Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

thực trạng ngành nông nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.89 KB, 29 trang )




ĐỀ TÀI


Thực trạng ngành nông
nghiệp ở Việt Nam









Giáo viên hướng dẫn :

Sinh viên thực hiện :


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


1
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU.


Các nhà kinh tế học đề cao tầm quan trọng của ngành nông nghiệp
trong quá trình phát triển và rất nhiều người thừa nhận rằng, điều kiện cần


thiết để tăng trưởng kinh tế là sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp vì
dựa vào đó thì mới có nguồn thu lợi lớn và ngày một tăng của nông nghiệp.


Nông nghiệp là một ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động
nông nghiệp đã có từ hàng nghìn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề
săn bắn hái lượm. Do lịch sử lâu đời này nền kinh tế nông nghiệp thường
được nói đến như là nền kinh tế truyền thống đồng thời nông nghiệp là một
ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương thực là sản
phẩm chỉ có ở ngành nông nghiệp sản xuất ra được. Con người có thể sống
mà không cần sắt, thép, điện, nhưng không thể thay thiếu lương thực. Trên
thực tế phần lớn các sản phẩm chế tạo có thể thay thế, nhưng không có sản
phẩm nào thay thế được lương thực. Do đó, nước nào cũng phải sản xuất
hoặc nhập khẩu lương thực.


Nông nghiệp giữa vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt
đối với các nước đang phát triển và nhất là nước ta. Bởi vì ở các nước đang
phát triển nói chung và nước ta nói riêng đa số người dân sống dựa vào
nghề nông. Khu vực nông nghiệp có thể là một nguồn cung cấp vốn cho
phát tri
ển kinh tế, với ý nghĩa lớn lao là vốn tích lũy ban đầu cho công
nghiệp hóa. Đa số các nước đang phát triển có những thuận lợi đáng kể, đó
là tài nguyên, thì nông sản đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu, và
ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị cơ bản và
những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được.


Cơ cấu ngành nông nghiệp có ý nghĩa hết sức to lớn đối với quá trình
phát triển của đất nước. Cơ cấu nông nghiệp góp phần tích lũy vốn cho quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tăng dần tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ. Tăng trưởng trong lĩnh vực nông nghiệp có ý
nghĩa quan trọng không những đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế
mà còn đối với công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo, đời sống đa số
nông dân được cải thiện rõ rệt.











PHẦN II: NỘI DUNG


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


2
I
Lý thuyết chung về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp.

1.
Một số khái niệm.


v
Tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất đị
nh.
Sự gia tăng được biểu hiện ở quy mô và tốc độ.

Sự gia tăng về quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít,
đồng nghĩa với sự tăng thêm về lượng tuyệt đối.

Sự gia tăng về tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh
tương đối và phản ảnh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ, đồng
thời là sự gia tăng thêm về lượng tuyệt đối.

Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng
của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với
tính bền vững hay việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng nâng
cao.
v
Cơ cấu ngành kinh tế.

Cơ cấu ngành kinh tế là sự tương quan giữa các ngành trong tổng thể
nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số
lượng và chất lượng giữa các ngành với
nhau.
Mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế xã hội
nhất định, luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng giống như cơ cấu kinh tế của đất

nước, có thể bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần,
nhunữg cơ cấu này có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau.

Cơ cấu ngành nông nghiệp là sự phản ánh cao nhất sự tiến bộ của phân
công lao động xã hội và trình độ phát triển sản xuất trong nông nghiệp,
nhưng nó được thể hiện trên những vùng lãnh thổ nhất định.

Cơ cấu ngành nông nghiệp phát triển tiến bộ mang lại sự biểu hiện về
mặt không gian của cơ cấu ngành.

Cơ cấu ngành trong nông nghiệp thường biểu hiện bằng các quan hệ tỷ
lệ: giữa trồng trọt và chăn nuôi; giữa cây lương thực và cây công nghiệp

rau quả; chăn nuôi gia súc và chăn nuôi gia cầm; giữa sản xuất cây nông
nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn ….

v
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Cơ cấu ngành kinh tế là một phạm trù động, nó luôn thay đổi theo từng
thời kỳ phát triển bởi các yếu tố thích hợp thành cơ cấu không cố định.
Quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày
càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là sự thay đổi về số lượng các
ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi vị trí, tính chất
mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.

Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có

và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


3
hợp để xây dựng cơ cấu tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm
biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phong phú hơn.

2.
Các mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.


v
Mô hình hai khu vực của
Arthus Lewis.
Nhà kinh tế học người Mỹ gốc Jamaica A.Lewis, đã đưa ra các giải
thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng
trưởng. Đặc trưng chủ yếu của mô hình hai khu vực cổ điển là phân chia
nền kinh tế thành hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp và nghiên cứu
quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực. Khu vực nông nghiệp, ở
mức độ tồn tại, có dư thừa lao động và lao động dư thừa này dần dần được
chuyển sang khu vực công nghiệp. Sự phát triển của khu vực công nghiệp
quy
ết định quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng
thu hút lao động dư thừa do khu vực nông nghiệp tạo nên, và khả năng đó
lại phụ thuộc vào tốc độ tích lũy vốn của khu vực công nghiệp.


TPa
0

L1 L2
Đường hàm sản xuất khu vực nông nghiệp(1)


AD,MD



A

La
0 L2

Đường sản phẩm biên và sản phẩm trung bình của lao động khu vực
nông nghiệp. (2)

Mô hình của Lewis được bắt đầu từ khu vực truyền thống, khu vực
nông nghiệp

: TPa = f(La,K,T) với yếu tố đầu vào biến đổi là lao động (La)
còn yếu tố vốn (K), công nghệ (T) cố định như hình vẽ (1) và thấy được:
khi lao động trong khu vực nông nghiệp tăng từ 0 đến La2 thì tổng sản
phẩm của khu vực nông nghiệp tăng từ 0 đến L2 thì tổng sản phẩm của khu
vực nông nghiệp tăng dần từ 0 đến TP2. Tuy vậy mực tăng càng về sau có
TP2


ĐỀ ÁN MÔN HỌC



4
xu hướng giảm dần tức là sản phẩm biên của lao động có xu hướng giảm
dần theo quy mô. TP2 là mức tổng sản phẩm đạt cao nhất của khu vực
nông nghiệp, tại đây người ta đã khai thác và sử dụng hết số và chất lượng
ruộng đất. Nếu lao động tiếp tục được bổ sung vào khu vực nông nghiệp
thì tổng sản phẩm của khu vực nông nghiệp không thay đổi, tức là MP= 0.

Ở hình 2 mô tả đường biểu diễn sản phẩm biên MP và sản phẩm trung
bình của lao động khu vực nông nghiệp (APa). Đường biểu diễn thể hiện
mức Mpa= 0 bắt đầu từ điểm L = L2, và tại đó mức AP2=TP2/L2=0A.
Như vậy khi khu vực nông nghiệp có dư thừa lao động thì mức tiền công
trong khu vực nông nghiệp theo mức sản phẩm biển của lao động và Lewis
gọi đây là mức tiền công tối thiểu hay mức tiển công đủ sống cho người
lao động ở khu vực này. Trong điều kiện có dư thừa lao động thì mọi
người lao động trong khu vực nông nghiệp được trả một mức tiền công
như nhau và nó chính
là mức tiền công tối thiểu, được tính bằng mức sản
phẩm trung bình của lao động.

Khu vực hiện đại hay khu vực công nghiệp

: Trước hết để tiến hành
hoạt động của mình, khu vực công nghiệp phải lôi kéo được lao động từ
nông nghiệp sang. Điều kiện để chuyển được lao động từ nông thôn ra
thành thị là khu vực công nghiệp phải trả cho họ một mức tiền công lao
động cao hơn mức tiền công tối thiểu ở khu vực nông nghiệp hinệ họ đang
được hưởng. Theo Lewis, thì mức tiền công phải trả cao hơn là khoảng
30% so với mức tiền công tối thiểu.

Khu vực công nghiệp khi thu hút lực lượng từ nông nghiệp sang chỉ

phải trả cho họ một mức tiền công ngang bằng nhau. Cho đến khi khu vực
nông nghiệp hết dư thừa lao động. Nếu khu vực công nghiệp vẫn tiếp tục

có nhu cầu thu hút thêm lực lượng lao động thì phải trả một mức tiền công
ngày càng lớn hơn. Khi khu vực nông nghiệp hết dư thừa lao động, quá
trình trao đổi giữa hai khu vực ngày càng trở nên bất lợi về phía công
nghiệp. Trong tổng thu nhập tạo nên, tỷ lệ để trả lương có xu hướng tăng
lên trong khi tỷ lệ lợi nhuận để lại có xu hướng giảm dần. Kết quả là hiện
tượng bất bình đẳng về kinh tế có xu hướng giảm đi. Trong trường hợp đó,
để giảm sự bất lợi cho công nghiệp, cần phải đầu tư lại cho cả nông nghiệp
n
hằm tăng năng suất lao động, giảm cầu lao động ở khu vực này. Việc rút
lao động từ nông nghiệp ra không làm giảm tổng sản phẩm nông nghiệp,
giá nông sản không tăng và sức ép của việc tăng tiền công lao động ở khu
vực công nghiệp giảm đi. Trong điều kiện đó thì cả nông nghiệp và công
nghiệp đều cần tập trung đầu tư theo chiều hướng áp dụng công nghệ hiện
đại.

Mô hình của Lewis có những hạn chế, những hạn chế này xuất phát từ
chính những giả định do ông đặt ra có thể không xảy ra trên thực tế: Giả
định thứ nhất rằng tỷ lệ lao động thu hút từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích lũy của khu vực này. Trên
thực tế, khi khu vực công nghiệp thu được lợi nhuận, vốn tích lũy có thể
được thu hút và sử dụng vào những ngành sản xuất sản phẩm có dung
lượng vốn cao và như vậy ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho khu
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


5
vực nông nghiệp sẽ không còn nữa. Trong điều kiện nền kinh tế mở, sẽ

không có gì đảm bảo rằng nhà tư bản công nghiệp khi thu được lợi nhuận
chỉ có tái đầu tư trong nước, họ phải tìm nơi đầu tư có lợi nhất và đó rất có
thể là đầu tư ra nước ngoài, nơi có giá đầu tư rẻ hơn. Giả định thứ hai rằng
nông thôn là khu vực dư thừa lao động còn thành thị thì không. Trên thực
tế thì thất nghiệp vẫn có thể xẩy ra ở khu vực thành thị. Mặt khác khu vực
nông thôn cũng có thể tự giải quyết tình trạng dư thừa lao động thông qua
các hình thức tạo việc làm tại chỗ mà không cần phải chuyển ra thành phố.
Giả định thứ ba rằng khu vực công nghiệp không phải tăng lương cho số
lao động từ nông thôn chuyển sang khi ở đây còn dư thừa lao động. Trên
thực tế, ở các nước đang phát triển mức tiền công khu vực công nghiệp vẫn
có thể tăng lên kể cả khi ở nông thôn có dư thừa lao động vì khu vực công
nghiệp đòi hỏi tay nghề lao động ngày càng cao hơn nên vẫn phải trả một
mức tiền công lao động cao hơn. Ở một số nước hoạt động của tổ chức
công đoàn rất mạnh nên họ có thể tạo ra những áp lực đáng kể để khu vực
công nghiệp phải tăng lương cho người lao động.

v
Mô hình hai khu vực của trường phái tân cổ điển.


tưởng nghiên cứu của các nhà kinh tế thuộc trường phái tân cổ điển
là đặt khoa học công nghiệp là một yếu tố trực tiếp và mang tính quyết
định đến tăng trưởng kinh tế. Điều này đã giúp họ phê phán quan điểm dư
thừa lao động trong nông nghiệp của trường phái cổ điển và thực hiện
những nghiên cứu khác biệt về mối quan hệ công nghiệp với nông nghiệp
trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Mô hình tân
cổ điển về hai khu vực kinh tế được phân tích như sau:

Khu vực nông nghiệp.


Dưới sự tác động của khoa học công nghệ, các nhà kinh tế thuộc trường
phái tân cổ điển cho rằng yếu tố ruộng đất trong nông nghiệp không có
điểm dừng, con người có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất. Với
lập luận đó, đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp với yếu tố
lao động biến đổi TP = F(
L)
của trường phái tân cổ điển sẽ luôn có xu thế
dốc lên thể hiện dưới sơ đồ sau:








TP
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


6
0 L
Đường hàm sản xuất trong nông nghiệp tân cổ điển.

Sơ đồ cho thấy, mọi sự tăng lên của lao động đều dẫn đến tăng sản
lượng nông nghiệp, tức là sản phẩm cận biên của lao động trong khu vực
này luôn dương (MP > 0). Điều đó có nghĩa là sự tăng dân số không phải
là hiện tượng bất lợi hoàn toàn và do đó không có lao động dư thừa để có
thể chuyển sang khu vực khác mà không làm giảm đầu ra của nông nghiệp.
Tuy vậy, qua sơ đồ ta thấy mặc dù đường biểu diễn hàm sản xuất trong

nông nghiệp không có phần nằm nganh nhưng độ dốc cũng có xu thế giảm
dần, tức là với một số lượng lao động tăng lên bằng nhau, càng về sau thì
mức tăng lên của tổng sản phẩm ngày càng giảm đi. Biểu hiện trì trệ này
được giải thích bởi quy luật lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô, cho dù
có sự tác động của khoa học công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp

vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và chất lượng, nên sản phẩm biên của lao
động không bằng 0 nhưng có chiều hướng giảm dần. Mức sản phẩm biên
của lao động trong nông nghiệp luôn dương, điều này cũng có nghĩa là
mức tiền công lao động trong nông nghiệp được trả theo mức sản phẩm
cận biên của lao động chứ không phải trả theo mức sản phẩm trung bình
của lao động như mô hình Lewis. Đường cung lao động trong nông nghiệp
cũng luôn có xu thế dốc lên.

W
L
0
Đường cung lao động trong nông nghiệp.

Trên thực tế vì mức sản phẩm biên của lao động mặc dù không bằng 0
nhưng có xu thế giảm dần nên đường cung lao động trong nông nghiệp
mặc dù không có đoạn nằm ngang nhưng có độ dốc giảm dần theo quy mô
gia tăng lao động sử dụng.

Khu vự công nghiệp.

Đ
iều kiện để thu hút lao động: để chuyển lao động từ nông nghiệp sang,
khu vực công nghiệp phải trả một mức tiền công lao động cao hơn mức
tiền công của khu vực nông nghiệp. Hơn thế nữa, mức tiền công phải trả

của khu vực công nghiệp sẽ tăng dần lên theo hướng sử dụng ngày càng

Tpa=f(La)
S

ĐỀ ÁN MÔN HỌC


7
nhiều lao động. Mức tiền công khu vực công nghiệp có xu hướng tăng lên
do: Thứ nhất, sản phẩm biên của lao động khu vực nông nghiệp luôn lớn
hơn 0, khi chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ làm tăng
liên tục sản phẩm cận biên của lao động cồn lại trong nông nghiệp, cho nên
khu vực công nghiệp phải trả mức tiền công ngày càng tăng. Thứ hai, khi
lao động chuyển khỏ nông nghiệp làm cho đầu ra của nông nghiệp giảm
xuống và kết quả là giá cả nông sản ngày càng cao, tạo ra áp lực phải tăng
lương cho người lao động.

Quan điểm đầu tư.

Trong điều kiện trên, để cho quá trình trao đổi giữa hai khu vực không
tạo ra những bất lợi ngày càng nhiều cho công nghiệp thì các nhà tân cổ
điển cho rằng cần phải đầu tư cả cho nông nghiệp ngay từ đầu chứ không
phải chỉ quan tâm đến đầu tư cho công nghiệp. Việc đầu tư cho nông
nghiệp phải được thể hiện theo hướng nâng cao năng suất lao động ở khu
vực này để mặc dù rút bớt lao động trong nông nghiệp chuyển sang công
nghiệp cũng không ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm, giá
nông sản không tăng, giảm sức ép tăng giá tiền công lao động công nghiệp.
Mặt khác để giảm bớt áp lực, khu vực công nghiệp một mặt, cần đầu tư
theo chiều sâu để giảm cầu lao đông; mặt khác, khu vực này cần tập trung

đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu để đổi lấy lương thực, thực
phẩm nhập khẩu từ nước ngoài về. Điều đó làm cho mặc dù lượng lương
thực, thực phẩm sản xuất trong nước có thể giảm đi, nhưng giá nông sản
không tăng do được thay thế bằng nông sản nhập khẩu. Tuy khu vực nông
nghiệp không có thất nghiệp nhưng vẫn có biểu hiện trì trệ tương đối so
với công nghiệp tức là với một số lượng lao động bổ sung cho nông nghiệp
bằng nhau nhưng mức tổng sản phẩm gia tăng có xu hướng ngày càng
giảm.

v
Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima.

Harry T.Oshima là nhà kinh tế người Nhật, ông nghiên cứu mối quan
hệ giữa hai khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước Châu
Á so với các nước Âu

Mỹ, đó là nền nông nghiệp lúa nước có tính thời
vụ cao, vào thời gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao
động và lại dư thừa nhiều trong mùa nhàn rỗi.

Ông đồng ý với Lewis rằng khu vực nông nghiệp có dư thừa lao động,
nhưng theo ông thì điều đó không phải lúc nào cũng xẩy ra, đặc biệt là lúc
thời vụ căng thẳng thì khu vực nông nghiệp còn thiếu lao động. Vì vậy,
quan điểm của Lewis cho rằng sự dư thừa lao động nông nghiệp có thể
chuyển sang khu vực công nghiệp mà không làm giảm sản lượng nông
nghiệp là điều không thích hợp với đặc điểm châu Á, nhất là những vùng
lúa
nước, ở đây sản lượng nông nghiệp được tạo ra phụ thuộc nhiều vào
đỉnh cao của thời vụ
-

ở những thời điẻm không có dư thừa lao động
Oshima cũng cho rằng về mặt lý thuyết thì trường phái tân cổ điển hòa
toàn đúng khi họ đặt vấn đề ngay từ đầu phải đồng th ời quan tâm đầu tư
cho cả hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoặc là ông cũng đồng ý
với quan điểm của Ricardo cho rằng một mo hình phát triển phải được bắt
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


8
đầu từ hiệu suất nông nghiệp hoặc từ khả năng xuất khẩu sản phẩm công
nghiệp để nhập khẩu lương thực. Nhưng Oshima cho rằng quan điểm của
trường phái tân cổ điển và hướng thứ 2 trong quan điểm của Ricardo là
khó thực hiện được nếu không nói là thiếu thực tế trong điều kiện của các
nước đang phát triển. Oshima đã phân tích mối quan hệ của hai khu vực

trong sự quá độ về cơ cấu từ nền kinh tế do nông nghiệp chiếm ưu thế sang
nền kinh tế công nghiệp.

Oshima đã phân tích quá trình tăng trưởng theo các giai đoạn:

Giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng là tạo việc làm cho thời gian
nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp.

Ông cho rằng ở các nước châu Á gió mùa là mang tính thời vụ cao, lao
động thất nghiệp mang tính thời vụ lại càng trầm trọng hơn khi sản xuất
nông nghiệp mang nặng tính chất độc canh, nhỏ lẻ phân tán. Vì vậy mục
tiêu của giai đoạn đầu trong quá trình tăng trưởng là giải quyết hiện tượng
thất nghiệp thời vụ ở khu vực nông nghiệp. Biện pháp hợp lý nhất là để
thực hiện mục tiêu này là đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, xen canh,
tăng vụ trồng thêm rau, quả, cây lấy củ, mở rộ

ng chăn nuôi gia súc, gia
cầm, nuôi và đánh bắt cá, trồng cây lâm nghiệp. Hướng phát triển này tỏ ra
phù hợp đối với khả năng vốn, trình độ kỹ thuật của nông nghiệp, nông
thôn trong giai đoạn này. Do đó có nhiều việc làm hơn, thu nhập của nông
dân bắt đầu tăng lên, họ có thể chi tiêu nhiều hơn cho giống mới, phân hóa
học, thuốc trừ sâu và công cụ lao động. Đồng thời để nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả các hoạt động khác, khu vực nông nghiệp cần có sự
hỗ trợ của Nhà nước về các mặt: Xây dựng hệ thống kênh mương, đập tưới
tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng hóa, hệ thống giáo
dục và điện khí hóa nông thôn. Theo đó thực hiện cải tiến các hình thức tổ
chức sản xuất và dịch vụ ở nông thôn. Trong giai đoạn đầu này, nhu cầu
lương thực cho số dân tăng lên là hết sức cần thiết. Việc tăng sản lượng
nông sản sẽ giảm sản lượng nhập khẩu hoặc mở rộng xuất khẩu lương
thực, thực phẩm. Cả hai trường hợp đều nhằm có thêm ngoại tệ để nhập
khẩu máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Dấu hiệu kết thức giai đoạn này là khi chủng loại nông sản sản xuất ra
ngày càng nhiều với quy mô lớn, nhu cầu cung cấp các yếu tố đầu vào cho
sản xuất nông nghiệp tăng cao và xuất hiện yêu cầu chế biến nông sản với
quy mô lớn nhằm tăng cường tính chất hàng hóa trong snả xuất nông sản
đặt ra vấn đề phát triển ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ với quy
mô lớn.

Giai đoạn hai: Hướng tới việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển
đồng thời cả nông nghiệp và công nghiệp.

Giai đoạn này là đầu tư phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ theo chiều rộng, cụ thể: tiếp tục thực hiện đa dạng hóa sản xuất
cây trồng và vật nuôi trong nông nghiệp, thực hiện sản xuất nông nghiệp
theo quy mô lớn, xen canh, tăng vụ, nhằm tạo ra khối lượng nông sản hàng
hóa ngày càng lớn; Phát triển các ngành công nghiệp chế biến lương thực,

thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ nhằm tăng cường số
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


9
lượng việc làm và nâng cao tính hàng hóa; phát triển các ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất nông cụ thường, nông cụ cầm tay,
nông cụ cải tiến cho nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công
nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, giống và các yếu tố đầu vào khác
cho nông nghiệp. Để đảm bảo hiệu quả các loại hình phát triển trên đòi hỏi
phải có sự hoạt động đồng bộ từ sản xuất vận chuyển, bán hàng đến các
dịch vụ hỗ trợ tài chính tín dụng và các ngành có liên quan khác. Cần thiết
phải hình thành các hình thức tổ chức sản xuất mang tính liên kết sản xuất
giữa công nghiệp, nông nghiệp và cả dịch vụ dưới dạng các trang trại, các
tổ hợp sản xuất công

nông nghiệp, nông

công nghiệp

thương mại …
Phát triển nông nghiệp tạo điều kiện mở rộng thị trường công nghiệp, tạo
yêu cầu tăng quy mô sản xuất công nghiệp cũng như nhu cầu các hoạt
động dịch vụ. Khi đó việc di dân từ các khu vực nông thôn đến thành thị
để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ ngày càng tăng. Dấu
hiệu kết thúc giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng việc làm có biểu hiện lớn
hơn tốc độ tăng trưởng lao động, làm cho thị trượng lao động bắt đầu bị
thu hẹp, tiền lương thực tế tăng lên.

Giai đoạn sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành

kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm bớt cầu lao động.

Trong nông nghiệp do quy mô nhu cầu việc làm tăng mạnh dẫn tới tiền
công
ở khu vực này cũng được nhích dần lên với tốc độ ngày càng tăng.
Do ưu thế của các ngành này cần vố đầu tư ít vốn, công nghệ dễ học hỏi,
thị trường dễ tìm và dễ thâm nhập, có khả năng cạnh tranh ở thị trường
ngoài nước làm cho xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Khu vực dịch vụ
cũng ngày càng mở rộng. Sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ nhằm phục
vụ sản xuất nông nghiệp, các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Tất cả đã làm cho hiện tượng thiếu
lao động trở nên ngày càng phổ biến trong tất cả các ngành và các khu vực
của nền kinh tế. Trong giai đoạn này là phải đầu tư phát triển theo chiều
sâu trên toàn bộ các ngành kinh tế. Một mặt, trong nông nghiệp cần hướng
tới sử dụng máy móc thiết bị thay thế lao động và áp dụng p
hương pháp
công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng. Các máy cày, gặt đập, phun
nước, máy bơm, làm cỏ, máy sấy, và các phương tiện vận tải cơ giới ngày
càng mở rộng và tiết kiệm thời gian cho người lao động trên đồng ruộng.
Trong điều kiện đó khu vực nông nghiệp có khả năng rút bớt lao động để
chuyển sang các ngành công nghiệp ở thành phố mà vẫn không làm giảm
sản lượng nông nghiệp ở nông thôn. Mặt khác, khu vực công nghiệp tiếp
tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và hướng về xuất
khẩu với sự chuyển dịch dần về cơ cấu sản xuất sản phẩm.

3.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp trong quá trình phát
triển kinh tế.

v

Xu hướng chuyển dịch chung.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
– lâm –
thủy sản theo xu hướng giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp
nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng đất đai trung du, miền núi, diện tích mặt
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


10
nước, ao hồ, sông, suối, biển. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với nông
– lâm –
thủy sản để hỗ trợ nhau cùng phát triển và bảo vệ môi trường sinh th
ái.
Trong nông nghiệp xu hướng phát triển làm giảm dần độc canh lúa,
tăng dần tỷ trọng cây công nghiệp, rau, quả, cây đặc sản, chăn nuôi để sản
xuất ra nhiều nông sản hàng hóa và xuất khẩu có giá trị cao.

v
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt và chă
n nuôi.
Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chủ yếu của nông nghiệp. Trồng
trọt cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công
nghiệp, thức ăn cho chăn nuôi, sản phẩm cho xuất khẩu. Chăn nuôi cung
cấp những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như trứng, thịt, sữa… Đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, cung cấp nguyên, vật liệu quan trọng
cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và một số ngành công nghiệp
khác (hóa chất, dược liệu…). Nó cũng cung cấp nguồn hàng xuất khẩu
quan trọng ở nhiều nước đang phát triển, cũng như ở Việt Nam hiện nay

chăn nuôi còn cung cấp sức kéo cho trồng trọt. Trong nền kinh tế nông
nghiệp truyền thống, trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nông
nghiệp, bởi vì sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho đời
sống nhân dân. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được
nâng cao, nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ trọng
ngành chăn nuôi có xu hướng tăng lên. Ở Việt Nam, ngành trồng trọt vẫn
giữ vai trò chủ đạo, tỷ trọng ngành chăn nuôi có tăng, nhưng còn chậm.

v
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành trồng trọt.

Trong nội bộ ngành trồng trọt, cơ cấu chủ yếu là giữa cây lương thực
với cây công nghiệp rau, quả. Lương thực là bộ phận cấu thành chủ yếu
trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của con người. Lương thực đã và sẽ còn giữ
vai trò chủ yếu, lâu dài trong nguồn thực phẩm mà không thể thay thế
được. Tuy nhiên, xu hướng chung, cơ cấu bữa ăn sẽ dần thay đổi theo
hướng giảm bớt lương thực. Cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu
cho
công nghiệp nhẹ (công nghiệp dệt, thực phẩm, dược liệu, hóa chất, …).
Những ngành công nghiệp này lại là những ngành thu hút nhiều lao động,
do đó phát triển những ngành này sẽ tạo thêm việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, để phát triển cây công nghiệp cần chú ý: Yêu cầu về quy trình
kỹ thuật, vốn đầu tư ban đầu và thâm canh nhiều hơn so với cây lương
thực. Rau, hoa quả, rất cần thiết cho đời sống con người, nó cung cấp
đường, a xit, muối khoáng, sinh tố, chất kích thích khẩu vị và các chất bổ
khác
cho nhu cầu cơ thể. Có thể sử dụng ở dạng tươi hoặc làm nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến thực phẩm để sản xuất đồ hộp, rượu, nước ngọt,
bánh mứt, kẹo với nhiều chủng loại phong phú. Cây ăn quả có tác dụng
làm rừng phòng hộ và phát triển nuôi ong… nhu cầu về rau, hoa quả, cây

cảnh ngày càng có xu hướng tăng lên cả trong nhu cầu bữa ăn cũng như
đời sống xã hội. Sản xuất những sản phẩm này chú ý áp dụng công nghệ
tiên tiến và bố trí gần nơi thuận lợi cho vận chuyển cũng như nơi tiêu thụ.




ĐỀ ÁN MÔN HỌC


11
v
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành chăn nuôi.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm là một hoạt động sản xuất quan trọng trong
nông nghiệp, ở Việt Nam, trâu, bò, lợn, gà, vịt thường được nuôi phổ biến.
Ngoài ra các vật nuôi khác như ngựa, dê, ngan, ngỗng… tuy còn nhỏ bé

nhưng cũng góp phần đa dạng hóa sản phẩm. Đặc điểm của việc phát triển
chăn nuôi phản ánh điều kiện và thế mạnh của từng vùng. Ở Việt Nam,
vùng đồng hằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, đàn lợn chiếm
tỷ trọng cao nhất trong đàn gia súc (trên 85%). Tây Nguyên và Duyên Hải
Trung bộ có tỷ trọng đàn bò cao (30%), vùng Trung du, miền núi có tỷ
trọng đàn trâu cao nhất so với các vùng trên (26%). Đối với chăn nuôi gia
cầm ở tất cả các vùng, nuôi gà vẫn là chủ yếu, riêng vùng đồng bằng sông
Cửu Long đàn vịt chiếm tỷ trọng lớn (trên 43%). Cơ cấu các loại gia súc ,
gia cầm có sự chuyển dịch theo hướng tăng các loại vật nuôi có giá trị phục
vụ tiêu dùng với chất lượng cao và xuất khẩu. Cụ thể thời gian qua ở Việt
Nam là giảm tỷ trọng đàn lợn, tăng tỷ trọng đàn bò và gia cầm, nhưng sự
dịch chuyển này rất chậm.


Số lượng gia súc, gia cầm.


Nguồn: tổng cục thống kê

niên giám thống kê hàng năm.


II
Thực trạng ngành nông nghiệp ở Việt Nam.

1.
Tình hình thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp từ năm
1996 – 2004.
Trong những năm đổi mới, cơ cấu kinh tế ngành nông, lâm, ngư nghiệp
tiếp tục có những chuyển dịch tích cực, những lợi thế so sánh của từng
ngành, từng vùng đã từng bước được khai thác và phát huy, góp phần thúc
Năm
Trâu


Lợn

Ngựa

Dê, cừu

Gia cầm


Triệu con

1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003

bộ2004

2854.1
2858.6
2886.5
2960.8
2977.3
2962.8
2953.9
2943.6
2951.4
2955.7
2897.2

2807.9
2814.5
2834.9
2869.8
3116.9
3135.6
3201.8
3333.0
3466.8
3638.9
3800.0
3904.8
3987.3
4063.6
4127.9
3899.7
4062.9
4394.4
4907.7
12260.5
12194.3
13891.7
14873.9
15587.7
16306.4
16921.7
17635.9
18132.4
18885.8
20193.8

21800.1
23169.5
24884.6
26143.7
141.3
133.7
133.1
132.9
131.1
126.8
125.8
119.8
122.8
149.6
126.5
113.4
110.9
112.5
110.8
372.3
312.5
312.3
353.0
427.9
550.5
512.8
515.0
514.3
470.8
543.9

571.9
621.9
780.4
1022.8
107.4
109.0
124.5
133.4
137.8
142.1
151.4
160.6
166.4
179.3
196.1
218.1
233.3
254.6
218.2
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


12
đẩy sản xuất phát triển với tốc độ khá cao, cải thiện chất lượng tăng
trưởng.


cấu GDP của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy hải sản qua các năm
(%).













Nguồn: tổng cục thống kê

niên giám thống kê hàng năm.

Tỷ trọng nông nghiệp mặc dù đã giảm từ năm 2000 đến nay, nhưng vẫn
còn ở mức khá cao. Tỷ trọng lâm nghiệp liên tục giảm sút, mặc dù lâm
nghiệp có nhiều tiềm năng về rừng và đất rừng. Tỷ trọng thủy sản từ năm
2000 đến nay đã tăng khá hơn nhưng vẫn còn thấp.


Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi tăng từ
16,5% vào năm 2000 lên 17,5% trong năm 2002; trồng trọt giảm từ 81%
xuống còn 80%. Riêng trong ngành trồng trọt, tỷ trọng giá trị sản xuất cây
lương thực giảm nhẹ từ 60,7% trong năm 2000 xuống còn 60% vào năm
2002; cây công nghiệp giảm từ 24% xuống còn 23% (do giá cả sụt giảm
mạnh, đặc biệt là giá cà phê và cao su, khiến nông dân không chă
m sóc,
thậm chí còn chặt bỏ một số diện tích để trồng cây khác); tỷ trọng giá sản
xuất các cây trồng khác tăng mạnh (từ 15,3% lên 17%).



Cơ cấu diện tích có thay đổi: một số diện tích gieo trồng lúa năng suất
thấp, bấp bênh đã được

chuyển sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản.
Riêng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong hai năm 2001

2002, đã
chuyển 165 nghìn ha gieo trồng lúa sang nuôi trồng thủy hải sản.


Cơ cấu sản phẩm chuyển dần theo hướng thích ứng hơn với thị trường,
người sản xuất không chỉ quan tâm tới số lượng sản phẩm mà đã bắt đầu
quan tâm tới chất lượng và giá trị đầu ra của sản phẩm. Do vậy, một số cây
con có thị trường tiêu thụ trong nước, giá tăng nhanh như ngô, sắn, bông
vải, đậu tương, cây ăn quả, đàn bò sữa.

Trê
n mỗi vùng, cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa
với nhiều loại cây con và nhiều loại sản phẩm khác nhau, đảm bảo an toàn
hơn trước biến động của thị trường tiêu thụ. Chẳng hạn, ở Tây Nguyên,
ngoài sản phẩm cao su, cà phê, các loại sản phẩm mới như bông, ngô phát
triển mạnh. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ có lúa mà rất nhiều địa
Năm
Nông nghiệp

Lâm nghiệp

Thủy sản


1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
80.8
81.5
81.8
81.9
80.8
78.5
78.2
76.9
76.5
6.2
6.0
5.7
5.6
5.5
5.4
5.3
5.2
5.1
12.9
12.5

12.5
12.4
13.8
16.0
16.5
17.9
18.1
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


13
phương đã chuyển một phần diện tích lúa sang trồng ngô, trồng sắn và đặc
biệt là sang nuôi trồng thủy sản.

Ngành lâm nghiệp tiếp tục chuyển từ một nền lâm nghiệp nặng về khai
thác tự nhiên sang nền lâm nghiệp dựa vào lâm sinh và từ chổ chủ yếu dựa
vào quốc doanh sang nền sản xuất có tính xã hội hóa cao với nhiều thành
phần kinh tế tham gia.

Giá trị sản xuất lâm nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành hoạt động.
cơ cấ
u (%)
Năm
Trồng và
nuôi rừng

Khai thác lâm
sản

Dịch vụ và các hoạt động lâm

nghiệp khác

2000
2001
2002
2003
Sơ bộ
2004
14.7
13.2
13.9
14.4
14.5
81.3
82.8
81.5
79.5
79.8
4.0
4.0
4.6
6.1
5.7

Nguồn: tổng cục thống kê

tin thống kê hàng năm.

Ngành thủy sản tiếp tục có bước chuyển mạnh từ khai thác tự nhiên
sang nâng cao tỷ trọng của nuôi trồng, từ đánh bắt ven bờ với tầu công suất

nhỏ với các loại sản phẩm có chất lượng và giá trị thấp sang bước đầu đánh
bắt xa bờ với trang thiết bị lớn hơn, sản phẩm có chất lượng và giá trị cao
hơn.
Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản theo giá thực tế phân theo ngành hoạt
động.(%)













Nguồn tổng cục thống kê hàng năm.

Cho đến nay, chăn nuôi vẫn còn là ngành phụ. Nguyên nhân chính là
do phương thức chăn nuôi còn mang tính tự cung tự cấp, với quy mô nhỏ,
phân tán theo từng hộ gia đình, với kỹ thuật lac hậu tận dụng sản phẩm phụ
của ngành trồng trọt là chính, lấy công làm lãi. Cả nước hiện có trên 10,7
triệu hộ nông nghiệp, đã chăn nuôi trên 2,8 triệu con trâu, gần 4,1 triệu con
bò, trên 23,1 triệu con lơn, và 233,3 triệu con gia cầm với sản lượng thịt
hơi đạt 2 triệu tấn. Tính đến ngày 11/10/2001, cả nước có 1762 trang trại
Năm
Khai thác
Nuôi trồng


1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
67.4
68.6
67.0
67.2
55.6
47.7
42.7
39.8
36.4
32.6
31.4
33.0
32.8
44.4
52.3
57.3
60.2
63.2
ĐỀ ÁN MÔN HỌC



14
chăn nuôi, chỉ chiếm 2,9% tổng trang trại và mới sản xuất được khoảng
1/10 lượng sản phẩm chăn nuôi. Do vậy, chất lượng và chủng loại sản
phẩm chăn nuôi còn thấp, giá cả còn cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của
thị trường cả trong nước và xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu đạt còn rất thấp so
với sản lượng sản xuất, mặc dù về số lượng gia súc, gia cầm ở Việt Nam
đứng thứ hạng cao (số lượng lợn đứng thứ nhất Đông Nam Á, thứ hai châu
Á, và đứng thứ 5 trên thế giới chỉ sau Mỹ, Trung Quốc, Braxin, Đức; số
lượng bò đứng thứ 4 khu vực, thứ 14 Châu Á, thứ 53 trên thế giới; số
lượng trâu đứng thứ 2 khu vực, thứ 6 Châu Á, thứ 18 trên thế giới).

Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi theo giá so sánh 1994 phân theo vật
n
uôi và loại sản phẩm.(Tỷ đồng)


Năm
Gia súc
Gia cầm

Sản phẩm không
qua giết thịt

1990
1991
1992
1993
1994
1995

1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Sơ bộ
2004
6568.2
6481.8
7344.0
7854.0
8499.2
8848.5
9301.2
9922.6
10467.0
11181.9
11919.7
12298.3
19919.1
14419.6
16139.8

1980.1
1988.0
2229.7
2281.2

2304.2
2384.8
2506.5
2690.5
2835.0
3092.2
3295.7
3384.9
3712.8
4071.8
3456.1
1328.2
1422.2
1648.5
1724.9
1735.9
1933.7
2084.2
2389.8
2438.4
2589.1
2802.0
3106.4
3667.6
3900.6
3315.9

Nguồn tổng cục thống kê
hàng năm.
Tỷ trọng giá tị sản xuất của gia súc và sản phẩm không qua giết mổ

năm 2004 đã cao hơn năm 1990, còn tỷ trọng của gia cầm lại giảm. Đây
chính là hạn chế của chăn nuôi gia cầm khi cung thì tăng cao, nhưng cầu
thì tăng chậm, lại chưa xuất khẩu được
.









ĐỀ ÁN MÔN HỌC


15
Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành
hoạt động.(%)


Năm
Trồng trọt

Chăn nuôi
Dịch vụ

1990
1991
1992

1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
79.3
79.6
76.5
75.7
77.0
78.1
77.9
77.9
79.7
79.2
78.2
77.9
76.7
75.4
76.3
17.9
17.9
20.7

21.4
20.2
18.9
19.3
19.4
17.8
18.5
19.3
19.6
21.1
22.4
21.6
2.8
2.5
2.8
2.9
2.8
3.0
2.8
2.7
2.5
2.3
2.5
2.5
2.2
2.2
2.1
Nguồn tổng cục thống kê hàng năm.

Ta thấy trong nông nghiệp ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn bởi vì

sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho đời sống nhân dân
nhưng tỷ trọng của ngành trồng trọt ngày càng giảm dần năm 1990 là
79,3% giảm xuống còn 76,3% vào năm 2004. Khi đời sống nhân dân được
nâng cao, nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ trọng
ngành chăn nuôi có xu hướng tăng lên từ 17,9% vào năm 1990 lên 21,6%
vào năm 2004.
2
Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp ảnh hưởng
tới tăng trưởng kinh tế của nước ta.

Những năm gần đây, thế giới biết đến Việt Nam như là một đất nước
đang tiến hành thành công công cuộc đổi mới, trong đó có sự đóng góp
đáng kể của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp trong 15 năm
qua.
Thập kỷ 90, thập kỷ thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
xã hội đến năm 2000 của Đại hội VII Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 6
năm 1991) và hiện đại hóa, công nghiệp hóa, của Đại Hội VIII Đảng Cộng
Sản Việt nam (tháng 6 năm 1996), nền nông nghiệp có những bước
chuyển mạnh, nhanh và toàn diện, từ nền sản xuất tự cung tự cấp sang nền
sản xuất hàng hóa. Những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành nông nghiệp trong thập kỷ 90 được thể hiện.

Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,3%, riêng năm 1999 đạt 5,5% với
GDP theo giá hiện hành của nông nghiệp đạt 89 nghìn tỷ đồng (22,3%
GDP). Nông nghiệp phát triển đa dạng và nổi bật là sản xuất lương thực
với tốc độ tăng trưởng 5,8%, năm 1999 sản xuất được gần 34,25 triệu tấn
lương thực quy thóc. Cây công nghiệp, ăn quả, rau, chăn nuôi phát triển
ĐỀ ÁN MÔN HỌC



16
nhanh, đáp ứng phần lớn các loại nông sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước.

Xuất khẩu nông sản trong 10 năm qua liên tục tăng, bình quân tăng
13,05%/ năm, năm 1999 đạt khoảng 3 tỷ USD. Tỷ trọng hàng hóa tăng
nhanh, năm 1999 tỷ lệ xuất khẩu lúa gạo là 25%, cao su 80%, cà ph
ê 95%,
chè 60%. Năm 1999, xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (4,4 triệu tấn)
và xuất khẩu cà phê và hạt điều đứng thứ 3.

Trình độ sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ, nhiều loại sản phẩm đã
được xây dựng thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung như vùng lúa gạo
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; vùng cà phê Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ; vùng chè miền núi và trung du phía băc; vùng cao
su Đông Nam Bộ; vùng cây ăn quả Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu
Long… Trình độ thâm canh sản xuất trong hầu hết các ngành trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản được nâng cao lên rõ rệt thông qua việc áp
dụng các phương thức canh tác thâm canh, áp dụng công nghệ cao, chất
lượng nông sản ngày càng được cải thiện đáng kể.

Trong lĩnh vực lâm nghiệp, chuyển biến sâu sắc nhất là từ lâm nghiệp
Nhà Nước, chủ yếu do quốc doanh quản lý thực hiện, lấy khai thác gỗ
rừng tự nhiên làm mục tiêu sang lâm nghiệp xã hội (dân doanh), giao
khoán rừng đưa lại. Khuyến khích đa dạng sinh học rừng (bảo vệ, phục hồi
và phát triển rừng) có nhiều tiến bộ. Với nhiều chương trình như chương
trình “327”, dự án tạo mới 5 triệu ha rừng, sau 10 năm đã trông được 1,5
triệu ha rừng tập trung, tình trạng phá rừng tự nhiên giảm, mầu xanh đã trở
lại với nhiều vùng đất trống đồi trọc.


Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp trong thời gian qua tuy
đạt được nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn những yếu kém và thách thức quan
trọng sau đây:

Một là, hiệu quả kinh tế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp về
năng suất và thu nhập còn thấp.

Hiện nay bình quân sản xuất trên một ha đất nông nghiệp năm 2003
khoảng 20 triệu đồng và thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn mới
đạt 275 nghìn đồng/ tháng, còn thấp xa so với nhiều nước trong khu vực.
Vùng đồng bằng sông Hồng, nơi có trình độ thâm canh cao, mới 9% diện
tích đất nông nghiệp đạt bình quân 50 triệu đồng/ ha và chỉ có 10% số hộ
đạt bình quân 50 triệu đồng. Trong lúc đó, mục tiêu của chúng ta đề ra
năm 2005 cả nước phải đạt 30 triệu đồng bình quân trên một ha đất nông
nghiệp và thu nhập bình quân hộ ở nông thôn hơn 5 triệu đồng/ tháng, còn
đến năm 2010 phải đạt 50 triệu dồng/ ha và gần 8 triệu đồng/ tháng. Đó là
thách thức lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Hai là, tốc độ chuyển dịch tích cực nhưng vẫn còn chậm. Có thể thấy rõ
điều đó trong phân công lao động xã hội. Trong nhiều năm, nông nghiệp
vẫn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động xã hội, 80% số dân ở nông
thôn. Cũng có nghĩa là phần lớn lao động trong xã hội có năng suất lao
động thấp và phần lớn dân cư cả nước có thu nhập và đời sống thấp.
Thu
nhập bình quân đầu người ở nông thôn đến nay thấp hơn sáu lần so với thu
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


17
nhập bình quân đầu người ở đô thị. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho

nước ta vẫn là một nước nông nghiệp kém phát triển.

Tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm còn thể hiện trong cơ cấu
nông
nghiệp, trong quan hệ giữa trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp,
trong nhiều năm, giá trị nông nghiệp chiếm 80%, còn thủy sản và lâm
nghiệp chỉ chiếm 20% (riêng lâm nghiệp chỉ còn có 4%) là điều bất hợp lý
không tương xứng tiềm năng dồi dào của diện tích núi rừng bằng hai phần
ba diện tích đất đai cả nước, với mặt nước sông ngòi, ao hồ dầy đặc và
2500 km bờ biển.

Trong nội bộ ngành nông nghiệp, việc chuyển dịch giữa trồng trọt và
chăn nuôi trong nhiều năm cũng rất chậm. Giá trị trồng trọt chiếm
80% và
giá trị chăn nuôi chiếm 20% trong giá trị nông nghiệp. Trong trồng trọt,
lương thực có những tiến bộ rõ rệt, không đáp ứng nhu cầu lương thực
trong nước mà còn xuất khẩu hàng năm 3,5

4 triệu tấn. Tuy nhiên, cơ
cấu trồng trọt chưa chuyển dịch được nhiều. Cây lương thực vẫn chiếm tỷ
trọng cao trong diện tích gieo trồng, các loại cây có giá trị cao như công
nghiệp, rau đậu, cây ăn quả chiếm tỷ trọng thấp. Nếu xét về mặt giá trị
trong 10 năm từ 1990 đến 1999 thì tỷ trọng giá trị cây lương thực giảm từ

66,63% còn 63,80%, nhưng vẫn còn lớn, còn giá trị cây ăn quả, cây công
nghiệp, rau đậu tỷ trọng mặc dù tăng từ 33,7% lên 37,2% nhưng vẫn còn
nhỏ và tăng chậm không tương xứng với tiềm năng đất đai và khí hậu của
vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Chính sự tăng chậm tỷ trọng cây công
nghiệp và cây ăn quả, rau đậu còn thấp cho nên đã làm cho nông nghiệp
chưa thoát khỏi tình trạng độc canh cây lương thực. Điều này làm giá trị

sản xuất, giá trị sản lượng hàng hóa xuất khẩu bình quân trên một ha đất
nông nghiệp và thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn thấp hơn so với
nhiều nước trong khu vực và thế giới.

Ba là, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp.

Chuyển dịch cơ cấu phải gắn liền với tập trung hóa sản xuất. Nhưng
hi
ện nay sản xuất trong nông nghiệp lại quá phân tán và manh mún. Bình
quân một lao động nông nghiệp chỉ có 0,27 ha và một nhân khẩu cả nước
khoảng 869m
2
; ở đồng băng sông Hồng là 500m
2
. Quy mô đất canh tác
cũng rất nhỏ. Bình quân một hộ ở đồng bằng sông Cửu
Long là 1,4 – 1,5
ha, ở đồng bằng sông Hồng và miền Trung chỉ có 0,21

0,26 ha; số hộ ở
đây có quy mô 0,5 –
1 ha chỉ chiếm 1,5% tổng số hộ nông dân trong vùng.
Diện tích đất nông nghiệp đã nhỏ nhưng lại quá phân tán và manh mún.
Hơn 10,5 triệu hộ nông nghiệp có gần 75 triệu thửa đất. Dân số nông thôn
tăng hang năm là 2% lại càng làm cho ruộng đất phân tán và manh mún
hơn. Đây là một thách thức rất lớn để bảo đảm ruộng đất cho nông dân, để
tiến hành cơ giới hóa, điện khí hóa để đi vào sản xuất tập trung qu
y mô
lớn. Cơ sở hạ tầng như giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở bảo quản và chế

biến nông sản còn thiếu làm trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp. Tỷ trọng chế biến nông sản phẩm còn thấp, như chế biến chè
mới đạt 40
– 45%, cao su 26%, rau
quả thực phẩm 10%, cây có dầu 15

ĐỀ ÁN MÔN HỌC


18
20%, thịt lợn chiếm 15%; tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch còn lớn đối với lúa
13 –
15%, rau quả 25

30%, lương thực 13%, đường thủ công 30
– 40%.
Thủy lợi tuy phát triển mạnh nhưng chủ yếu mới tưới tiêu nước cho lúa,
còn 37% diện tích lúa chưa được tưới tiêu, tiêu nước chủ động, có 37%
diện tích lúa chưa làm đất bằng máy. Hơn 10% số xã chưa có điện, 20% số
hộ chua có điện, 6% số xã chưa có đường ôtô đến trung tâm xã, 28% số xã
chưa có bưu điện, 44% số xã chưa có chợ, 65% số xã chưa có nhà trẻ, 16%
số xã chưa có trường trung học, bình quân mười nghìn dân mới có 0,76
bác sĩ ở trạm y tế. Rõ ràng, với cơ sở hạ tầng trên, làm sao có thể nâng cao
hiệu quả và tốc độ chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.

Bốn là, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, chậm được biến đổi, đặc biệt là
ở các vùng nghèo và bị cô lập phát triển. Tình trạng này có nguyên nhân từ
sự dư thừa lao động và thiếu thốn các nguồn tài chính, từ tình trạng hoạt
động khuyến nông không được quan tâm đầy đủ, đúng hướng và rộng
khắp


Vì cơ sở hạ tầng bao gồm cả cơ sở hạ tầng thông tin, nói chung còn yếu
kém, nền kinh tế ngành nông nghiệp khó có thể tạo ra được sự đột biến về
hiệu quả sản xuất

kinh doanh. Môi trường cạnh tranh không lành mạnh
vì thề mà cũng khó phát triển bình thường. Sự yếu kém của hệ thống hạ
tầng cơ sở là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng manh mún, bị chia cắt
giữa các vùng các địa phương.

Ngoài những yếu kém và thách thức nói trên, cần chú ý những hạn chế
về quan hệ sản xuất, như sự chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ sang hợp tác xã
kiểu mới chậm và hiệu quả thấp, sự chuyển đổi hệ thống nông
– lâm
trường quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp từ
kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường còn yếu kém, trình độ cán bộ quản
lý kỹ thuật còn thấp cũng những chính sách kinh tế
-
xã hội chưa đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh tốc độ nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp.

III
Áp dụng mô hình kinh tế của Harry T.Oshima vào phân tích
chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp.

Harry T.Oshima là nhà k
inh tế học người Nhật Bản, ông nghiên cứu
mối quan hệ giữa hai khu vực đó là một nền nông nghiệp lúa nước có tính
thời vụ cao, vào thời gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao

động và lại dư thừa nhiều trong mùa nhàn rỗi. Trong tác phẩm “Tăng
trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa” ông đã đưa ra những quan
điểm mới về mô hình phát triển và mối quan hệ công

nông nghiệp dựa
trên những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế
Châu Á.
Nước ta là một nước nằm trong khu vực Châu Á có khí hậu và điều
kiện phù hợp với điều kiện của mô hình kinh tế của Oshima. Đặc điểm đó
được biểu hiện rõ rệt trong quá trình sản xuất nông nghiệp: tính thời vụ
cao, lao động thất nghiệp mang tính thời vụ lại càng trầm trọng. Sản xuất
nông nghiệp mang nặng tính độc canh, nhỏ lẻ, phân tán.

ĐỀ ÁN MÔN HỌC


19
Nước ta đa số dân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu
chính vì vậy ngành nông nghiệp được coi là một ngành đầu tầu từ đó kéo
theo sự tăng trưởng và phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ nói
ri
êng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành đó trước tiên phải có vốn tích lũy ban đầu phụ thuộc vào ngành thế
mạnh của nước ta, điều đó cần phải thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu
nội bộ ngành nông nghiệp. Khí hậu nước ta rất đa dạng và phong phú, là
một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với bốn mùa rõ rệt rất phù hợp cho
quá trình sản xuất nông nghiệp.

Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế ngành nông, lâm, ngư nghiệp tiếp
tục có những chuyển biến tích cực, những lợi thế so sánh của từng ngành,

từng vùng đã từng bước được khai thác và phát huy, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển với tốc độ cao, cải thiện chất lượng tăng trưởng. Nông
nghiệp Việt nam chiếm 30% giá trị xuất khẩu, và 25% trong tổng GDP
quốc gia, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn tạo ra công ăn việc làm cho
hơn 66% lao động trong cả nước. Thu nhập của người dân ngày càng tăng.
Sản lượng lương thực trong 10 năm qua tăng bình quân 1,2 triệu tấn/ năm.
Việc tăng sản lượng đó là nhờ vào quá trình mùa vụ, trước kia c
húng ta
thường trồng một vụ lúa nhưng bây giờ đã biết tận dụng điều kiện của từng
mùa, từng vùng mà trồng hai hoặc ba vụ lúa làm năng suất ngày càng tăng.
Người nông dân không chỉ biết có trồng lúa đơn thuần đem lại thu nhập
cho họ mà người nông dân còn biết chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Trong 9
tháng đầu năm 2005 theo điều tra của tổng cục thống kê thì diện tích lúa
đạt 7339,5 nghìn ha, bằng 98,6% năm 2004, giảm 105,8 nghìn ha, sản
lượng giảm do giảm diện tích năng suất thấp sang trồng cây khác có hiệu
quả hơn và nuôi thuỷ sản. Diện tích lúa đông xuân giảm 36,5 nghìn ha, lúa
hè thu giảm 18,7 nghìn ha và lúa mùa giảm 50,6 nghìn ha. Năng suất lúa
cả năm ước tính đạt 49,5 tạ/ ha, tăng 1 tạ/ ha so với năm trước; sản lượng
đạt 36,3 triệu tấn, tăng 19,2 vạn tấn. Nếu tính cả 3,7 triệu tấn lương thức
có hạt khác thì sản lượng lương thực có hạt năm nay đạt 40,03 triệu tấn,
tăng 44,9 vạn tấn so với năm 2004. Sản lượng lúa đông xuân đạt 17,33
triệu tấn, tăng 252,7 nghìn tấn so với lúa đông xuân 2004, tiếp tục là vụ lúa

mùa, năng suất đạt 58,9 tạ/ ha, tăng 1,6 tạ/ha. Lúa hè thu năng suất chung
của cả nước ước tính đạt 44,1 tạ/ ha, xấp xỉ hè thu năm 2004. Lúa mùa sản
lượng lúa mùa dự kiến tăng thấp, chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết. Các
tỉnh phía Nam, ước tính diện tích đạt 834,5 ngàn ha, giảm 3,8% do hạn
han. Sản lượng ước tính đạt 3,04 triệu tấn, chỉ tăng 59,6 nghìn tấn so với
năm 2004, chủ yếu là tăng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long do giá lúa
tăng cao nên người dân đã cải tạo đồng ruộng làm một vụ thủy sản, một vụ

lúa
mùa. Cơ cấu diện tích thay đổi, một số diện tích gieo trồng lúa năng
suất thấp, bấp bênh đã được chuyển sang trồng cây công nghiệp, cây ăn
quả và nuôi trồng thủy sản nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Cơ cấu
sản phẩm chuyển dần theo hướng thích ứng với thị trường hơn, người sản
xuất không chỉ quan tâm số lượng sản phẩm mà đã bắt đầu quan tâm đến
chất lượng và giá trị đầu ra của sản phẩm. Do vậy, một số cây con có thị
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


20
trường tiêu thụ trong nước, giá tăng nhanh như ngô, sắn, bông vải, đậu
tương, cây ăn
quả, đàn bò sữa. Cơ cấu cây trồng đã chuyển biến theo
hướng đa dạng hóa, xóa dần tính độc canh cây lương thưc, tăng hiệu quả
sử dụng đất. Ngành chăn nuôi thay đổi theo hướng tăng số lượng và tỷ
trọng gia súc nuôi thịt, sữa, giảm đàn gia súc cày kéo thay vào đó sử dụng
các loại máy móc thiết bị đem lại năng suất cao hơn nhờ các ứng dụng của
khoa học công nghệ, đồng thời đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
khâu sau thu hoạch để giảm tổn thất hao hụt lúa gạo, rau quả. Nhập khẩu
và tổ chức nghiên cứu sản xuất các công nghệ, thiết bị chế biến, bảo quản
nông sản. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, chuyển biến sâu sắc nhất là từ lâm
nghiệp Nhà Nước, chủ yếu do quốc doanh quản lý thực hiện, lấy khai thác
gỗ rừng tự nhiên làm mục tiêu sang lâm nghiệp xã hội (dân doanh),
giao
khoán rừng đưa lại. Khuyến khích đa dạng sinh học rừng (bảo vệ, phục hồi
và phát triển rừng) có nhiều tiến bộ. Với nhiều chương trình như chương
trình “327”, dự án tạo mới 5 triệu ha rừng, sau 10 năm đã trông được 1,5
triệu ha rừng tập trung, tình trạng phá rừng tự nhiên giảm, mầu xanh đã trở
lại với nhiều vùng đất trống đồi trọc.


Ngành thủy sản tiếp tục có bước chuyển mạnh từ khai thác tự nhiên
sang nâng cao tỷ trọng của nuôi trồng, từ đánh bắt ven bờ với tầu công suất
nhỏ với các loại sản phẩm có chất lượng và giá trị thấp sang bước đầu đánh
bắt xa bờ với trang thiết bị lớn hơn, sản phẩm có chất lượng và giá trị cao
hơn.
Cơ cấu kinh tế có chuyển biến tích cực, phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao hiệu quả, tỷ trọng các sản phẩm cây công nghiệp và cây ăn quả tăng
lên rõ rệt. Trong cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng các ngành phi nông
nghiệp (công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ) tăng lên đến 30% GDP nông
thôn (1999). Cơ sở hạ tầng ở nhiều vùng, nhiều địa phương được cải thiện.
Sau 10 năm đã tăng thêm năng lực tưới tiêu cho 1,4 triệu ha; năm 1999, có
93% số xã có đường ô tô tới khu trung tâm, 70% có điện sinh hoạt, 79% có
điện thoại, 68% có nguồn nước sạch, 99,8% có trường học cấp I, 87% có
trường cấp II, 98 % có trạm y tế Quan hệ sản xuất trong nông nghiệ
p-
nông thôn đã có nhiều chuyển biến mới: gần 40% số hợp tác xã đã đăng ký
lại hoặc xây dựng mới theo Luật Hợp Tác Xã, hướng hoạt động chủ yếu
làm dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ. Các doanh nghiệp Nhà nước trong nông
nghiệp và các nông, lâm trường đã từng bước đư ợc sắp xếp lại, đổi mới cơ
chế quản lý, làm ăn có hiệu quả hơn. Có tới 2 triệu nông hộ có điều kiện
trở thành hộ nông dân sản xuất giỏi, hơn 110.000 hộ phát triển kinh tế
nông trại.

Hầu hết các hộ nông dân đều được hưởng thụ thành quả đổi mới trong
nông ng
hiệp. Đời sống đa số nông dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình
quân đầu người tăng 1,5 lần, tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 30% xuống còn 10
-
11%, các điều kiện ăn ở, đi lại, giáo dục, văn hoá và chăm sóc y tế được

cải thiện rõ rệt, tuổi thọ tăng từ 65 (năm 19
90) lên 68 (1998).
Để nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả các việc làm khác khu vực
nông nghiệp cần có sự hỗ trợ của nhà nước trong quá trình chuyển dịch
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


21
thuận lợi hơn: xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển tài nguyên nước trên
các lưu vực sông lớn bao gồm đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu
Long, làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
-
xã hội của 2 đồng bằng này.

Trên các vùng lãnh thổ cũng đã xúc tiến quy hoạch hoặc định hướng
quy hoạch làm cơ sở cho đầu tư. Trọng tâ m của việc xây dựng thuỷ lợi
trong giai đoạn này là phát triển hệ thống tưới tiêu, đảm bảo sản xuất
lương thực và củng cố hệ thống đê điều phòng chống lũ ngăn mặn để mở
rộng sản xuất. Tính đến năm 1995 ngành thuỷ lợi Việt Nam đã có hệ thống
các công trình thuỷ lợi với năng lực thiết kế tưới cho 3 triệu ha, tiêu 1,4
triệu ha, ngăn mặn 700ngàn ha. Hình thành 75 hệ thống thuỷ nông lớn và
vừa, 750 hồ chứa nước lớn và vừa, trên 10.000 hồ chứa nhỏ, 2000 trạm
bơm điện lớn và vừa có công suất 450MW, 30 vạn máy bơm dầu. Đã tưới
5,6 triệu ha gieo trồng lúa (tăng so với năm 1985 là 1 triệu ha), tiêu úng
86,5 ngàn ha, tưới cho hoa màu và cây công nghiệp 560 ngàn ha, tiêu úng
xổ phèn cho 1,6 triệu ha, cải tạo 70 vạn ha đất mặn ven biển, tạo nguồn
nước cung cấp cho hàng chục triệu dân ở nông thôn, thành thị, cung cấp
nước ăn cho đồng bào vùng cao, cho các khu công nghiệp, các khu định
canh định cư, vùng chuyên canh cây ăn quả và cây công nghiệp. Riêng
diện tích trồng lúa được tưới chiếm 80% tổng diện tích lúa trong cả nước

.
Đây là một tỷ lệ cao về đất nông nghiệp được tưới so với các nước trên thế
giới.

Hệ thống đê điều đã hình thành 7700km, trong đó đê sông 5700km, đê
biển 2000km và gần 3000km đê bao ngăn lũ ở đồng bằng sông Cửu Long.
Hệ thống đê điều, đặc biệt hệ thống đê sông Hồng và sông Thái Bình, có
vị trí sống còn trong việc bảo vệ dân sinh và sản xuất. Ngày nay sau khi có
hồ Hoà Bình với dung tích phòng lũ 4,9 tỷ m3 thì hệ thống đê sông Hồng
có thể chống lũ với mức nước (13,3m) tại Hà Nội (riêng đê Hà Nội có thể
chống được mực nước 13,6m và trên sông Thái Bình đê chịu được mức
nước lũ 7,21m tại Phả Lại).

Hệ thống đê biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (từ Quảng Ninh đến Quảng
Nam Đà Nẵng) đã nâng cấp, chống đỡ bão cấp 9 ứng với triều trung bình.
Tính đến năm 2000 sẽ hình thành 800km đê biển của các dự án trên, chống
được thuỷ triều (3,5). Hệ thống đê bao, bờ ngăn lũ ở đồng bằng sông Cửu
Long chủ yếu bảo vệ lúa hè thu, chống lũ đầu mùa tháng 8, được kiểm
nghiệm qua nhiều năm đã bảo đảm cho vùng ngập Đồng Tháp Mười, Tứ
Giác Long
Xuyên, Tây Sông Hậu từ một vụ lúa nổi trở thành sản xuất 2 vụ
đông - xuân, hè -
thu. Từ sau cơn bão số 5 (1997) Chính phủ bắt đầu cho
nghiên cứu quy hoạch đê biển ở miền Nam từ Gò Công (Tiền Giang) đến
Kiên Giang.
Trong 10 năm đổi mới chúng ta đã nâng tầm công tác thuỷ lợi nhằm
đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá trước hết đối với nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Từ quy hoạch tổng thể, tiến đến quy hoạch
vùng và tiểu vùng.


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


22
Tiến hành đa dạng hóa nông nghiệp, làm tăng việc làm ngoài nông
n
ghiệp bằng các hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ
gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ và các hoạt động dịch vụ phát nhằm triển ngành
công nghiệp chế biến. Điều này đòi hỏi sự hoạt động đồng bộ từ khâu sản
xuất, vận chuyển, bán hàng đến cácdịch vụ hỗ trợ như tài chính, ngân hàng
và các ngành có liên quan như công nghiệp phân bón, hóa chất, các ngành
cung cấp nguyên liệu và công cụ sản xuất cho nông nghiệp. Chính vì vậy
ngành nông nghiệp đã tạo điều kiện cho mở rộng thị trường của ngành
công nghiệp, tạo ra yêu cầu tăng quy mô sản xuất của ngành công nghiệp
cũng nhơ nhu cầu về các hoạt động dịch vụ. Khi đó việc di dân từ các khu
vực nông thôn đến thành thị để phát triển các ngành công nghiệp trên và
các dịch vụ hỗ trợ ngày càng tăng.

Qua phân tích trên
ta thấy mô hình kinh tế của Oshima rất phù hợp với
trường hợp phát triển kinh tế của nước ta.

IV
Một số đề xuất và giải pháp để nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ
cấu ngành nông nghiệp trong thời gian tới.

1.
Khoa học công nghệ.

Ứng dụng tri thức mới và các thành tựu mới về công nghệ sinh học và

các tiến bộ khoa học công nghệ khác để tạo các giống cây con mới có giá
trị cao; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến để làm tăng gấp bội giá
trị của nông sản; thúc đẩy nhanh cơ giới hóa, kể cả tự động hóa, trong
khâu sản xuất nông nghiệp. Chuyển mạnh nền sản xuất nông nghiệp hiện
có sang sản xuất hàng hóa, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, tích lũy cho
nông dân, tạo thế và lực mới nhằm chủ động hội nhập với thị trường khu
vực và quốc tế.

Xây dựng những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tại đây, sử
dụng công nghệ gen để sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị
kinh tế cao (đây là một loại hình sản xuất công nghệ trong nông nghiệp);
sử dụng kỹ thuật tự động hóa, công nghệ thông tin để điều khiển các q

trình sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi (chẳng hạn, khâu tự động hóa trong
các nhà máy chăn nuôi sẽ theo dõi thường xuyên sự tăng trọng và các
thông số khác của vật nuôi, liên quan với chế độ dinh dưỡng, phòng, chữa
bệnh; tự động hóa pha chế hàng ngàn công thức cho thành phần thức ăn
phù hợp với chế độ dinh dưỡng; hoặc tại các trang trại trồng trọt, có thể tự
động hóa việc điều khiển cung cấp dinh dưỡng, bảo vệ thực vật, đảm bảo
năng suất, chất lượng rất cao….)

Ở các khu vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, giá trị tạo ra chủ
yếu là từ tri thức và công nghệ, đó là các ngành kinh tế tri thức. Các khu
công nghệ cao sẽ là nhân tố thúc đẩy, lôi kéo toàn bộ nền nông nghiệp phát
triển, các khu ấy được nhân lên sẽ chuyển dịch mạnh cơ cấu ngành công
nghiệp theo hướng kinh tế tri thức.

Tăng cường cải tiến, áp dụng kỹ thuật tiến bộ đối với các công nghệ
truyền thống để tạo nhiều việc làm, tận dụng lao động, đất đai, tài nguyên.




ĐỀ ÁN MÔN HỌC


23
2.
Bổ sung và sửa đổi các chính sách.

Chính sách đất đai: cần thực hiện thêm những biện pháp để tạo điều
kiện dễ dàng cho quá trình chuyển đổi quyền sử dụng đất từ cá nhân này
sang cá nhân khác. Đối với đất rừng nên cụ thể hóa luật, đào tạo cho nhân
viên ngành lâm nghiệp và địa chính. Xây dựng các chính sách nhằm tích tụ
ruộng đất phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp như:
Khuyến khích nông dân “dồn điền, dồn thửa” cho phép nông dân sử dụng
giá trị quyền sử dụng đất góp cổ phần, làm thế chấp vay vốn ngân hàng,
góp vốn để tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết…

tiến hành tổng kết bổ xung, sửa đổi luật đất đai.

Chính sách giá: Cần cải cách hơn nữa để tự động hóa thương mại và
tạo cơ hội cho những doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động
ngoại thương, buôn bán những sản phẩm như chè, đường và phân bón.

Chín
h sách đầu tư: Hiện nay, đầu tư của chính phủ là nguồn đầu tư
quan trọng nhất trong tổng đầu tư dành cho ngành nông nghiệp. Xây dựng
các chính sách huy động và cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích
đáng cho quá trình đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp.


Chính sách về thuế: Điều chỉnh, bổ sung luật thuế (thuế sử dụng đất
nông nghiệp, thuế doanh nghiệp…) trình Quốc hội phê chuẩn.

Chính sách về lao động và việc làm: Xây dựng chính sách đào tạo
nguồn nhân lực và khuyến khích cán bộ nông thôn, miền núi.

Chính sách về thương mại, hội nhập: có các chính sách hỗ trợ và bảo
hộ hợp lý một số ngành hàng thuộc một số lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
còn khó khăn, yếu kém nhưng có triển vọng. Khuyến khích thành lập các
quỹ bảo hiểm ngành hàng.

Phát triển khoa học công nghệ: Để rút ngắn thời gian nghiên cứu,
nhanh chóng đổi mới công nghệ, cần ưu tiên nhập công nghệ chọn lọc.
Những công nghệ được phép nhập là những công nghệ đã được lựa chọn,
trải qua thẩm định, đảm bảo không thấp hơn trình độ đòi hỏi của th ị
trường, phù hợp với những điều kiện thực tiễn của nước ta và có khả năng
tiếp nhận trong nước. Có chính sách đãi ngộ và khen thưởng thỏa đáng đối
với các nhà khoa học có công trong việc phát minh hoặc ứng dụng các
thành tựu mới có tác dụng lớn đối với ng
ành.
Chính sách thị trường: Xây dựng chiến lược và hệ thống thông tin thị
trường cho các sản phẩm, bảo đảm cho người dân có đủ thông tin để sản
xuất và tiêu thụ nông sản. Tại bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã
và đang xây dựng một trung tâm thông tin, trong đó có cả về thông tin thị
trường. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mỗi thành phần kinh tế
tham gia tìm kiếm thị trường và xuất khẩu nông sản. Thực hiện các biện
pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hỗ trợ tích cực các
doanh n
ghiệp xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Thành lập quỹ hỗ trợ
xuất khẩu cho các sản phẩm quan trọng.


Chính sách tín dụng: Xây dựng cơ chế hoạt động cho phép các ngân
hàng thương mại hoạt động trên địa bàn nông thôn với lãi suất thỏa thuận.
Tăng vốn, nhất là vốn vay trung và dài hạn cho khu vực nông thôn để hộ
ĐỀ ÁN MÔN HỌC


24
nông dân có thể dễ dàng vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Dần
dần xóa bỏ phân biệt tín dụng giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và
ngoài quốc doanh.

Chính sách tài chính thúc đẩy công tác di dân theo kế hoạch trong thời
gian tới. Sắp xếp quy hoạch sử dụng đất của từng tỉnh, từng vùng để có kế
hoạch phân bổ lại lao động và dân cư; thông qua kết quả tổng kế kê khai
đất chưa sử dụng năm 2000, nhằm khai thác tiềm năng đất đai của từng
vùng để có kế hoạch đầu tư khai thác có hiệu quả. Công tác di dân phát
triển vùng kinh tế trước hết tổ chức sắp xếp di dân tại chỗ, nội tỉnh. Khi
không tự sắp xếp được mới đưa vào kế hoạch di dân ngoại tỉnh. Tăng
cường công tác chỉ đạo điều hành và sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành
và UBND địa phương, thực hiện lồng ghép các chương trình mục tiêu gắn
với chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nhằm phát huy
hiệu quả cao nhất góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng dần mức sống của
người dân. Tích cực, chủ động tìm các giải pháp về phát triển kinh tế xã
hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm ngay tại địa phương mình, đảm
bảo hộ nào cũng có đất để sản xuất để ổn định sản xuất và đời sống; tạo
điều kiện cải thiện và nâng cao mức sống để góp phần chấm dứt tình trạng
di cư tự do.

3.

Chủ động hội nhập kinh tế.

Đại hội IX Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ rõ “phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả bền vững”. Mục tiêu của hội nhậ
p
kinh tế quốc tế được xác định rõ là, nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, kiến thức để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp nói chung, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước theo định hư ớng XHCN.

Trong lĩnh vực nông nghiệp và toàn bộ ngành kinh tế của mỗi quốc gia
nói chung, quá trình hội nhập về thực chất là việc chấp nhận “luật chơi”
chung, đó là hạ thấp hàng rào thuế quan và giảm thiểu hàng rào phi thuế
quan theo cam kết chung; mở cửa thị trường; bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ
và dành cho nhau quy chế tối huệ quốc tế. Trên thị trường bình diện chung
của bức tranh kinh tế thế giới, cùng thực hiện “luật chơi” này bao gồm các
quốc gia là thành viên WTO (tổ chức thương mại thế giới), hiện có
144
nước, nắm tới hơn 98% lượng hàng hóa và dịch vụ trao đổi hiện nay trên
thế giới.

Việt Nam đến nay có bản là một nước nông nghiệp mặc dù nông
nghiệp chỉ chiếm khoảng 24

25% GDP, nhưng lại chiếm 76,4% lực
lượng lao động toàn xã hội. Hiện nay, lộ trình cam kết trong khuôn khổ
mậu dịch tự do AFTA, nước ta cam kết đến năm 2003, thuế suất tất cả các
mặt hàng không quá 20%, đồng thời các hạn chế định lượng phải bị bỏ.
Tới năm 2006 thuế suất không được quá 5%. Tuy nhiên, 51 loại nông sản

thuộc danh mục nông sản chưa chiến nhậy cảm (SEL) như gà giống, gạo,
cam, quýt… thời hạn cắt giảm thuế chậm hơn, trong đó mía đường (2006),
quả có múi, thịt và các bộ phận nội tạng của gia cầm (2005). Tới năm

×