Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận sự quá tải của dân số đô thị và những ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.88 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


PhÇn më ®Çu
Dân số là vấn đề cần quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia bởi người dân
là động lực của quá trình phát triển kinh tế và là mục đích phát triển của xã
hội. Dân cư vừa là đầu vào vừa là đầu ra trong toàn bộ quá trình sản xuất xã
hội, sự phát triển của dân số đem lại nguồn cung lao động dồi dào cho nền
kinh tế đồng thời cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm, là thị trường tiêu thụ sản
phẩm của nền kinh tế. Vì vậy nghiên cứu về dân số và sự gia tăng dân số đòi
hỏi mỗi quốc gia phải có chính sách kịp thời và phù hợp với đặc điểm dân cư
mỗi nơi, từ đó mới có thể nhìn nhận xác đáng những ưu điểm của sự gia tăng
dân số cũng như nghiên cứu cách khắc phục những tồn tại mà sự gia tăng này
mang lại.
Thực tế sự bùng phát dân số ở đô thị đã đem đến rất nhiều khó khăn cho
các nhà quản lý đô thị trong việc đưa ra các quyết định, các chính sách phát
triển dài hơi cho đô thị. Dân số tăng nhanh có ảnh hưởng tiêu cực đến mọi
mặt của nền kinh tế xã hội, sự quá tải về nhà ở trong khi quỹ đất hạn hẹp làm
suy giảm chất lượng sống của người dân, quá tải trong giao thông gây nên
nạn ùn tắc giao thông hàng năm gây thiệt hại cho nhà nước hàng chục tỷ
đồng, rồi quá tải trường học, bệnh viện… càng đòi hỏi việc nghiên cứu về
vấn đề bùng phát dân số phải nhanh chóng và kịp thời.
Với tư cách là một sinh viên đang theo học chuyên ngành quản lý đô thị
của trường đại học Kinh tế quốc dân, cùng với những hiểu biết trong quá
trình học và những kiến thức trong thực tế, nhóm chúng em gồm 4 thành viên
đã làm đề tài nghiên cứu về sự quá tải của dân số đô thị và những ảnh hưởng
tới sự phát triển kinh tế xã hội. Do kiến thức còn hạn chế nên nhóm chúng
em rất mong được sự góp ý giúp đỡ của thầy cô và các bạn để hoàn thiện đề
tài và giúp cho những đề tài nghiên cứu sau của chúng em có mức độ ứng


dụng thực tế cao hơn.

2


PhÇn néi dung
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Dân số đô thị.
1.1 Khái niệm dân số đô thị, mật độ dân số và đặc điểm dân số đô thị.
a) Khái niệm:
- Dân số đô thị là số người dân sống trên địa bàn đô thị vào một thời điểm
nhất định.
- Mật độ dân số là số dân thường trú (hoặc hiện có) tính bình quân trên
một đơn vị diện tích.
- Dân số thường trú là số dân sống trên 6 tháng trên địa bàn đô thị.
- Dân số hiện có là số dân đô thị tại một thời điểm nhất định.
- Dân số tạm vắng là số dân đô thị không sinh sống trên địa bàn đô thị
trong khoảng thời gian dưới 6 tháng.
- Dân số tạm trú là số dân không thuộc đô thị sinh sống trên địa bàn đô thị
dưới 6 tháng
- Dân số hiện có = dân số thường trú – dân số tạm vắng + dân số tạm trú.
b) Đặc điểm dân số đô thị:
- Dân số đông, mật độ dân số cao và dân số nhiều thành phần:
Do đô thị là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành của vùng, quốc gia, là
đầu mối giao thông của khu vực hoặc quốc gia nên vai trò của đô thị hết sức
quan trọng vì vậy đòi hỏi cần có nguồn nhân lực dồi dào. Đồng thời còn là
thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn nên đô thị là khu vực tập trung nhiều
dân cư và thành phần dân số đa dạng để đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị.
Ngoài ra do hạn chế về mặt diện tích tự nhiên nên mật độ dân số đô thị
thường cao.

- Phân tầng xã hội mạnh mẽ:
Do dân số tập trung cao và nhiều thành phần nên phân tầng xã hội ở đô thị
cũng biểu hiện rõ rệt. Đặc điểm đô thị là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên
ngành, đầu mối giao thông nên dẫn đến việc có nhiều sự giao lưu, di chuyển
của dân cư các khu vực khác ngoài đô thị vào và cùng với sự đa dạng về các
hoạt động của đô thị mà mỗi cư dân trong đô thị đều có vai trò riêng của
mình. Mỗi một cu dân đô thị đều nằm trong 2 khả năng là đóng vai trò là
nguồn cung lao động, nguồn cầu sản phẩm hoặc cả hai dẫn đến việc mỗi cá
nhân ứng với khả năng của mình là có một địa vị trong xã hội. Khả năng của
mỗi cá nhân là không giống nhau vì thế sự phân tầng xã hội ở đô thị càng rõ
nét.

3


- Dân số đô thị luôn luôn biến động:
Dân số đô thị biến động do 3 nguyên nhân:
+ Do Mức tăng dân số tự nhiên
+ Do Mức tăng dân số cơ học
+ Do mở rộng diện tích hành chính đô thị
Các hoạt động diễn ra trong đô thị là không ngừng và có sự mở rộng quan
hệ với bên ngoài và theo thời gian dân số đô thị tăng lên do tỉ lệ tăng dân số
tự nhiên và yêu cầu đòi hỏi về một đô thị mới đáp ứng nhu cầu phát triển của
mình mà diên tích đô thị có thể thay đổi. Tất cả đều dẫn đến sự thay đổi về
dân số đô thị.
- Cơ cấu tuổi - giới của dân số và cơ cấu lao động, ngành nghề của dân số:
Cơ cấu tuổi - giới của dân số đô thị là đặc điểm qua trọng nhất của đô thị
vì nó liên quan đến nhiều vấn đề dân số. Một đô thị có số dân độ tuổi dưới 30
chiếm đa số thì đô thị đó được gọi là đô thị có dân số trẻ. Và việc xác định
như vậy là vô cùng quan trọng vì nó cho biết đô thị trong tương lai gần sắp

tới cần nhiều sản phẩm vật chất và nhiều dịch vụ hơn nữa. Đồng thời dân số
trẻ thì khả năng tiêu dùng là cao vì thế làm tăng phát triển kinh tế đô thị.
Ngược lại dân số đô thị có tuổi đời cao chiếm đa số thì đòi hỏi các dịch vụ xã
hội công cộng nhiều hơn và khả năng đáp ứng cho sự phát triển kinh tế xã
hội của đô thị bị giảm sút và khả năng sáng tạo cũng kém đi.
Một đô thị có sự chênh lệch về giới cao cũng gây khó khăn cho các hoạt
động kinh tế xã hội của đô thị vì vậy đảm bảo cân bằng về giới là một nhiệm
vụ quan trọng của quản lý dân số đô thị.
Đặc điểm của đô thị đòi hỏi bao gồm nhiều lao động và với nhiều ngành
nghề khác nhau vì thế đảm bảo sự cân bằng về lao động ngành nghề để đảm
bảo cho phát triển đô thị cân đối đồng thời không lẵng phí các lao động đã
qua đào tạo mà khả năng sử dụng thấp.
1.2 Mối quan hệ dân số - lao động - việc làm.
Lao động là một bộ phận của dân số. Một đô thị có quy mô dân số đông
đúc sẽ có quy mô lao động dồi dào. Lao động là một trong những yếu tố đầu
vào quan trọng của quá trình sản xuất. Dân số đông, nhu cầu tiêu dùng lớn là
điều kiện để sản xuất phát triển. Tuy nhiên hai yếu tố dân số và lao động mới
chỉ là điều kiện cần cho kinh tế phát triển. Vấn đề việc làm sẽ quyết định bởi
việc làm đòi hỏi những lao động có trình độ và bởi chính việc làm mới tham
gia trực tiếp vào quá trình tạo thành giá trị sản phẩm. Vì vậy để giải quyết
một vấn đề trong mối quan hệ trên thì phải trên cơ sở nghiên cứu cả 3 yếu tố.

4


1.3 Vai trò của dân số đô thị trong các hoạt động đời sống kinh tế - xã
hội trên địa bàn đô thị.
a)Dân số đô thị đóng vai trò là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất:
Dân số mà một thành phần của nó là lao động đã tham gia vào qúa trình
sản suất. Trong quá trình sản xuất thì yếu tố lao động là yếu tố quan trọng

nhất có ảnh hưởng tới toàn bộ cả quá trình. Trình độ của lao động cao, năng
lực của lao động thỏa mãn được quá trình sản xuất thì sản phẩm làm ra có giá
trị và được đánh giá cao. Và chính những sản phẩm được tạo ra từ những lao
động này góp phần làm phát triển kinh tế đô thị. Đô thị mà có nguồn cung lao
động dồi dào và tay nghề cao thì đô thị đó có nhiều cơ hội gia tăng sản xuất
sản phẩm và có chất lượng cao và ngược lại nguồn cung lao động không đầy
đủ và không chất lượng thì có khả năng không đáp ứng đủ nhu cầu của đô thị
và khả năng xuất khẩu ra ngoài đô thị là không nhiều. Một đô thị mà có khả
năng thu hút lao động cao thì theo đó tỉ lệ các hoạt động phạm pháp cũng
giảm đi do tỉ lệ thất nghiệp giảm do đó sẽ tạo ổn định xã hội lâu dài
b)Dân số đô thị đóng vai trò là cầu hàng hóa sản phẩm, dịch vụ:
Mỗi người muốn tồn tại đều phải ăn, uống, sinh hoạt và tất cả các hoạt
động này đều phải có các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng. Dân số càng cao nhu
cầu này càng lớn và đô thị là một thị trường tiêu thụ rộng lớn và rất đa dạng
do đó càng kích thích sản xuất phát triển. Và càng làm tăng khả năng giao
lưu với các khu vực ngoài đô thị.
2. Quá tải dân số đô thị.
2.1.Khái niệm.
Quá tải dân số đô thị là khả năng không đáp ứng được của đô thị về cơ sở
hạ tầng và các dịch vụ thiết yếu trước sự gia tăng dân số đô thị.
2.2 Nguyên nhân quá tải dân số đô thị.
a)Do mức tăng dân số tự nhiên đô thị.
Mức tăng dân số tự nhiên đô thị trong một thời kỳ = Mức sinh dân số đô
thị trong một thời kỳ - mức chết dân số đô thị trong một thời kỳ.
Mức tăng này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển kinh tes, văn hóa,
xã hội của đô thị. Các nhà quản lý có thể can thiệp vào mức sinh, làm giảm tỉ
lệ sinh bằng các chương trình kế hoạch hóa gia đình và các biện pháp hành
chính, giáo dục khác. Đồng thời mức chết của dân số cũng được giảm nhờ
các thành tựu khoa học kỹ thuật và phát triển nâng cao đời sống.
b)Do mức tăng cơ học của dân số đô thị.

Mức tăng cơ học của dân số đô thị trong một thời kỳ = Số người đến đô

5


thị - số người ra khỏi đô thị trong một thời kỳ
Mức tăng này cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của đô thị. Một đô thị đông dân, dễ tìm kiếm việc làm, môi
trường tự nhiên, môi trường văn hóa tốt sẽ thu hút dân cư chuyển đến tuy yếu
tố này làm cho cung lao động đô thị tăng lên nhưng cũng làm đô thị gặp
nhiều khó khăn trong các vấn đề môi trường, xã hội, cung cấp dịch vụ
c)Do mở rộng diện tích hành chính đô thị.
Mở rộng diện tích đô thị là một xu thế tất yếu cảu quá trình đô thị hóa và
làm tăng dân số đô thị một cách trực tiếp. Thực chất cuả quá trình này là sự
thay đổi hình thức cư trú của con người từ hình thức sống nông thôn lên hình
thức sống đô thị. Cơ sở của việc thay đổi này là công nghiệp hóa sản xuất và
nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng
d)Những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp.
Cơ cấu tuồi - giới của dân số hiện tại, đặc điểm và tập quán sinh đẻ dân số
từng đô thị, cơ cấu tuổi - giới của lao động hiện tại của đô thị, trình độ và xu
thế phát triển kinh tế đô thị, quy hoạch đô thị trong tương lai là những nhân
tố ảnh hưởng gián tiếp đến quy mô dân số đô thị. Cơ cấu tuổi - giới của dân
số hiện tại có quan hệ trực tiếp đến vấn đề kết hôn, sinh đẻ, nguồn lao động
trong tương lai. Ngoài ra cơ cấu lao động, ngành nghề cũng lảnh hưởng đến
sự gia tăng quy mô dân số đô thị

II.THỰC TRẠNG QUÁ TẢI DÂN SỐ Ở ĐÔ THỊ HIỆN NAY.
Thực trạng về quá trình tăng dân số đô thị từ 1960 đến 2000, nhìn chung
trong 40 năm dân số đô thị Việt Nam tăng với tốc độ chậm chạp (so với các
nước trong khu vực), thời kỳ 1990-2000 tốc độ có cao hơn. Và đến nay con

số thực tế người dân sống tại đô thị ngày càng được đẩy lên cao hơn với tốc
độ gấp gáp hơn, cho đến nay tốc độ này đã vượt quá tốc độ phát triển của đô
thị, vượt quá khả năng đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu người dân gây
nên những hiện tượng quá tải trên nhiều lĩnh vực đặt ra nhiều vấn đề cấp
bách cần quản lý cho các nhà đô thị học. Mặc dù đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ, nhưng qui mô dân số của nước ta vẫn lớn, trung bình mỗi năm
tăng thêm khoảng hơn một triệu người. Với dân số trên 84 triệu người, Việt
Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới, mật độ dân số cũng thuộc loại
cao với, 252 người/km2, gấp 2 lần mật độ dân số châu Á. Dự báo đến năm
2020 sẽ là 300 người/km2. Hai năm trở lại đây, chúng ta đã tiệm cận mức
sinh thay thế, nhưng mức sinh giảm chưa vững chắc, vẫn còn thấp so với
mục tiêu đề ra và tiềm ẩn nguy cơ tăng dân số trở lại.
Sức ép của di dân tự do lên các đô thị. Tốc độ đô thị hoá trong những năm

6


gần đây đã thu hút một lực lượng lớn lao động từ các vùng nông thôn đến các
đô thị, các khu công nghiệp để tìm việc làm. Tình trạng này là một trong
những nguyên nhân gây quá tải trong tham gia giao thông và trật tự an toàn
xã hội ở các tụ điểm có đông lao động tự do, hoặc các khu công nghiệp. Các
đối tượng này phần đông là nông dân, chỉ bán sức lao động cơ bắp, họ thiếu
kỹ năng lao động và cả các kiến thức về pháp luật, học vấn nên ý thức chấp
hành luật lệ kém, dẫn đến lộn xộn ở các nơi công cộng, gây khó khăn cho
công tác quản lý dân cư...
Cơ cấu dân số trẻ đang trở thành vấn đề lớn cho công tác dân số, điều này
đồng nghĩa với số người bước vào độ tuổi lao động tăng nhanh, đòi hỏi lớn
cho việc đào tạo nguồn nhân lực cũng như tạo công ăn việc làm. Mặt khác
đối tượng này đang bước vào độ tuổi sinh đẻ, đây chính là thách thức cho các
mục tiêu giảm sinh nếu chúng ta không có các giải pháp quyết liệt để tuyên

truyền, vận động nâng cao nhận thức đồng thời cung cấp các dịch vụ
CSSKSS một cách thuận tiện cho họ.
1. Những vấn dề đang đặt ra trong công tác quản lý các vấn đề xã hội ở
thành phố Hà Nội hiện nay.
Thành phố Hà Nội là đô thị vào loại lớn nhất của cả nước, với vị trí địa lý
thuận lợi, điều kiện khí hậu ưu đãi khiến thành phố trở thành điểm hội tụ,
giao lưu kinh tế, khoa học công nghệ, thương mại dịch vụ lớn nhất cả nước.
Bước vào quá trình CNH, HĐH, dưới tác dụng của các chính sách phát triển
công nghiệp, cùng với ưu thế vốn có của mình, thành phố này là nơi thu hút
nhiều dự án phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mai, Khoa học công
nghệ lớn nhất trong hệ thống các đô thị ở nước ta. Cũng vì lẽ đó, nơi đây hội
tụ các luồng nhập cư và có quy mô dân số lớn nhất toàn quốc. Kinh tế phát
triển, dân số đông làm cho việc quản lý các vấn đề xã hội của bộ máy chính
quyền đô thị hiện hành trở nên bất cập.
1.1.Bất cập giữa năng lực tổ chức và quản lý đô thị với hiện trạng của
một thành phố đông dân cư và có nhu cầu lớn về lao động.
Mức tăng trưởng kinh tế cao và thu nhập bình quân đầu người liên tục
tăng của thành phố trong thời gian qua là sức hút lao động rất lớn đối dân cư
trong cả nước. Không chỉ đối với lao động phổ thông mà cả với lao động có
trình độ khoa học kỹ thuật cao, tạo áp lực quy mô dân số rất lớn. Các giải
pháp ngăn chặn nguồn nhập cư này là hoàn toàn không tưởng, vả lại, thành
phố rất cần nguồn nhân lực để phục vụ cho nhu cầu phát triển nội tại của
mình. Theo tính toán của các nhà quản lý, mỗi năm thành phố cần 200.000
lao động trong khi đó thành phố chỉ có khoảng 86000 người bước vào độ tuổi
lao động. Khoản thiếu hụt ấy chỉ có thể thu hút lao động từ nơi khác đến.
7


Thực tế hoạt động tại các khu công nghiệp tại thành phố cũng nói lên điều
này : Trong 15 khu chế xuất, khu công nghiệp với trên 185.000 công nhân,

thì có hơn 70% số công nhân là lao động ngoại tỉnh. Theo quy hoặch đến
năm 2010, thành phố sẽ có quy mô dân số khoảng 7- 8 triệu người, trong đó
có từ 5- 6 triệu lao động sẽ trở thành áp lực rất lớn đối với cơ cấu và năng lực
tổ chức bộ máy chính quyền vốn đã lỗi thời như hiện nay; đồng thời tác động
mạnh mẽ đến công tác quản lý địa giới hành chính, quản lý dân cư và lao
động; qủan lý nhân khẩu, hộ khẩu. Xuất hiện mâu thuẫn giữa cơ cấu kinh tế xã hội hiện có với hiện trạng quản lý nhà nước, năng lực, trình độ điều hành
của đội ngũ cán bộ công chức hiện nay.
1.2.Tồn tại những bất hợp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các nhóm người
trong cư dân đô thị.
Quá trình đô thị hoá ở thành phố làm xuất hiện một tầng lớp cư dân đô thị
mới hay còn gọi là người nhập cư. Họ có thể là người lao động có trình độ
chuyên môn cao ( số này ngày càng nhiều hơn do chính sách thu hút nhân tài
của thành phố, nhưng hầu hết là lao động phổ thông đến tìm việc làm và trở
thành cư dân thành phố. Những đóng góp của họ cho sự phát triển trên quê
hương mới là không thể phủ nhận. Có thể chứng minh bằng con số sau: Thời
kỳ 1991- 1995 thành phố có biến động cơ học dân số cao nhất là 1,36%, cũng
là thời kỳ có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất, tốc độ tăng GDP là 12,62%.
Thời kỳ 1996- 1999, tốc độ tăng trưởng GDP chậm lại cũng là thời kỳ số
người nhập cư giảm đi 0, 82%. Đặc điểm chung nhất của họ là không có hộ
khẩu thành phố, ở nhà thuê và công việc không ổn định. Mặc dù Hiến pháp
Việt Nam thừa nhận quyền tự do đi lại và quyền tự do cư trú của công dân
( điều 68 Hiến pháp 1992), Bộ luật lao động đã cho phép “ Mọi người đều có
quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, không bị phân biệt
đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo” ( điều
5). Nhưng thực tế, do không nằm trong danh sách quản lý của các quận,
huyện nên người lao động không được hưởng một cách đầy đủ, toàn diện và
liên tục các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, các chương trình
nhà ở, giáo dục vv… Vì hầu hết các chương trình này ưu tiên những người
thuộc diện có hộ khẩu thường trú tại địa phương. Điều này, vô tình làm cho
sự cách biệt xã hội ngày càng nới rộng giữa người lao động tại chỗ và người

lao động từ nơi khác đến. Họ còn chịu một số “phân biệt đối xử” : Chưa
được quản lý, thống kê lao động để gắn kết nguồn lao động và nguồn việc
làm tại thành phố; do không có hộ khẩu thường trú, nên họ không có cơ hội
tiếp cận những công việc có tính ổn định và thu nhập cao như: Không được
tham gia thi tuyển công chức nhà nước; không được hưởng trợ cấp làm việc
8


xa cho dù đang làm việc tại các đơn vị thuộc thành phố quản lý nhưng đóng
trên địa bàn tỉnh bạn. Điều này vô tình tạo ra những quan hệ xã hội phức tạp
giữa người bản đại và người nhập cư có khả năng tạo ra những bất ổn trong
xã hội. Là công dân đô thị, thì quyền lợi và nghĩa vụ phải bình đẳng như
nhau, đều có quyền được hưởng cuộc sống mà ở đó mỗi người cảm thấy
mình được quý trọng, có đầy đủ những cơ hội, điều kiện cần thiết để cống
hiến. Tình trạng phân biệt đối xử như trên là không thể kéo dài, cần có bàn
tay can thiệp của chính quyền đô thị đủ mạnh, với những biện pháp hữu hiệu,
đồng bộ để lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tiến đến kiểm kê, kiểm soát và
nối kết các nguồn lực xã hội phục vụ cho việc phát triển đô thị.
1.3.Việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu ( dịch vụ hành chính công, dịch
vụ sự nghiệp công, dịch vụ công cộng) cho hoạt động của xã hội và đời
sống của công dân chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc tập trung dân số đông gây hiện tượng “ngập úng đô thị”, qúa tải về
cơ sở hạ tầng, có thể làm đảo lộn quy hoặch và kế hoặnh phát triển kinh tế –
xã hội ở địa phương. Các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp
luôn trong tình trạng qúa tải, đặt ra những thách đố to lớn cho chính quyền
trong xây dựng kế hoặch phát triển kinh tế - xã hội và quản lý trật tự đô thị.
Việc cung cấp các dịch vụ cho đời sống và sản xuất của một thành phố tầm
cỡ khu vực luôn rơi vào thiếu hụt triền miên về mọi mặt. Điều này không chỉ
làm chất lượng cuộc sống kém đi, mà còn tạo ra những rối loạn xã hội và tiêu
cực như : tệ chạy trường, chạy dự án, sách nhiễu, tham nhũng cửa quyền

vv…
1.4.Chưa khai thác và sử dụng hiệu qủa nguồn nhân lực hiện có cho yêu
cầu phát triển kinh tế- xã hội.
Dân số đông nhưng do kế hoặch đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập, công
tác thông tin, thống kê thị trường lao động và hoạt động của các trung tâm
dịch vụ việc làm thiếu hiệu quả dẫn đến tình trạng không kết nối được các
nguồn lực xã hội để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế. Người thất nghiệp
đông nhưng các doanh nghiệp vẫn không tuyển được lao động theo yêu cầu.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế cả về số
lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp FDI ở Thành phố chỉ tuyển dụng
được 20%, thậm chí 10% số người dự tuyển, sau đó phải mất một thời gian
đào tạo từ 3-4 năm mới sử dụng được. Ngành công nghệ thông tin năm 2005
cần khoảng 16.000 chuyên gia phần mềm và lập trình viên, nhưng khả năng
đáp ứng của hệ thống đại học chỉ là 5000 sinh viên. Thực trạng này phản ánh
yếu kém trong quản lý dân cư và lao động của chính quyền hiện nay, đòi hỏi
phải có thay đổi lớn để cải tổ bộ máy, đủ tầm điều hành một đô thị lớn đang
9


trong qúa trình phát triển như thành phố.
1.5.Các vấn đề xã hội của một đô thị lớn, đông dân cư nảy sinh, tồn tại
kéo dài gây hậu qủa xấu cho mội trường xã hội, môi trường đầu tư.
Thực chất của qúa trình đô thị hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu xã hội, tạo nên sự kết hợp mới giữa các nhân tố kinh tế, chính trị,
xã hội và môi trường. Sự tập trung quá đông dân cư với nhưng nếp sống,
phong tục tập quán khác nhau từ các vùng quê tăng lên sự phức tạp về xã hội
và môi trường sinh thái. Tình trạng lấn chiếm vỉa hè, hình thành các xóm
liều, sang nhượng đất đai trái phép gia tăng. Sự khác nhau giữa các nhóm lợi
ích dưới tác dụng của nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh những vấn đề xã
hội phức tạp như: Tình trạng phân hoá giàu nghèo, quan hệ chủ thợ, bất bình

đẳng giữa người bản địa và người nhập cư, tạo nên những va chạm xã hội có
thể gây ra những xung đột cục bộ, làm vẩn đục môi trường xã hội và môi
trường đầu tư. Việc thu hồi đất để triển khai các dự án kinh tế – xã hội, nếu
không làm tốt việc đền bù giải tỏa, tái định cư cũng gây ra bất ổn xã hội.
*Một số trường hợp cụ thể do sự quá tải về dân số gây ra ở nước ta
trong những năm gần đây:
-Quá tải công chứng:Có một điều thực tế là càng nhiều loại giấy tờ thì
công việc càng như thêm rối. Công việc càng rối thì càng phải chứng minh
tính xác thực. Nhờ đó “nghề” công chứng sẽ còn “phát tài”. Lỗi chẳng phải
từ các công chứng viên làm chậm, không thỏa mãn được nhu cầu công chứng
của nhân dân. Lỗi cũng chẳng phải do nhân dân thích đi công chứng để nên
nỗi “cầu lớn hơn cung”. Lỗi cũng chẳng phải do những người duyệt văn bản,
giấy tờ bởi “thủ tục” nó phải thế… Có trách lỗi thì trách chính chúng ta ít
“tin” nhau quá, đặc biệt là ít biết cách kiểm tra thông tin về nhau quá.
-Trường quá tải:
-Tàu xe quá tải, tai nạn giao thông gia tăng.
Sức ép của di dân tự do lên các đô thị. Tốc độ đô thị hoá trong những năm
gần đây đã thu hút một lực lượng lớn lao động từ các vùng nông thôn đến các
đô thị, các khu công nghiệp để tìm việc làm. Tình trạng này là một trong
những nguyên nhân gây quá tải trong tham gia giao thông và trật tự an toàn
xã hội ở các tụ điểm có đông lao động tự do, hoặc các khu công nghiệp. Các
đối tượng này phần đông là nông dân, chỉ bán sức lao động cơ bắp, họ thiếu
kỹ năng lao động và cả các kiến thức về pháp luật, học vấn nên ý thức chấp
hành luật lệ kém, dẫn đến lộn xộn ở các nơi công cộng, gây khó khăn cho
công tác quản lý dân cư...
Cơ cấu dân số trẻ đang trở thành vấn đề lớn cho công tác dân số, điều này
đồng nghĩa với số người bước vào độ tuổi lao động tăng nhanh, đòi hỏi lớn
10



cho việc đào tạo nguồn nhân lực cũng như tạo công ăn việc làm. Mặt khác
đối tượng này đang bước vào độ tuổi sinh đẻ, đây chính là thách thức cho các
mục tiêu giảm sinh nếu chúng ta không có các giải pháp quyết liệt để tuyên
truyền, vận động nâng cao nhận thức đồng thời cung cấp các dịch vụ
CSSKSS một cách thuận tiện cho họ.
2. Nguyên nhân của thực trạng trên.
2.1. Trình độ quản lý đô thị đã lạc hậu so với tốc đô thị hoá theo hướng
hiện đại.
Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, phát triển nền kinh tế hàng hoá, đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước đã mang lại hình ảnh mới cho đô thị Việt Nam, nhất là thành phố Hà
Nội. Thành phố có bước phát triển mạnh cả về quy mô và tầm vóc. Tương
ứng với sự phát triển ấy hỏi tư duy quản lý đô thị phải theo kịp, thậm chí đi
trước một bước với trình độ phát triển của đô thị. Thực tế cho thấy, hệ thống
quản lý tổ chức đô thị hiện nay ( cai quản là chủ yếu ) đã không còn phù hợp
và trở thành lực cản tốc độ phát triển của thành phố trên mọi phương diện
trong hoàn cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.2. Hệ thống quản lý đô thị còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ,
phân cấp không rõ ràng, tính hiệu lực kém.
Việc quy định chức năng nhiệm vụ các cấp chính quyền còn chung chung,
quyền hạn không đi đôi với thẩm quyền, thẩm quyền không thống nhất với
chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm… Do đó, chưa tạo được sự thông
thoáng cho việc giải quyết các yêu cầu của các tổ chức và công dân.
2.3. Hệ thống pháp luật và pháp quy chưa hoàn thiện và đồng bộ
Các văn bản pháp luật thay đổi nhiều nên khó nắm bắt và thực hiện trong
thực tế dẫn đến tình trạng vận dụng tuỳ tiện, vượt qúa chức năng quyền hạn
cho phép, hoặc ỷ lại trông chờ cấp trên ảnh hưởng đến hoạt động của đô thị.
Tình trạng văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn giữa các ngành, giữa
cấp dưới và cấp trên… , một số văn bản pháp luật ban hành không phù hợp
với thực tế gây khó khăn trong việc thực hiện, ảnh hưởng tiêu cực đến sự

phát triển kinh tế xã hội.

11


2.4. Đội ngũ các bộ công chức thiếu chuyên nghiệp, trình độ, năng lực,
nghiệp vụ còn yếu kém.
Công tác quy hoặch, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ còn bất cấp, chưa
theo kịp với yêu cầu thực tế. Một bộ phận công chức thiếu rèn luyện phẩm
chất đạo dức dẫn đến xa dân, cửa quyền, sách nhiễu, lạm dụng chức quyền
mưu lợi cá nhân. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, thoái hoá biến chất trong
đội ngũ công chức diễn ra chậm xử lý hoặc xử lý không đến đến chốn làm
người dân phẫn nộ, mất niềm tin vào năng lực điều hành của chính quyền.
2.5. Trình độ dân trí và văn minh đô thị của người dân chưa cao, ý thức
tự giác chấp hành luật pháp hạn chế.
Đô thị Việt Nam là sự hoà trộn giữa văn hoá nông thôn và văn hoá công
nghiệp, thương mại và dịch vụ. Vì vậy cư dân đô thị còn bị chi phối bởi lối
sống tiểu nông, ý thức tuân thủ pháp luật hạn chế, tính tích cực xã hội chưa
cao, nếp sống văn minh đô thị chưa trở thành nếp sống thường nhật. Điều này
gây khó khăn cho chủ thể quản lý, gây cản trở qúa trình hiện đại hoá đô thị.

III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
QUÁ TẢI VỀ DÂN SỐ:
Để khắc phục tình trạng quá tải về dân số hiện nay thì nhà nước ta có đưa
ra một dố chủ trương chung như:
-Kết hợp chính sách quản lý dân số đô thị với chính sách quản lý dân số
trên địa bàn lãnh thổ.
-Ổn định dân số nông thôn trên địa bàn lãnh thổ hạn chế di dân,tăng
cường đô thị hoá nông thôn.
-Hạn chế nhập cư vào đô thị.

-Ổn định tốc độ tăng dân số đô thị hiện có,KHHGĐ,xác định tỷ lệ tăng tự
nhiên hợp lý.
-Phát triển giao thông,tăng cường quan hệ trao đổi kinh tế nông thôn và
thành thị.Giao thông là yếu tố quan trọng để tăng cường trao đổi kinh tế,văn
hoá giữa đô thị và nông thôn.Dòng lao động nông thôn-thành phố đáp ứng
nhu cầu đô thị nhưng không gây áp lực về dân số nhờ những di chuyển kiểu
con lắc.
Bên cạnh đó cũng cần có thêm một số biện pháp:

12


3.1. Xây dựng chính quyền đô thị.
Thực trạng trên cho thấy sự cần thiết tổ chức lại bộ máy chính quyền đô
thị sao cho phù hợp với tầm vóc, quy mô phát triển của một đô thị lớn như
thành phố Hà Nội. Bảo đảm mục tiêu phát triển cho thành phố cả về tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội , vì con người cho con người trong sự hài
hoà cân đối giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Bảo đảm công bằng
cho tất cả mọi người, cho thực tại và mai sau. Về vấn đề này, chúng ta cần
tham khảo ý kiến của Thủ tướng Thuỵ Điển: “Không một nước nào có thể
giàu có đầy đủ mà không làm cho lao động của những người thất nghiệp
được sử dụng hữu ích. Không một xã hội nào được xem là thịnh vượng mà
lại có thể loại trừ những người tàn tật rủi ro. Không một dân tộc nào có thể
sống sót nếu không truyền cho lớp người trẻ tuổi những hy vọng và khát
vọng về tương lai” .Vậy hình ảnh của chính quyền đô thị sẽ như thế nào?
Theo chúng tôi chính quyền đô thị phải bảo đảm các yếu tố sau:
-Bộ máy chính quyền gọn nhẹ, hiệu quả, có phân công phân cấp quản lý
rõ ràng, có sự phối hợp giữa các bộ phận liên quan, có khả năng thích ứng
nhanh với nền kinh tế hiện đại thông qua những biện pháp cải cách hành
chính.Thực hiện qủan lý mọi mặt của xã hội theo pháp luật.

-Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, làm căn cứ pháp lý để
xây dựng và quản lý độ thị
-Quyền lực hành chính nhà nước thống nhất, cơ chế quản lý linh hoạt, thủ
tục hành chính giản tiện gọn nhẹ, thực hiện có hiệu qủa vai trò quản lý đô thị
ở mọi cấp mọi khâu, với tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện.
-Đội ngũ cán bộ công chức phải được đào tạo chính quy các kiến thức
pháp luật và quản lý nhà nước. Ở các lĩnh vực cụ thể phải được đào tạo
chuyên môn sâu cùng các kỹ năng ứng xử văn hoá với các đối tượng phục
vụ. Có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn cần thiết trong từng lãnh
vực công tác.
-Các hoạt động quản lý đô thị của chính quyền được hiện đại hoá, với
những trang thiết bị , phương tiện kỹ thuật hiện đại. Phương thức phục vụ
nhân dân vô điều kiện của công chức tận tình chu đáo. Cơ chế hoá, công khai
hóa công tác tuyển chọn đào tạo, sử dụng đội ngũ công chức.
-Tuy nhiên theo chúng tôi, việc xây dựng chính quyền đô thị cũng phải có
những điều kiện và tuân thủ những nguyên tắc và có bước đi thích hợp. Đó là
phải tuân thủ những điều kiện khách quan, những nghiên cứu toàn diện các
điều kiện kinh tế- xã hội – tâm lý, lối sống – con người của thành phố; Sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý chung của nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã
hội chủ nghĩa; dựa trên chính sách quy hoặch đô thị của quốc gia; trên những
13


thành tựu đổi mới của đất nước, những lý thuyết quản lý đô thị tiên tiến của
thế giới, thành tựu và cả hạn chế của từ thực tiễn cải cách nền hành chính của
nước ta và quốc tế vv…Trên cơ sở đó chúng ta mới cân nhắc, lựa chọn mô
hình chính quyền và phương pháp thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của thành phố trên tất cả các mặt: Tổ chức bộ máy, con người trong bộ
máy, và thể chế hoạt động.
Có thể nêu lên những giải pháp bước đầu có tính chất tham khảo để cùng

bàn luận và tìm tiếng nói chung cho công tác này. Theo đó cần có các giải
pháp xoanh quanh các vấn đề sau: Hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế
quản lý đô thị; tổ chức lại bộ máy quản lý; xây dựng chính sách đầu tư cho
pháp triển đô thị; giáo dục ý thức cộng đồng, nếp sống văn minh đô thị cho
dân cư…
a)Hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý đô thị:
Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của chính
quyền đô thị. Xây dựng hệ thống pháp luật cần xác định quyền và nghĩa vụ
của các tổ chức và công dân, các quy định, thủ tục, chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan chính quyền đô thị. Hoàn thiện hệ thống pháp luật mới bảo đảm
tính thống nhất trong hoạt động và cung ứng dịch vụ của cả bộ máy, tạo điều
kiện pháp lý thuận lợi huy động mọi nguồn lực của các tổ chức, cá nhân,các
thành phần kinh tế, các nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển đô thị.
Có một nền tảng pháp lý vững chắc, chúng ta mới có thể thực hiện việc quản
lý nhà nước bằng pháp luật, có khả năng điều tiết các quan hệ xã hội nảy sinh
trong quá trình phát triển đô thị. Ngày càng mở rộng dân chủ cho các đối
tượng quần chúng, tăng cường quyền lực cho công dân, hạn chế tình trạng
lạm quyền của một bộ phận công chức kém phẩm chất.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật trên các lĩnh vực sẽ khuyến khích mọi công
dân, mọi tổ chức hoạt động sáng tạo, tự chủ trong hoạt động sáng tạo cống
hiến tài năng cho xã hội theo chuẩn mực chung mà pháp luật quy định. Mặt
khác, việc luật hoá quyền của cán bộ, công chức nhà nước ở mọi cấp, ngành
và những chế tài nghiêm ngặt đối với những công chức vi phạm, mới loại
dần tính tuỳ tiện, lạm quyền của một số cán bộ công chức khi thực thi công
vụ.
b) Giải pháp về bộ máy:
Trong những năm sắp tới cần nghiên cứu tiến tới xây dựng mô hình chính
quyền đô thị hành chính hai cấp. Trong đó, cấp quận nên cơ cấu lại thành các
trung tâm hành chính , có đầy đủ các chức năng quyền hạn thay mặt chính
quyền giải quyết các yêu cầu của công dân trong khu vực được uỷ quyền.

Các trung tâm hành chính này được nghiên cứu xây dựng hiện đại với trang
14


thiết bị tiên tiến và đội ngũ công chức chuyên nghiệp đủ sức đáp ứng mọi
yêu cầu của các tổ chức và công dân. Như vậy cơ quan quyền lực( UBND và
HĐND), hệ thống cơ quan đảng, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chỉ tập
trung ở cấp thành phố và cấp phường. Cấp quận, sẽ không có cơ quan quyền
lực và các cơ quan đoàn thể nữa. Chỉ còn Uỷ ban hành chính, ban cán sự
đảng, mặt trận, đoàn thể là những cán bộ chuyên trách do các cơ quan trên cử
về làm việc. Cấp thành phố và cấp phường sẽ được củng cố và kiện toàn theo
hướng loại bỏ cấp trung gian, biên chế gọn nhẹ, tăng cuờng hiệu lực hiệu quả
lãnh đạo. Các hoạt động cung ứng dịch vụ công từng bước xã hội hóa cho tập
thể và cá nhân có đầy đủ điều kiện hoạt động để giảm tải cho các trung tâm
hành chính.
Tuy nhiên, việc thực hiện mô hình này phải có những bước đi cụ thể trên
cơ sở nghiên cứu thấu đáo những vấn đề kinh tế – xã hội, chức năng nhiệm
vụ của thành phố đối với cả nước trong từng giai đoạn cụ thể, để có những
bước đi và giải pháp thích hợp. Mô hình này có những ưu điểm sau:
-Bộ máy chính quyền tinh gọn, giảm bớt tầng nấc trung gian, các đầu mối,
các loại hình tổ chức, bảo đảm tính thống nhất và nhất quán trong điều hành,
chỉ đạo thực hiện.
-Thuận lợi hơn cho việc đẩy mạnh cải cách hành chính theo mô hình một
cửa, một dấu, giảm bớt thủ tục, tiết kiệm thời gian công sức đi lại cho người
dân.
-Tránh lãng phí trong xây dựng các cơ sở hành chính, cho phép tập trung
kinh phí đầu tư cho các trung tâm hành chính hiện đại.
-Có thể khắc phục tình trạng chồng chéo trong việc ban hành các văn bản
pháp quy giữa các cơ quan, đơn vị.
c)Xây dựng chính sách đầu tư cho phát triển đô thị:

Nhà nước cần tập trung cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính
sách vĩ mô về quản lý đô thị, nhanh chóng lập quy hoạch phát triển không
gian đô thị trong khoảng 20 năm cho tất cả các đô thị Việt Nam. Tư duy quản
lý đô thị phải đi trước hiện thực một chặng đường dài để chủ động đối phó
với các vấn đề xã hội phát sinh, chứ không thể lạc hậu theo đuôi các sự kiện
như hiện nay. Trong đó có phân cấp quản lý rõ ràng, thực hiện quan điểm
mọi thành viên sống trong đô thị đều có trách nhiệm xây dựng, tham gia vào
quá trình quy hoặch đô thị mà mình đang sinh sống.
Cấp thành phố, bên cạch các chính sách phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản
xuất, thì các vấn đề xã hội phải được quan tâm đúng mức. Bảo đảm cơ cấu
kinh tế và cơ cấu xã hội luôn phù hợp với nhau trong từng bước phát triển.
Mỗi chính sách phát triển kinh tế đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội,

15


mỗi chính sách phát triển xã hội đều nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế. Vì vậy trong một đô thị hiện đại, các chính sách xã hội phải được xây
dựng theo hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh các giải
pháp giải quyết việc làm cả cho lao động có trình độ chuyên môn cao và lao
động đại trà ở trình độ thấp. Tạo điều kiện và cơ hội cho các đối tượng quần
chúng không phân biệt người tại chỗ hay người nhập cư được tiếp cận và thụ
hưởng các dịch vụ xã hội như :giáo dục, y tế, cung cấp điện, nước vv… nhằm
nâng cao dân trí, đời sống vật chất và tinh thần cũng như các phúc lợi dân
sinh khác. Xây dựng khung cơ chế chính sách thông thoáng cho mọi công
dân tự do làm ăn phát triển kinh tế tạo thu nhập cho cá nhân, gia đình và
đóng góp cho xã hội theo quy định của pháp luật. Sử dụng tối đa tiềm năng
lao động là mục tiêu hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đầu tư vào hệ thống hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội. Mọi tổ chức,

doanh nghiệp, cá nhân có sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp
cùng chính quyền hỗ trợ việc nâng cấp phát triển cơ sở hạ tầng xã hội nhằm
phục vụ đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
d)Nâng cao trình độ dân trí, xây dựng nếp sống văn minh đô thị:
Tăng cường giáo dục nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết về pháp luật cho
người dân, dần hình thành nếp sống kỷ cương trật tự, đề cao ý thức tự quản
và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ cộng đồng.
Mỗi người dân tự giác chấp hành pháp luật của nhà nước, tích cực tham gia
xây dựng chính quyền với ý thức trách nhiệm của người làm chủ thành phố.
Tiếp tục phát động phong trào xây dựng khu phố văn hóa, “ đưa các yếu
tố văn hoá, tinh thần nhân văn thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội,
từ cách ứng xử trong gia đình, trường học, xã hội đến các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, giao tiếp”…
Xây dựng chính quyền đô thị ở thành phố là một nội dung lớn, chưa có tiền
lệ trong lịch sử mà tính phức tạp của nó diễn ra trên tất các các lĩnh vực của
đời sống xã hội và tác động lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn
đề này cần được tiếp tục nghiên cứu ở nhiều chiều cạnh khác nhau, trong
từng giai đoạn, trên phương diện tổng thể cũng như trong từng bộ phận cấu
thành để có những giải pháp đồng bộ, dài hơi hơn, góp phần đắc lực cho sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

16


3.2. Tập trung vào những lĩnh vực chính và thiết lập một cơ chế hoạt động
dài hạn.
Tập trung vào sự lãnh đạo,Chính quyền thành phố cần ban hành một nhận
xét về tiếp tục tăng cường công tác DS-KHHGĐ tại các khu vực dân cư cách
biệt để xác định các trách nhiệm trong các lĩnh vực khác nhau gồm KHHGĐ,
bất động sản, an ninh công cộng, các Uỷ ban lân cận, quản lý tài sản và cộng

đồng.
Tập trung xem xét và giám sát việc thực hiện. Công tác quản lý và dịch vụ
KHHGĐ tại các khu đô thị dân cư cách biệt được bao gồm trong việc xem
xét thực hiện của chính quyền địa phương và các cơ quan liên quan và một
cơ chế khuyến khích sẽ được triển khai.
Giải quyết vấn đề một cách toàn diện. Tất cả các bên liên quan nỗ lực tối
đa và kết hợp cùng nhau trong việc tăng cường công tác KHHGĐ trong số
những người di cư tại các địa bàn.
3.3. Làm rõ các mối quan hệ để tăng cường tối đa hiệu quả của việc sử
dụng nguồn lực.
Phân chia trách nhiệm. Một điều quan trọng cần làm rõ là Uỷ ban lân cận
ở địa phương chịu trách nhiệm về công tác KHHGĐ và đơn vị quản lý tài sản
có nghĩa vụ trợ giúp cần thiết.
Mối quan hệ giữa quản lý tài sản với các nhà chức trách điều tiết. Cơ quan
phụ trách về nhà cửa sẽ tăng cường hướng dẫn cho các công ty quản lý tài
sản và xem xét việc quản lý KHHGĐ như một phần quan trọng trong việc
xem xét thực hiện hàng năm của công ty đó.
Mối quan hệ giữa quản lý và dịch vụ. Các công ty quản lý tài sản thông
qua hàng loạt các hoạt động khác nhau, kết hợp quản lý với dịch vụ cho
người dân.
3.4.Chính sách dân số đô thị.
Chính sách dân số đô thị là một bộ phận của chính sách quốc gia.Chính
sách dân số quốc gia đã được nhà nước coi như một bộ phận quan trọng của
chiến lược phát triển đất nước và là một trong những vấn đề kinh tế xã hội
hàng đầu của nước ta.Chủ trương của nhà nước trong việc thực hiện chính
sách dân số là tuyên truyền giáo dục,tạo các phong trào quần chúng để thực
hiện.Uỷ ban dân số và KHHGĐ được tổ chức có hệ thống từ TƯ đến địa
phương cũng như các đô thị.Chính sách dân số quốc gia được các đô thị vận
dụng và triển khai có hiệu quả cao,biểu hiện tập trung là công tác Kế hoạch
hoá gia đình nhằm giảm tỷ lệ sinh xuống mức hợp lý.

a)Kế hoạch hoá gia đình và dân số ở đô thị:
Công tác KHHGĐ ở đô thị đã trở thành một phong trào,một chỉ tiêu thi
17


đua trong các doanh nghiệp,tổ chức,trường học và được mọi gia đình hưởng
ứng.Uỷ ban dân số và KHHGĐ và các đoàn thể,hiệp hội là những cơ quan
hoạt động có hiệu quả trong công tác này.
b)Chính sách nhập cư:
Xây dựng chính sách nhập cư phù hợp là vấn đề quan trọng để phát triển
thành phố;Phương pháp quản lý nhân khẩu trong từng tổ dân phố hiện nay
còn nhiều vấn đề.Ai là chủ thể quản lý nhân khẩu cần xác định rõ.

18


PhÇn kÕt luËn
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng qui mô dân số
của nước ta vẫn lớn, trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng hơn một triệu
người. Với dân số trên 84 triệu người, Việt Nam là nước đông dân thứ 13
trên thế giới, mật độ dân số cũng thuộc loại cao với, 252 người/km2, gấp 2
lần mật độ dân số châu Á. Dự báo đến năm 2020 sẽ là 300 người/km2. Hai
năm trở lại đây, chúng ta đã tiệm cận mức sinh thay thế, nhưng mức sinh
giảm chưa vững chắc, vẫn còn thấp so với mục tiêu đề ra và tiềm ẩn nguy cơ
tăng dân số trở lại.
Dân số gia tăng là một vấn đề tất yếu chúng ta không có cách nào làm dân
số ngừng tăng thêm mà chỉ có thể làm chậm sự gia tăng của dân số. Do vậy
vấn đề trước mắt cũng như lâu dài rất rõ rang là ngoài việc kiềm chế tỷ lệ gia
tăng dân số các nhà quản lý còn phải quen với việc ngày càng bùng nổ dân số
nhanh chóng và trầm trọng hơn từ thực tế đó sẽ có những chính sách hợp lý

phát triển đô thị kết hợp với đáp ứng nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân trong tình hình mới.

19



×