai là, đối với một tỉnh có điều kiện đặc thù như Hà Giang thì chính sách
xã hội đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Theo đó, tỉnh cần phải có những chính
sách an sinh, thực hiện chính sách giảm nghèo, tăng cường đầu tư cho giáo dục,
chăm sóc y tế, cung cấp phúc lợi cho người dân thật tốt. Các nguyên tắc cung
cấp phúc lợi của Hà Giang khơng giống như các địa phương khác. Thay vào đó,
cần thiết kế những chính sách đặc thù, vừa mang tính trợ cấp, vừa hỗ trợ, vừa
nâng đỡ, thúc đẩy tinh thần nỗ lực, tự lực vươn lên của người dân, nhưng Nhà
nước sẽ không bỏ rơi người yếu thế. Trong các trụ cột của chính sách xã hội, cần
tập trung vào chính sách giáo dục, xem đây là chìa khóa giải quyết nhiều điểm
nghẽn phát triển khác. Chính quyền và ngành giáo dục phải ra sức làm thay đổi
căn bản trong chất lượng giáo dục, chú trọng việc xây dựng đội ngũ nhà giáo có
tri thức và có tấm lịng. Giáo dục sẽ là đầu tàu kéo kinh tế và xã hội tăng tốc ổn

định. Giáo dục là mũi tiến công chủ lực để thay đổi Hà Giang, giúp người dân
tiếp cận tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, nâng cao năng lực tự học hỏi, phát huy
hiệu quả nhất tinh thần tự lực, tự cường hướng đến phát triển bền vững.
Ba là, tiếp tục tìm kiếm mơ hình và động lực tăng trưởng kinh tế mới trên
cơ sở phát huy các tiềm năng và lợi thế riêng có; cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính; huy động các nguồn lực đầu tư của tư
nhân dưới sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ ngành trung ương; phát huy vai trò,
sự lan toả và hiệu quả của các dự án đầu tư công. Ưu tiên nguồn ngân sách hạn
chế được hỗ trợ của trung ương cho đầu tư cơ sở hạ tầng lõi; lựa chọn hỗ trợ đầu
tư có trọng tâm đối với một số ngành có lợi thế, nhất là du lịch, một số sản phẩm
nông nghiệp đặc trưng và dược liệu gắn với chế biến sâu tại chỗ nhằm nâng cao
13


giá trị gia tăng. Triển khai thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi số và thực hiện Đề
án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi, giai đoạn 2021 - 2030 và các chương trình, dự án giảm nghèo bền vững.
Phấn đấu “sống trên đá, thoát nghèo trên đá và tiến tới làm giàu trên đá”.
Bốn là, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát
triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường. Xây dựng mỗi dự án, mỗi chính
sách kinh tế phải đánh giá một cách nghiêm túc tác động tới môi trường, môi
sinh. Giữ rừng và trồng rừng, tham gia chương trình trồng 1 tỷ cây xanh. Nghiên
cứu và đưa vào trồng những loại cây thích ứng với sự biến đổi của thời tiết, khí
hậu. Thay đổi thói quen tiêu dùng, chuyển từ đồ nhựa dùng 1 lần sang các loại vật
liệu thân thiện với mơi trường, tiến tới nói khơng với bao bì dùng 1 lần gây ơ
nhiễm.
KẾT LUẬN
Những ai chưa đến Hà Giang sẽ không hiểu hết được những khó khăn, vất
vả, bất lợi trong phát triển bền vững của vùng đất này. Tình trạng chia cắt về địa
hình phức tạp, điều kiện đi lại và giao thương khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nghèo nàn, nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với trình độ dân trí khác nhau

mới chỉ là một phần khó khăn. Với tinh thần “khó khăn gấp đôi phải cố gắng
gấp ba”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Hà Giang đã phát huy
truyền thống đoàn kết, chủ động, sáng tạo, vượt khó đi lên và đã giành được
nhiều thành tựu quan trọng về phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế và xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Dù nền tảng và động lực tăng trưởng
kinh tế chưa mạnh nhưng kinh tế tỉnh Hà Giang vẫn tiếp tục tăng trưởng khá, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực theo hướng bền vững, năng suất lao
động tăng lên, hiệu quả sản xuất cải thiện, việc làm chính thức được mở ra ngày
càng nhiều, thu nhập của người dân ngày càng cao, các nền tảng của kinh tế thị
trường được định hình ngày càng rõ nét, đúng với định hướng xã hội chủ nghĩa.
14


Thành tựu đó đến từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng
nhất là các cấp lãnh đạo tỉnh đã có sự đổi mới tư duy lãnh đạo trong phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và trong phát triển bền vững nói riêng.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn q́c lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Hùng (2018), Đổi mới quản lý và phong cách, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
3. Nguyễn Quang Thái (2017), Phát triển bền vững ở các tỉnh phía Bắc
Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao động - xã hội,
Hà Nội.
4. Trần Thị Thanh Xuân (2019), Dịch vụ đầu vào cho phát triển nông nghiệp
xanh ở tỉnh Hà Giang, Tạp chí Thơng tin Khoa học Lý luận chính trị, số 4 (176).

.

16



×