Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

tìm hiểu phản ứng với mật độ trồng của giống ngô đường lai kiểu cây mới tiên việt 3 tại gia lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 118 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA NÔNG HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“TÌM HIỂU PHẢN ỨNG VỚI MẬT ĐỘ TRỒNG
CỦA GIỐNG NGÔ ĐƯỜNG LAI KIỂU CÂY MỚI
TIÊN VIỆT 3 TẠI GIA LÂM”
Người thực hiện : VŨ NGỌC BẮC
Lớp : KHCT A
Khóa : 51
Ngành : KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Người hướng dẫn : PGS.TS. VŨ VĂN LIẾT

HÀ NỘI – 2010
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Viện Nghiên cứu Lúa -
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, tôi luôn nhận được sự quan tâm,
hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của Thầy PGS.TS. Vũ Văn Liết (Bộ môn Di
Truyền - chọn giống Cây trồng, ĐHNN Hà Nội). Qua đợt thực tập tốt
nghiệp kỳ I năm 2010, tôi đã học hỏi được nhiều kiến thức về cây Ngô,
cách theo dõi thí nghiệm cũng như cách xử lý số liệu và hoàn thành luận
văn tốt nghiệp. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy
PGS.TS.Vũ Văn Liết.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
- Ban Giám đốcViện Nghiên cứu Lúa
- Các cô, chú, anh, chị trong phòng Ngô - Viện nghiên cứu Lúa
Đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thực tập tốt


nghiệp.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tới:
- Gia đình luôn động viên cho tôi trong suốt thời gian thực tập
- Các thầy cô trong Bộ môn Di truyền- Chọn giống Cây trồng, ĐHNN
Hà Nội cùng bạn bè, những người luôn giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm cho
tôi.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 01 năm 2010
Sinh viên
i
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
Vũ Ngọc Bắc
ii
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Màu sắc hạt và lõi của một số dạng ngô đường
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô trên thế giới
Bảng 2.2. Sản xuất ngô của Việt Nam giai đoạn 1961 - 2007
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của mật độ đến thời gian sinh trưởng của giống ngô đường
Tiên Việt 3 và Surgar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng chiều cao cây của 2 giống ngô
đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội
Bảng 4.3. Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng số lá của 2 giống ngô đường Tiên
Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè Thu 2009
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, đường kính
gốc, tổng số lá và độ hở lá bi của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar75 tại Gia
Lâm, Hà Nội vụ Hè Thu 2009
Bảng 4.5 Ảnh hưởng của mật độ đến diện tích lá, chỉ số diện tích lá của 2 giống ngô
đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội Vụ Hè thu 2009
Bảng 4.6. Ảnh hưởng của mật độ đến hiệu suất quang hợp thuần và lượng quang hợp

quần thể của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè
thu 2009
Bảng 4.7. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng chống chịu của hai giống ngô đường
Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009
Bảng 4.8. Ảnh hưởng của mật độ đến các yếu tố cấu thành năng suất của 2 giống ngô
đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009
Bảng 4.9. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất của 2 giống Tiên Việt 3 và Sugar 75
tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè Thu 2009
Bảng 4.10. Đánh giá một số tính trạng chất lượng của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3
và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Xuân 2009
iii
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1. ng thái t ng tr ng chi u cao cây c a gi ng Tiên Vi t 3 v Độ ă ưở ề ủ ố ệ à
gi ng Sugar 75.ố
Hình 4.2. ng thái t ng tr ng s lá c a gi ng Tiên Vi t 3 v gi ng Độ ă ưở ố ủ ố ệ à ố
Sugar 75
Hình 4.3.: Bi u di n t l chi u cao óng b p so v i chi u cao cây cu i ể ễ ỉ ệ ề đ ắ ớ ề ố
cùng
Hình 4.4: thì bi u di n n ng su t lý thuy t c a các công th c m t Đồ ễ ễ ă ấ ế ủ ứ ậ độ

Hình 4.5: th bi u di n n ng su t t i c a các công th c m t Đồ ị ễ ễ ă ấ ươ ủ ứ ậ độ
iv
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCCCC Chiều cao cây cuối cùng
CĐB Cao đóng bắp
DTL Diện tích lá
ĐC Đối chứng
ĐKG Đường kính gốc.

LAI Chỉ số diện tích lá
NAR Hiệu suất quang hợp thuần.
NSLT Năng suất lý thuyết
P Lượng quang hợp quần thể.
P
1000
Khối lượng 1000 hạt.
PR Phun râu
RN Răng đậm
SL Sinh lý
T Trắng
TC Trỗ cờ
XĐ Xanh đậm
VĐ Vàng đậm
VN Vàng đậm
VT Vàng tươi
v
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
PHẦN MỘT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngô đường ( Zea mays var. Rugosa) là nhóm ngô thực phẩm có giá trị
dinh dưỡng cao, hàm lượng tinh bột của nội nhũ khoảng 25 - 41% khối lượng
hạt, hàm lượng đường và dextrin khá cao: 19 - 31% khối lượng hạt, độ Brix
đạt tới 18 - 27. Ngô đường rất thích hợp dùng để ăn tươi và dùng trong công
nghiệp thực phẩm. Nhiều nước trên thế giới đã phát triển trồng ngô đường
phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu đem lại nguồn thu lớn đóng góp cho thu nhập
kinh tế quốc dân như Mỹ, Hungari, Đức, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan…
Sản xuất ngô đường phục vụ ăn tươi, chế biến ngày càng được mở rộng diện
tích ở các nước trên thế giới. Thái Lan là nước trong khu vực Châu Á, gần điều

kiện với Việt Nam, hàng năm Thái Lan sản xuất và chế biến đóng hộp xuất
khẩu tăng từ 30.000 tấn năm 2000 lên 82.500 tấn năm 2003 (Ponnarong
Prasertsri, 2003).
Ở nước ta ngô thực phẩm mới được nghiên cứu khoảng 15 năm trở lại
đây, do vậy những thành tựu chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác và chế biến
còn rất hạn chế. Những năm gần đây trồng ngô thực phẩm nói chung và ngô
đường nói riêng đã bước đầu phát triển, nhưng hầu hết các giống ngô đường
đều là nguồn nhập nội như Sugar 75, TN115, TN103, Sakita, Hoa Trân…
Chính điều này đã hạn chế sản xuất và hiệu quả trồng ngô đường ở nước ta do
chi phí hạt giống cao (350.000 – 750.000đ/kg), gây khó khăn cho người sản
xuất (Lê Quý Kha, 2006).
Những giá trị dinh dưỡng, kinh tế của ngô đường đã thu hút các quốc
gia tập trung nghiên cứu chọn tạo giống, kỹ thuật trồng trọt và chế biến ngô
đường. Công tác chọn tạo giống ngô đường trên thế giới đạt được những
thành tựu to lớn trong nâng cao năng suất, chất lượng và chống chịu của ngô
1
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
đường. Tuy nhiên, công tác chọn tạo giống ngô đường có chất lượng cao mới
đang ở những bước đầu, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Đặc biệt ở Việt
Nam hầu hết các địa phương sản xuất ngô đường đều phải mua hạt giống
nhập nội với giá thành cao. Ở nước ta những thành tựu chọn tạo giống, kỹ
thuật canh tác và chế biến còn rất hạn chế. Chính những nguyên nhân này mà
hạn chế sản xuất và hiệu quả trồng ngô đường ở nước ta. Tuy nhiên nghiên
cứu chọn tạo giống ngô đường ưu thế lai trong nước sẽ có khả năng thích nghi
cao với điều kiện Việt Nam, góp phần làm giảm giá thành hạt giống, tăng
hiệu quả kinh tế cho người sản xuất và làm đa dạng hoá các sản phẩm từ cây
ngô. Vì vậy yêu cầu trước hết của ngành sản suất ngô là tạo ra những giống
ngô tốt phục vụ công tác lai tạo để cho ra nhiều giống ngô lai năng xuất cao
chất lượng tốt. Cùng với việc tạo ra các giống ngô lai có năng suất cao và khả
năng chịu mật độ cao, thì việc thu hẹp khoảng cách hàng đã góp phần nâng

cao năng suất ngô. Theo Minh Tang Chang, năng suất ngô của Mỹ trong hơn
40 năm qua tăng thêm 58% nhờ giống lai đơn, 21% nhờ tăng mật độ và 5%
nhờ thu hẹp khoảng cách hàng.
Ở Việt Nam Mật độ và khoảng cách trồng là những vấn đề được nghiên
cứu nhiều trong canh tác ngô. Theo Phan Xuân Hào (2008) thì các giống ngô
trong thí nghiệm cho năng suất cao nhất khi trồng với khoảng cách hàng
50cm (hoặc 40 cm), tiếp đó là 70 (cm) và thấp nhất là ở 90 (cm) ở tất cùng
một mật độ. Các giống thí nghiệm( kể cả giống thấp cây,lá đứng, thân nhỏ, lá
thoáng) cho năng suất cao nhất ở mật độ 8 vạn cây/ha với khoảng cách 50x25
(cm).
Cũng theo tác giả năng suất cây trồng tăng do trồng ở hang hẹp là do:
Khi trồng ở hàng hẹp, đặc biệt là với mật độ tương đối cao, kéo theo khoảng
cách trồng cây trong hàng rộng hơn, từ đó khoảng cách giữa các cây được
phân bố đều nhau hơn, nhờ vậy chúng nhận được ánh sang nhiều hơn, giảm
tối đa sự cạnh tranh về dinh dưỡng và các yếu tố sinh trưởng phát triển khác.
Khoảng cách hàng hẹp cũng làm hạn chế sự rửa trôi đất và dinh dưỡng, hạn
2
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
chế cỏ dại phát triển và bốc hơi nước do đất sớm bị che phủ.Có thể nói việc
nghiên cứu kỹ thuật canh tác để làm tăng năng suất cây trồng cũng là biện
pháp khả quan trong việc nâng cao hiệu quả trồng trọt.
Trên cơ sở hợp tác nghiên cứu giữa trường Đại học Nông nghiệp Hà
Nội và Đại học Vân Nam Trung Quốc chúng tôi thực hiện đề tài “Tìm hiểu
phản ứng với mật độ trồng của giống ngô đường lai kiểu cây mới Tiên Việt
3 tại Gia Lâm” nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và góp phần vào bộ giống
ngô đường tại Việt Nam.
2. Mục đích yêu cầu
2.1. Mục đích
Tìm hiểu mật độ trồng khác nhau đối với giống ngô đường kiểu cây
mới Tiên Việt 3 nhằm xác định mật độ trồng thích hợp cho giống ngô đường

kiểu cây mới trong điều kiện Việt Nam.
2.2. Yêu cầu
+ Đánh giá sinh trưởng phát triển của giống ngô đường Tiên Việt 3 trong
điều kiện vụ Hè Thu 2009 dưới điều kiện sinh thái đồng bằng sông Hồng.
+ Đánh giá khả năng quang hợp của giống ngô ngô đường Tiên Việt 3 ở các
mật độ khác nhau.
+ Đánh giá khả năng chống chịu của giống ngô đường Tiên Việt 3 ở các mật
độ trồng khác nhau.
+ Đánh giá năng suất và yếu tố tạo thành năng suất của giống ngô đường
Tiên Việt 3 ở các mật độ trồng khác nhau.
+ Đánh giá chất lượng của giống ngô đường Tiên Việt 3 ở các mật độ trồng
khác nhau.
3
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu chung về cây ngô
2.1.1. Nguồn gốc phân loại
Việc trồng ngô được bắt nguồn ở Trung Mỹ, Đặc biệt là Mêhicô, từ đó
ngô được truyền bá lên phía bắc tới Canada và xuống phía nam tới Achentina.
Ngô cổ nhất khoảng 7000 năm, được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở
Teotihuncan, một thung lũng gần Puebla ở Mêhicô, nhưng có lẽ còn có các
trung tâm khởi nguyên thứ cấp ở Châu Mỹ (Vũ Đình Hoà, Bùi Thế
Hùng,1995)[8]. Nguồn gốc này ảnh hưởng tới một số đặc điểm sinh trưởng,
phát triển của cây ngô, ảnh hưởng đến một số yêu cầu của cây ngô đối với các
điều kiện ngoại cảnh và là những điều cần được chú ý đến trong quá trình tác
động các yếu tố kỹ thuật tăng năng suất ngô (Đường Hồng Dật, 2004).
Vào cuối thế kỷ 15, sau sự khám phá lục địa Châu Mỹ của Christopher
Columbus, ngô được nhập vào Châu Âu qua Tây Ban Nha. Sau đó ngô được
truyền bá qua các vùng khí hậu ấm áp của Địa Trung Hải và lên Bắc Âu.

Mangelsdorf và Reeves (1939) chỉ ra ngô được trồng ở mọi vùng nông nghiệp
thích hợp trên thế giới và tất cả các tháng trong năm ngô đều được thu hoạch ở
đâu đó trên thế giới. Ngô được trồng từ vĩ độ 58
0
Bắc ở Canada và Liên xô cũ tới
vĩ độ 40
0
Nam bán cầu. Ngô cũng được trồng ở những vùng thấp hơn mực nước
biển ở đồng bằng Caspia và ở độ cao trên 4000 m ở dãy Anđơ của Pêru.
Mặc dù ngô có tính đa dạng rất lớn, tất cả các loại ngô được biết đến
ngày nay đều đã được người dân bản xứ tạo ra khi khám phá ra Châu Mỹ. Tất
cả các loại hình ngô được phân loại là Zeamays. Hơn nữa, bằng chứng thực
vật học, di truyền và tế bào học chỉ ra một nguồn gốc chung đối với mọi loại
4
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
hình ngô hiện có. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng ngô hình thành từ
teosinte, Euchlaena mexicana Shrod, một loại cây trồng hang năm có lẽ có họ
hang gần nhất với ngô. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu khác tin rằng ngô bắt
nguồn từ một dạng ngô dại mà nay không còn nữa. Sự gần gũi của teosinte
với ngô xuất phát từ thực tế là cả 2 có 10 nhiễm sác thể và đồng dạng với
nhau hoặc đồng dạng không hoàn toàn.
Việc chuyển gen giữa cây teosinte và ngô đã xảy ra trong quá khứ và
vẫn xảy ra trong ngày nay ở một vài nơi của Mêhicô và Guatemala nơi
teosinte mọc giữa những cây ngô. Galinat (1977) đã chỉ ra rằng những giả
thuyết khác nhau về nguồn gốc của ngô về cơ bản 2 giả thuyết vẩn tồn tại:
trước hết, teosinte ngày nay là tổ tiên của cây ngô hoặc teosinte nguyên thuỷ
là tổ tiên chung của cả cây ngô và teosinte, thứ hai, dạng ngô bọc đã bị diệt
chủng là tổ tiên của ngô, với teosinte là dạng đột biến của ngô bọc này.
Trong bất kỳ trường hợp nào hầu hết những ngô ngày nay tạo ra từ
những vật liệu đã phát triển ở miền nam nước Mỹ, Mêhicô, Trung và Nam

Mỹ. (Vũ Đình Hoà, Bùi Thế Hùng, 1995) .
Phân loại thực vật
Ngô thuộc họ hoà thảo Poacea tộc Tripsacaea (Maydea). Tên khoa học
là Zeamays L. Tộc Tripsacaea có 4 chi:
1. Chi Zea L.
2. Chi Euchlaena
3. Chi Tripsacum
4. Chi Coix
(Đinh Thế Lộc và cộng sự, 2001).
Từ tộc (tribus) Maydeae, 2 chi (genus) Euchlaena Schrad và
Tripsacum L là gần với chi ngô Zea L.
5
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
Cơ sở của bảng phân loại ngô là hệ thống do Sturtevant đề xuất năm
1899 dựa trên các đặc diểm hình thái nội nhũ trong hạt.
Theo bảng phân loại này loài ngô được phân thành các loài phụ (các
nhóm) sau đây:
1-Ssp amilaceae - ngô bột.
2- Ssp indentata – ngô răng ngựa.
3- Ssp indurate – ngô đá rắn: ngô tẻ.
4- Ssp everta – ngô nổ.
5- Ssp saccharata - ngô đường.
6- Ssp ceratina – ngô nếp.
7- Ssp tunicate – ngô vảy, ngô bọc.
(Nguyễn Văn Hiển, 2000)
Ngô đường (Zea mays L.) đôi khi gọi theo biến chủng là Zea mays L. var.
rugosa (hoặc saccharata) là cây hàng năm, họ hoà thảo, bộ nhiễm sắc thể
2n=20.( Tom Barnes và cộng sự, 2001)
Ngô đường là một đột biến lặn của ngô thường, một số là đột biến lặn
của gen điều khiển tổng hợp tinh bột (su) và những biến đổi khác, gen điều

khiển độ ngọt hay nhăn nheo (sh2) (USDA ,2008).
Ngô đường siêu ngọt được nhà khoa học John Laughnan của đại học
Urbana phát hiện năm 1959 khi thử hạt ngô khô, ông rất ngạc nhiên vể độ
ngọt của một hạt ngô đột biến được nhận từ trung tâm dự trữ di truyền cây
ngô của trường ở Urbana. Đột biến đó được biết là shrunken2 và sau đó được
biết là một dạng ngô siêu ngọt trên thế giới (Linda Mc Graw, Martin M.
Sachs, 2000).
Đặc điểm của ngô đường được nhiều nghiên cứu công bố như Abedon,
BG and Tracy, WF (1996), Tom Barnes và cộng sự (2001) với đặc điểm nổi
bật về chất lượng hạt và màu sắc hạt. Ngô đường có rất nhiều màu sắc khác
6
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
nhau: trắng, vàng, đỏ, tím và dạng lẫn tạp. Trong đó phổ biến là dạng có nội
nhũ vàng và nội nhũ trắng, nội nhũ vàng. Sự lẫn tạp phấn của các dạng nội
nhũ vàng và nội nhũ trắng tạo ra dạng lẫn tạp vàng - trắng ( Bi- colors) (gồm
75% vàng và 25% trắng trên cùng 1 bắp) ở ngô đường. Tuy nhiên, nếu dạng
lẫn vàng - trắng giao phấn với dạng màu vàng thì màu của nội nhũ sẽ có màu
vàng là chính. (Abedon, BG and tracy, WF, 1996)(Steve Diver, George
Keeper, Preston Sullivan 2001)
Phân loại ngô đường có thể dựa trên hàm lượng đường và một số đặc
diểm khác. Vince Fritz và cộng sự (2003,2006) dựa trên hàm lượng đường và
một số đặc điểm phân ngô đường thành 3 nhóm:
+ Ngô ngọt thường-Normal sugary (su) là ngô tiêu chuẩn cho tiêu dùng
ăn tươi, nảy mầm được ở nhiệt độ 15 - 18
0
C.
+ Ngô ngọt đậm – Sugary enhanced (se) độ đường cao hơn và thời gian
chuyển đường thành tinh bột chậm hơn sau thu hoạch, nội nhũ rất mềm, nảy
mầm ở nhiệt độ 15-18
0

C.
+ Ngô siêu ngọt- Supersweet or shrunken-2 (sh2) ngô có hàm lượng
đường cao gấp 2-3 lần ngô ngọt tiêu chuẩn, ngô cho thị trường ăn tươi, hạt
nhỏ và nhẹ hơn hai loại trên, hạt nhăn nheo(USDA ,2008).
Ngoài ra B. Rosie Lerner và N. Dana dựa trên đột biến đã phân ngô
đường thành 6 nhóm như sau:
1) Ngô đường cơ bản: (su su*)
2) Loại ngô đường dã bị biến đổi một phần tội thiểu là 23% nội nhũ biến
đổi như sau:
- Sự phối hợp hoặc ngô siêu ngọt (su sh
2
*).
- Ngô đường ngọt đậm (su se).
3) Dạng biến đổi hoàn toàn (su se*) biến đổi tất cả nội nhũ .
4) Chỉ có 1 gen thay thế (su) thông thường là (sh
2
).
7
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
5) Có nhiều gen thay thế gen (su-se, và wx* là nhóm thay thế (su).
6) Một dạng tương đối mới của ngô đường được biết như “ bộ ba” gồm
hai phần gen tăng cường (se) và một phần gen siêu ngọt (sh
2
) trong nội nhũ
trên một bắp. (B. Roise lerner and Michael N. Dana, 1998)
Tracy, W.F và cộng sự dựa trên di truyền phân tử phân thành 4 nhóm là
su1, su2, se và sh2, 4 nhóm này khác nhau chủ yếu về khả năng tổng hợp
đường, độ mềm của nội nhũ (Tom Barnes và cộng sự, 2001).
Sự đa dạng của ngô đường còn được biểu hiện ở màu sắc hạt và màu
sắc lõi.

Bảng 1.1. Màu sắc hạt và lõi của một số dạng ngô đường
Màu sắc Tên thứ
Hạt Lõi
Trắng Trắng Var. duleis Korn
Hồng(đỏ nhạt) Đỏ Var. subduleis Kulesh et Kzhuh
Hồng(đỏ nhạt) Trắng Var. flavoduleis Kiorn
Đỏ Đỏ Var. rubentiduleis
Tím Var. subrubentideis Kulesho et Kzhuh
Xanh Var. rubroduleis Korn
Đen Trắng Var. cocruleoduleis Korn
Hạt trong với vạch đỏ Var. atratoduleis Kulesh et Kozhuh
Hạt trên bắp có nhiều màu Var. varioduleiss Korn
Nguồn: Cây ngô, Cao Đắc Điểm, NXB Nông nghiệp(Cao Đặc điển và cs,
1988).
2.1.2. Đặc điểm sinh vật học
2.1.2.1 Đặc điểm cơ quan sinh dưỡng
- Rễ ngô:
Ngô có hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hoà thảo, bao gồm 3
loại rễ chính là: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng.
Rễ mầm bao gồm rễ mầm sơ sinh và rễ mầm thứ sinh. Rễ mầm sơ sinh
(phôi) là cơ quan xuất hiện đầu tiên sau khi ngô được gieo. Sau một thời gian
8
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
ngắn xuất hiện, rễ mầm sơ sinh có thể ra nhiều lông hút và nhánh. Thường thì
rễ mầm sơ sinh ngừng phát triển, khô đi và biến mất sau một thời gian ngắn
vào khoảng giai đoạn lá thứ 3 – V3.
Rễ mầm thứ sinh xuất hiện từ trụ gian lá mầm (mesosotyle) của phôi
phía dưới mấu của bao lá mầm (coleoptyle) sau sự xuất hiện của rễ chính.
Rễ đốt: Còn gọi là rễ phụ cố định xuất hiện ở các đốt thấp của thân,
mọc vòng quanh các đốt dưới mặt đất. Ngô ra rễ đốt đầu tiên lúc 3 – 4 lá và

có số lượng lớn từ 8 – 16 rễ ở mỗi đốt.
Rễ chân kiềng: Rễ chân kiềng mọc quanh các đốt trên mặt đất sát gốc.
Rễ chân kiềng to, nhẵn, ít phân nhánh, không có rễ con và lông hút ở phần
trên mặt đất.
- Thân, lá ngô:
Ngô thuộc họ hoà thảo song có thân khá chắc, có đường kính từ 2 –
4cm tuỳ theo giống, điều kiện sinh thái và chăm sóc. Thân có chiều cao
khoảng 1,5 – 4m. Thân chính của ngô có nguồn gốc từ chồi mầm (plumule)
bao phủ bởi bao lá mầm (coleotyle) nằm trong phôi của hạt ngô. Thân ngô
trưởng thành bao gồm nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc bằng bông cờ.
Số lượng của lóng và chiều dài của lóng là chỉ tiêu quan trọng trong việc phân
loại các giống ngô. Thường các giống ngắn ngày có khoảng 14 – 15 lóng, các
giống trung bình ngày 18 – 20 lóng và các giống dài ngày có khoảng 20 – 22
lóng. Lóng mang bắp có một rãnh dọc cho phép sự bám và phát triển bình
thường của bắp.
Lá ngô: Sau khi bao lá mầm mọc lên khỏi mặt đất, các lá bắt đầu lần
lượt mở ra. Mỗi một lá được cấu tạo bởi bản lá (phiến lá) và bẹ lá ôm chặt lấy
thân và lưỡi lá (thìa lá). Các giống khác nhau có số lá khác nhau, chiều dài
chiều rộng, độ dày, lông tơ, màu lá gân lá cũng có sự thay đổi.
- Bông cờ và bắp:
9
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
Ngô là loại cây có hoa khác tính cùng gốc. Hai cơ quan sinh sản đực
(bông cờ và cái (bắp) tuy cùng nằm trên cùng một cây song ở những vị trí
khác nhau.
2.1.2.2 Đặc điểm cơ quan sinh sản
-Hoa đực:
Hoa đực thường là bông cờ nằm ở đỉnh cây. Hoa đực xếp theo chùm
gồm một trục chính và nhiều nhánh. Hoa đực mọc thành bông nhỏ còn gọi là
chét, bông con hoặc gié. Các gié mọc đối diện nhau trên trục chính hay trên

các nhánh. Trong mỗi bông nhỏ có hai chùm hoa, một chùm cuống dài và một
chùm cuống ngắn. Đôi khi một bông nhỏ có một hoặc ba chùm hoa. Mỗi
chùm hoa có hai hoa, có vỏ trấu dài chung cho hai hoa (mày trên và mày
dưới) với gân và lông tơ. Ở giữa mỗi hoa có thể thấy dấu vết thoái hoá của
của nhụy hoa cái, quanh đó có ba chỉ đực mang ba nhị đực và hai mày nhỏ -
mày ngoài tương ứng với lá đài hoa. Khi hoa chín các mày phồng lên, các chỉ
nhị dài ra, bao phấn tách ra khỏi hoa và tung các phấn hình trứng có đường
kính khoảng 0,1 mm. Mỗi bông nhỏ có hai hoa, mỗi hoa có ba nhị đực, mỗi
nhị đực có một bao phấn, mỗi bao phấn có 2 hai ô và trong mỗi ô (phòng)
chứa khoảng 1000 – 2500 hạt phấn. Khi bắt đầu nở, các hoa ở 1/3 phía đỉnh
trục chính tung phấn trước, sau đó tung phấn theo thứ tự từ trên xuống dưới
và từ ngoài vào trong. Một bông cờ trong mùa xuân, hè đủ ấm thường tung
phấn trong trong 5 – 8 ngày, mùa lạnh khô có thể kéo dài 10 – 12 ngày. Hoa
tung phấn rộ vào khoảng 8 – 10 giờ sang và 14 – 16 giờ chiều. Phấn ngô thích
hợp cho thụ tinh tốt nhất khi thời tiết mát mẻ, nhiệt độ khoảng 18 – 20
o
C, độ
ẩm không khí khoảng 80% và ngay sau khi bứt khỏi bao phấn nếu không khả
năng thụ tinh sẽ giảm. Theo Cao Đắc Điểm (1988) nếu lấy phấn rồi thụ tinh
ngay tỉ lệ hoa tạo thành hạt là 100%, sau 72 tiếngchỉ còn 75%.
-Hoa cái:
10
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
Hoa cái (bắp ngô) phát sinh từ chồi nách các lá, song chỉ một đến 3
chồi khoang giữa thân mới tạo thành bắp. Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn,
mỗi đốt trên cuống có một lá bi bao bọc, lá bi thường không có phiến lá. Trên
trục đính hoa cái (cùi, lõi ngô), hoa mọc từng đôi bông nhỏ. Mỗi bông nhỏ có
2 hoa nhưng một hoa thoái hoá, chỉ còn một hoa tạo thành hạt. Phía ngoài hoa
có 2 mày (dưới và trên), Ở chủng ngô bọc (pod corn) hai mày này phát triển
bao kín hết hạt. Tiếp đến là lá mày ngoài và mày trong, ngay sau mày ngoài

quan sát thấy dấu vết của nhị đực và hoa cái thứ hai thoái hoá chính giữa bầu
hoa, trên bầu hoa có núm vòi nhụy vươn dài thành râu. Trên râu có nhiều lông
tơ và chất tiết làm cho hạt phấn bám vào và dễ nãy mầm. Thời gian phun râu
thường sau khi tung phấn 1 – 5 ngày tuỳ thuộc vào giống và điều kiện tự
nhiên. Hiện tượng tung phấn trước phun râu thường gạp nhiều ở điều kiện
Việt Nam và gọi là tính nhị chín trước (protandry). Ngược lại phun râu trước
tung phấn gọi là tính nhụy chín trước (prôtgyhy). Ở điều kiện nước ta râu
phun trong khoảng thời gian 5 – 12 ngày, Trên một bắp, hoa cái gần cuống
bắp phun râu trước rồi tiến dần lên đỉnh bắp. Trên một cây ngô bắp trên
thường phun râu trước bắp dưới 2 – 3 ngày.
Hạt ngô thuộc loại quả dĩnh gồm năm phần chính: vỏ hạt, lớp aleuron,
phôi, nội nhũ và chân hạt. Vỏ hạt bao xung quanh hạt là một phần màng nhẵn.
Lớp aleuron nằm dưới vỏ hạt và bao lấy nội nhũ và phôi. Nội nhũ là phần
chính của hạt chứa các tế bào dự trữ chất dinh dưỡng. Nội nhũ có 2 phần: nội
nhũ bột và nội nhũ sừng. Tỉ lệ này phụ thuộc vào chủng ngô và các giống ngô
khác nhau.
Phôi chiếm gần 1/3 thể tích của hạt và gồm các phần: ngù – phần ngăn
cách giữa nội nhũ và phôi; lá mầm; trục dưới lá mầm; rễ mầm và chồi mầm.(
Lê Công Bến 1997)
11
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
2.2. Nghiên cứu chọn tạo giống ngô đường
2.2.1. Nghiên cứu chọn tạo giống ngô thụ phấn tự do
Giống ngô thụ phấn tự do (Open pollinated variety- OPV) là giống
trong quá trình sản xuất hạt con người không cần can thiệp vào quá trình thụ
phấn – chúng thụ phấn tự do- thụ phấn mở (Ngô Hữu Tình, 2003).( Ngô Hữu
Tình, 2003)
Giống ngô thụ phấn tự do được chia làm:
- Giống địa phương( Local variety), là những giống ngô đã được trồng
và tồn tại trong một thời gian lâu đời, trong vùng sản xuất qua tác động chọn

lọc của con người, có những đặc trưng, đặc tính khác biệt với các giống khác
và di truyền được cho các thế hệ sau. Giống địa phương có đặc tính thích nghi
cao với địa phương, thông qua tính chống chịu sâu bệnh, điều kiện bất thuận
của địa phương đó, chất lượng sản phẩm cao và năng suất thấp (Ngô Hữu
Tình, 2003)( Ngô Hữu Tình, 2003) với đặc điểm trên, giống địa phương cũng
được sử dụng làm vật liệu để lai với nguồn nhập nội nhằm tạo ra các giống có
năng suất cao vẫn giữ được đặc tính tốt( Nguyễn Văn Hiển, 2000). Vì vậy
dòng ngô địa phương là nguồn nguyên liệu quan trọng cho công tác tạo giống
ngô dựa trên cơ sở ưu thế lai.
- Giống tổng hợp( Synthetic variety). Là thế hệ tiên tiến của giống lai
nhiều dòng bằng thụ phấn tự do. Giống tổng hợp được sử dụng đầu tiên thuộc
về Hayes và Garber vào năm 1919. Sản xuất hạt ngô giống cải tiến bằng cách
tái hợp nhiều dòng tự phối có ưu điểm hơn so với lai đơn , lai kép vì người
nông dân có thể giữ giống từ 2-3 vụ, giống tổng hợp ngoài việc sử dụng trực
tiếp trong sản xuất còn được coi là nguồn vật liệu tốt để rút dong và tạo giống
ngô lai (Ngô Hữu Tình, 2003).
- Giống ngô thụ phấn tự do cải tiến(improvedvariety), bao gồm các
giống tổng hợp và hỗn hợp có một số đặc điểm chính như hiệu ứng với gen
12
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
cộng được khai thác trong chọn tạo có nền di truyền rộng nên thích ứng rộng,
có tiềm năng năng suất khá hơn các giống địa phương, có độ đồng đều chấp
nhận được, dễ sản xuất, giá giống rẻ, giống được sử dụng từ 2 đến 3 đời( Mai
Xuân Triệu, 1998).
Giống hỗn hợp(Composite variety), là thế hệ tiến triển của tổ hợp các nguồn
vật liệu ưu tú có nền di truyền khác nhau (Ngô Hữu Tình, 2003). Nguồn vật
liệu này bao gồm các giống thụ phấn tự do, giống tổng hợp, giống lai kép
Giống hỗn hợp khác giống tổng hợp ở chỗ có nền di truyền rộng và nhà chọn
giống không thể kiểm soát chặt chẽ khả năng kết hợp của các vật liệu tạo
giống( Mai Xuân Triệu,1998). Nhóm giống này được gọi là giống quá độ

trước khi sử dụng giống lai mới có năng suất cao.(Nguyễn Thế Hùng, 1995)
Trong công tác chọn tạo các dòng thuần trung tâm cải lương giống ngô
và lúa mì quốc tế (CIMMYT) đã tạo ra được một khối lượng dòng thuần lớn.
Đây là nguồn vật liệu khởi đầu cho công tác tạo giống ngô cung cấp cho các
trung tâm nghiên cứu ở các quốc gia. Vào năm 1985 CIMMYT đưa ra 74
dòng thuần nhiệt đới (CML1 – CML74) và 65 dòng á nhiệt đới (CML75 –
CML139) (CIMMYT, 1985). Năm 1992 các nhà nghiên cứu của CIMMYT
tiếp tục cung cấp thêm tập đoàn gồm 99 dòng (CML140 – CML238) trong đó
bao gồm 33 dòng QPM nhiệt đới (CML140 – CML172), 22 dòng QPM á
nhiệt đới (CML173 – CML194), 22 dòng cận nhiệt đới thấp (CML217 –
CML238). Ở Việt Nam nghiên cứu về dòng ngô thuần đã được thực hiện rất
nhiều. Vào năm 2008 tác giả Lê Quý Kha và cộng sự đã thực hiện đề tài
“Khảo sát tập đoàn dòng ngô thuần có chất lượng protein cao (QPM) mới
chon tạo ở phía bắc Việt Nam” đã chọn ra được 10 dòng (D3, D6, D8, D21,
D22, D24, D42, D58 và D59) có năng suất khá cao (23,37 – 45 tạ/ha), chống
đổ, ít nhiễm bệnh ở thân và bắp. ( Châu Ngọc Lý và cs,2008)
Hơn 800 giống thụ phấn tự do của ngô đường đã được trồng để phát
13
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
triển giống ưu thế lai, nhưng chỉ còn một số giống quan trọng còn tồn tại đến
ngày nay. Các allel có thể sử dụng cải tiến tính chống bệnh của ngô đường có
thể có trong các giống thụ phấn tự do hiện có. Mục đích của nghiên cứu là so
sánh 30 giống ngô đường thụ phấn tự do với các giống lai thương mại về phản
ứng với bệnh héo rũ, bệnh gỉ sắt, bệnh khô vằn chủng miền Bắc (NSB) và bệnh
khô vằn chủng miền Nam (SLB) và phân loại các giống trên cơ sở kiều hình
phản ứng với 4 bệnh này, cây nhiễm năm 1994, 1995 và 1996 với Erwinia
stewartii, Puccinia sorghi, Exserohilum turcicum hoặc Bipolaris maydí maydis.
Triệu chứng theo dõi tỷ lệ trên toàn lô, phân tích phương sai (ANOVA) và giá
trị trung bình so sánh sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa. Một số giống thụ phấn tự
do biểu hiện nhiễm trung gian đến trung bình với héo rũ, gỉ sắt và khô vằn,

nhưng không có giống nào chống chịu hơn giống ngô đường ưu thế lai thương
mại. Bởi vì chống chịu của các nguồn gen ngô đường cải tiến với bệnh héo rũ,
gỉ sắt và NLB biểu hiện lớn hơn các giống thụ phấn tự do.(Pataky và cs,1988)
Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, rất nhiều cơ quan nghiên cứu đã chọn ra
những giống ngô đường có năng suất cao và chất lượng tốt để đưa vào sản
xuất đại trà. Điển hình là năm 1990, Viện nghiên cứu ngô đã nhập nội giống
ngô đường từ Thái Lan (Super sweet corn) – là giống thụ phấn tự do được
trồng khảo sát tại Trung tâm ngô sông Bôi. Qua theo dõi thấy giống thích ứng
với điều kiện sinh thái, ít sâu bệnh, nhưng tỷ lệ bắp chưa cao nên Viện nghiên
cứu ngô đã đưa vào quá trình chọn lọc đám cải tiến (modified mass
selection), chọn lọc bắp trên hàng cải tiến với số lượng 300 gia đình ưu
tú(40). Giống được đặt tên là TSB3 vào năm 1992 và đã được đưa đi trồng
thử và sản xuất hàng hoá tại một số tỉnh ở Miền Bắc như Hà Nội, Hà Tây,
Thanh Hoá… và các tỉnh Miền Trung. Năm 1996, TSB3 được Hội đồng Khoa
học Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống quốc gia và
cho phép sản xuất theo nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong nước và
14
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
phục vụ xuất khẩu.(Viện nghiên cứu Ngô, 2006)
Bên cạnh Viện nghiên cứu ngô, Bộ môn Cây lương thực - Trường Đại
học Nông nghiệp cũng đã tham gia vào công tác khảo nghiệm và chọn lọc
giống ngô thực phẩm. Vụ đông 1998, bộ môn tiến hành khảo sát 105 giống
ngô đường thụ phấn tự do nhập nội từ Hàn Quốc, sử dụng giống TSB3 làm
đối chứng, đã chọn được 27 giống có triển vọng như: 9710 – 493, 9710 – 567,
9710 – 688, 9710- 719, 9710 – 729.(Nguyễn Thế Hùng, Tăng Thị Hạnh,
1999)
2.2.2. Nghiên cứu chọn tạo giống ngô ưu thế lai
Các giống ngô đường trước đây chủ yếu được chọn tạo bằng các phương
pháp chọn tạo giông ngô truyền thống. Độ ngọt do gen “shrunken 2” ký hiệu
sh2 điều khiển được khám phá từ những năm 1960, gen sh2 đã có độ ngọt cao

ở thời điểm thu hoạch. Ngày nay, các giống ngô đường ưu thế lai chiếm ưu
thế và có một số giống ngô đường biến đồi gen (GMO) nhưng chỉ trong thí
nghiệm nhỏ chưa có giống thương mại, một số giống thương mại chỉ là giống
chuyển gen kháng bệnh ở các giống ngô thường.(Russ Nicely, Ponnarong
Prasertsri, 2004)
Đối với ngô đường ưu thế lai trong 20 năm các nhà tạo giống ngô đường
đã giới thiệu nhiều kiểu gen mới, nâng cao hàm lượng đường và kéo dài thời
gian tươi của lá bi, những loại này gọi là siêu ngọt như đặc điểm của loại
(sh2).( Guo và cs,2004)( Linda Mc Graw, Martin M. Sachs, 2000)
Nghiên cứu ngô đường lai theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và
chống chịu bất thuận được tâp trung nhiều ở châu Âu, Ordas B và cộng sự
năm 2005 cho thấy nảy mầm và sức sống của cây con ngô đường ưu thế lai
tốt hơn do đồng hợp gen su1 giúp cây ngô phù hợp với điều kiện canh tác của
vùng Atlantic, châu Âu (mùa xuân lạnh và ẩm). Những dòng ngô đường ưu tú
đồng hợp cả 2 gen su1 (sugary1) và se1 (sugary enhancer1)có thể cải thiện
15
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
chất lượng ngô lai su1 một cách ổn định. Các dòng thuần su1se1 có thể cải
thiện su1su1 để lựa chọn trong một số hướng chọn tạo giống. Mục đích
nghiên cứu này là nhận biết các dòng thuần su1se1 đã được lai với 8 dòng
thuần su1 là bố mẹ của 15 tổ hợp lai su1. Giống lai và dòng thuần đã được
trồng cạnh nhau ở 2 địa phương miền Bắc Tây Ban Nha trong 2 năm 1999 và
2000, ước lượng có thể để nhận biết bố mẹ su1se1 với các allel phù hợp thiếu
trong giống lai su1 ( µG’. PTC, UBND, NI, PNGg, PNGceg, và GCA) đã xác
định được µG’ và NI đã được lựa chọn để cải thiện chất lượng giống lai một
cách ổn định. Ước lượng chỉ ra rằng chất lượng ổn định và các tính trạng khác
của giống lai su1 có thể được cải thiện khi sử dụng vật liệu di truyền từ các
dòng thuần su1se1.( Matt Klenhenz, 2001)
Ngô đường có tính chịu lạnh kém, để cải thiện khả năng chịu lạnh của
ngô đường Pedro Revilla và cộng sự (1998) đã nghiên cứu để nhận biết nguồn

vật liệu quần thể ngô đồng ruộng để cải tiến tính chịu lạnh của ngô đường ưu
thế lai, mỗi quần thể trong 10 quần thể ngô đồng ruộng được lai với 4 dòng
thuần ngô đường và đánh giá con lai dưới điều kiện lạnh. Ước lượng giá trị
trung bình của các locus trong quần thể và ước lượng của 6 allel phù hợp
(lp(iota)mu’, PTC, UBND, NI, PNG(g), PNG(ceg)) và GCA. Quần thể lai có
khả năng sống sót và nảy mầm khác với quần thể gốc ở mức có ý nghĩa,
tương quan nảy mầm giữa lp(iota)mu’, UBND, PTC và NI ở mức cao. Xác
định được quần thể PTC, AS-3(HT)C3 của Mỹ và quần thể Oroso của Tây
Ban Nha có tiềm năng tốt nhất làm vật liệu cho chọn tạo giống ngô đường
chịu lạnh.( Nguyễn Thế Hùng, Tăng Thị Hạnh, 1999)
Trên thế giới có nhiều giống ngô đường ưu thế lai đang được phổ biến
rộng rãi trên thị trường. Ở nước ta, những giống ngô đường lai cho năng suất
cao chất lượng tốt được người dân trồng phổ biến như: Sugar 75, TN115,
TN103, Sakita, Hoa Trân…
16
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
Sugar 75 là giống bắp ngọt được công ty Syngenta lai tạo từ 2 nguồn gen
ôn đới và nhiệt đới nên vừa thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới vừa có chất
lượng thương phẩm cao. Đây là giống bắp ngọt nhiệt đới có chất lượng ăn ngon
nhất hiện nay với ưu điểm mềm và ngọt. Cây cao khoảng 2,2m, đóng trái thấp.
Cây thích nghi tốt với nhiều điều kiện canh tác, có thể trồng được quanh năm ở
miền Nam, miền Trung, miền Bắc và cao nguyên. Cây sinh trưởng khoẻ, thời
gian sinh trưởng ngắn: 68- 70 ngày ở miền Nam, 80- 85 ngày ở các vùng cao
nguyên hoặc vùng có khí hậu lạnh. Trái to và có độ đồng đều cao với kích
thước bình quân: dài 19- 22 cm, đường kính 5cm. Hạt đóng phủ cùi, hạt sâu
chân và có màu vàng tươi hấp dẫn. Ngoài ra giống bắp ngọt Sugar 75 này còn
có những ưu điểm như tỷ lệ nảy mầm cao: 90-95%; kháng bệnh tốt, đặc biệt là
các bệnh rỉ sắc, sương mai, cháy lá, thối thân….; chất lựơng hạt cao với đặc
tính nổi bật là mềm, thơm và ngọt (Syngenta, 2009).
TN115 là giống ngô đường lai do công ty Trang nông nhập nội và đề

nghị phát triển. Ngô TN115 có TGST từ 68 – 70 ngày, chiều cao cây trung
bình từ 200 – 220cm, chiều cao đóng bắp thấp, chiều dài bắp 20cm, có khả
năng chống đổ khá, sinh trưởng và phát triển mạnh, dễ trồng. Ngô TN115 có
bắp thuôn, đẹp, hạt màu vàng dóng khít, sâu cay, ít đuôi chuột, chất lượng bắp
luộc mềm, ngọt, thơm ngon. Năng suất trung bình TN115 đạt 12 tấn/ha, khả
năng kháng sâu bệnh tốt (hoinongdan, 2007).
TN103 là giống ngô đường nhập nội từ công ty Novartis, thời gian sinh
trưởng từ 60 – 70 ngày, chiều cao trung bình từ 210 – 60 ngày, chiều cao
đóng bắp thấp, chiều dài bắp đạt từ 16 – 20cm, đường kính bắp 4,3 – 4,8cm.
Đặc điểm nổi bật của TN103 là hạt đóng khít, sâu cay, ít đuôi chuột, màu hạt
vàng tươi, bắp luộc mềm, rất ngọt, thơm ngon. khả năng chống bệnh của TN
103 khá, năng suất trung bình 12 tấn/ha… (hoinongdan, 2007) .
Sakita là giống ngô đường lai nhập nội bởi công ty Trang Nông, thời
17
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
gian sinh trưởng ở Đồng bằng Sông Cửu Long là 60- 65 ngày, chiều cao cây
trung bình 150 – 170cm, chiều cao đóng bắp thấp, dài bắp 20cm, chống đổ
khá, sinh trưởng phát triển mạnh, dễ trồng. Có màu hạt vàng - Trắng, hạt đóng
sít, có độ ngọt rất cao, ăn ngon, rất được ưa chuộng. Năng suất trung bình đạt
12 tấn/ha, có khả năng chống bệnh khá(hoinongdan,2007).
Giống ngô đường Hoa Trân của công ty giống cây trồng Nông Hữu(Đài
Loan), có thời gian sinh trưởng 70 – 80 ngày. Đây là giống ngô siêu ngọt,
được dùng để ăn tươi, chế biến thực phẩm dưới dạng đóng hộp là nguyên liệu
sản xuất các loại thức ăn bổ dưỡng được ưa chuộng vì nó có hàm lượng
đường cao. Khả năng sinh trưởng phát triển khoẻ, chống đổ tốt. Trọng lượng
bắp từ 250 – 300g. Hạt đều màu vàng cam, tỷ lệ kết hạt cao, ăn giòn, ngọt, có
hương vị đặc trưng… (hoinongdan, 2007) .
2.2.3. Ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống ngô
Kỹ thuật nuôi cấy tế bào đơn bội trong chọn tạo giống ngô
Tạo dòng ngô thuần bằng phương pháp nuôi cấy bao phấn.

Muốn chọn tạo một giống lai, các nhà chọn giống phải tạo ra các dòng
tự phối bắt đầu từ các nguồn nguyên liệu không đồng nhất về mặt di truyền
(heterozygote), sau 6 – 10 thế hệ tự phối mới thu được các cá thể đồng hợp
(homozygote) và thường được gọi là dòng thuần. Sau đó là một quá trình
nghiên cứu khả năng kết hợp, thử nghiệm con lai… Như vậy, chúng ta đã
phải mất khoảng 6 – 8 năm mới tạo ra được một giống lai mới.
Để khắc phục một phần nhược điểm trên, các nhà nghiên cứu đã tạo ra
những dòng đơn bội kép (double halploid), dòng thuần về mặt di truyền
(homozygous lines) bằng nuôi cấy invitro giúp cho công việc tạo ra các dòng
thuần một cách nhanh chóng. Tất cả các công đoạn trên chỉ kéo dài khoảng 1
– 2 năm tiết kiệm được một nửa thời gian so với phương pháp truyền thống.
Phương pháp tạo dòng thuần invitro có thể dựa trên kỹ thuật nuôi cấy ba bộ
18
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Ngọc Bắc - KHCT A - K51
phận sinh sản là bao phấn, hạt phấn tách rời và noãn chưa thụ tinh. Hiện nay
kỹ thuật nuôi cấy bao phấn là một trong những hướng nghiên cứu tạo dòng
thuần invitro có nhiều triển vọng nhất.
Kỹ thuật nuôi cấy bao phấn lần đầu tiên thu được kết quả ở cà độc dược
(Guha và Mahaeshwani, 1964, 1966), tiếp theo ở cây thuốc lá (Nitsch, 1969)
và ở ngô(Arnon, 1975). Đặc biệt kỹ thuật nuôi cấy bao phấn ở ngô được hoàn
thiện bởi Miao và cộng sự (1981); Ku và cộng sự (1981); Ku và cộng sự
(1986) và được áp dụng trong tạo giống lai (Genovesi, 1990; Buter, 1994,
1996; Saisington, 1996; Marhic, 1998; Rosaura Rodriguez, 1998; Lê Huy
Hàm, 1998; Đoàn Đình Long, 1997; Marilca Delalode & Marc P.Couman,
1998…).
Sự hoàn thiện kỹ thuật nuôi cấy bao phấn có tầm quan trọng rất lớn.
Ngoài việc tạo ra các dòng đơn bội kép một cách nhanh chóng (từ 1 – 2 năm)
thay cho phương pháp nội phối, kỹ thuật này còn được sủ dụng rộng rãi trong
các thí nghiệm phân tích đột biến, định vị các điểm đơn gen. Nhờ vậy, kỹ
thuật này rất thích hợp cho các thí nghiệm về nghiên cứu di truyền tế bào

cũng như lập bản đồ gen.
Nhìn chung, sự thành công của kỹ thuật nuôi cấy bao phấn tách rời
cũng như noãn chưa thụ tinh phụ thuộc vào khả năng tạo ra các cá thể đơn bội
và đơn bội kép, các thể đơn bội và đơn bội kép lại phụ thuộc vào khả năng
sinh sản đơn tính của các nguồn nguyên liệu nguyên cứu. Ở ngô, sự sinh sản
đơn tính xuất hiện trong tự nhiên với tần suất khoảng 1/1.000.000, trong đó sự
sinh sản đơn tính đực khoảng 1/80.000 (Chanse, 1969). Do tần suất xuất hiện
thấp đã gây khó khăn cho sự nhận dạng các thể dơn bội trong tự nhiên. Để
khắc phục khó khăn trên các nhà khoa học đã sử dụng phương pháp đánh dấu
các thể lưỡng bội thông thường hoặc dựa trên nền một số tính trạng để phân
biệt với thể đơn bội (Chanse, 1974).
19

×