Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tìm hiểu hoạt động thu mua của nhà phân phối trong chuỗi cung ứng cá biển tại huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.74 KB, 16 trang )

NHÓM 6 – CHƯƠNG 14
DANH SÁCH NHÓM
1. Trương Thị Kim Chi (NT) – 01224564242 -
2. Nguyễn Xuân Đạt
3. Võ Hữu Nhật Đức
4. Nguyễn Văn Huy
5. Soudaphone Niphaphone
6. Thân Thị Thanh Phương
7. Hồ Văn Tài
8. Nguyễn Thị Tuyết Trang
9. Tô Thị Thu Trang
10.Lê Quốc Trung
1
BÁO CÁO NHÓM – MÔN QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG
TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG THU MUA CỦA NHÀ PHÂN PHỐI
TRONG CHUỖI CUNG ỨNG CÁ BIỂN TẠI HUẾ
I. Tổng quan:
1. Ngành thủy sản Việt Nam:
Tại Việt Nam, ngành thủy sản là ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân và được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Vai trò của nghề cá được thể hiện như
sau:
• Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng
đánh bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu
cầu của người dân Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng
sâu vùng xa, góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt
Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền
núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.
Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu thụ thực
phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
• Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm


Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp
các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân,
Ngành Thuỷ sản đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứngđược yêu
cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành Thuỷ sản đóng
vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân, không những thế nó còn
là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt
ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001
đến năm 2004,công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động trình diễn các mô hình
2
khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh
tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc làm cho ngư dân ven
biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải
quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh
Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo
công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông
• Xóa đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển
các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn
dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảmnghèo. Tại các
vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức
nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều
nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi
tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận
dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói
nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã phát
triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung du miền núi,
các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa.
• Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển.

Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở rộng đất
đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc
tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng, khiến
nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác
nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước
3
mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi
trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt động canh tác lúa
nước.
• Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động. Hầu như
họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy nhiên, ngày
càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản
nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho
năng suất cao như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính.
• Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng
danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản
còn là một trong 10 ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm 2005, kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD.
• Đảm báo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng sâu,
vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo.
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền trên
biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện
chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Năm 1997, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 393/TTg phê duyệt Chương
trình cho vay vốn tín dụng đầu tư đóng tàu khai thác hải sản xa bờ. Thực hiện quyết định

này, từ năm 1997 đến năm 1999, Tổng cục Đầu tư và Phát triển đã cho vay 867.871 triệu
đồng, tương đương với 802 con tàu. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
64/2000/QĐ-TTg về việc sửa đổi quy chế quản lý và sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt tàu dịch vụ và đánh
bắt hải sản xa bờ, tổng số vốn đã duyệt cho vay từ năm 2000 đến năm 2005 là 182.372
4
triệu đồng để đóng mới 166 con tàu. Việc gia tăng số lượng tàu lớn đánh bắt xa bờ không
chỉ nhằm khai thác các tiềm năng mới, cung cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp
phần bảo vệ an ninh quốc phòng trên các vùng biển của nước ta.
Tính đến nay, rất nhiều cảng cá quan trọng đã được xây dựng theo chương trình Biển
đông hải đảo, cụ thể là: Cô Tô (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ và Cát Bà (Hải Phòng), Hòn
Mê (Thanh Hoá), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Lí Sơn (Quảng Nam), Phú Quí (Bình Thuận),
Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Khoai (Cà Mau), Nam Du, Thổ Chu và Phú Quốc
(Kiên Giang). Hệ thống cảng cá tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện đồng bộ để phục vụ
sản xuất nghề cá và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển của tổ quốc.
2. Nhà phân phối:
a. Thông tin khái quát:
Họ và tên nhà phân phối: Ông Trần Xuân Hùng (tức Hòa)
Địa chỉ: 32 Nguyễn Gia Thiều – TP Huế
Quê quán: Thừa Thiên Huế
b. Vị trí của nhà phân phối trong chuỗi cung ứng:
5
c. Hoạt động kinh doanh:
Nhà phân phối phân loại hoạt động thu mua cá theo 2 tiêu chí chủ yếu: theo khu vực
và theo mùa.
• Theo khu vực :
- Trong nước : Quanh năm thu mua cá ở các ngư trường Rạch Giá, Kiên Giang,
Long Hải, Phan Thiết, Sầm Sơn, Cần Thơ, Cà Mau. Tại mỗi ngư trường đều có nhân viên
của nhà phân phối trực tiếp lựa chọn thu mua các loại cá như: cá sòng, nục gai, nục
chuối, ngừ đại dương, ngừ quả, ngừ chuối (cá ngừ hoa), cá thu, cá khoai, cá nhám, cá

đuối, cá kình biển… Sản lượng thu mua phụ thuộc rất nhiều vào lượng đánh bắt mỗi loại
cá.
Đối với các tỉnh miền Trung, vào tháng 3,4,5,6 thời tiết thuận lợi nên việc đánh bắt
dễ dàng hơn do đó sản lượng cũng như chủng loại cá là phong phú và đa dạng hơn, đặc
biệt như: cá nục, cá thu, cá ngừ.
- Ngoài nước: Ngoài thu mua từ các ngư trường trong nước, nhà phân phối còn thu
mua cá từ một số nước khác như: Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc với một
số loại cá chủ yếu như: cá cam, cá nục ngô, cá thu đao,… Các loại cá này được cấp đông
(làm đóng băng) từ các nhà cung cấp, rồi được đóng vào trong các Containers vận chuyển
theo đường biển vào cảng Hải Phòng ở nước ta. Tại đây, xe hàng của nhà phân phối sẽ
nhận cá rồi vận chuyển về kho tại Huế. Đây là những loại cá ở nước ta hiếm có nhưng
nhu cầu trên thị trường về các loại cá này là khá ổn định.
• Theo mùa:
- Mùa nắng (khoảng từ tháng 1 đến tháng 5): đây là mùa thuận lợi để đánh bắt
nên sản lượng cá là phong phú và đa dạng, vào mùa này cơ sở mua một số loại cá như:
Cá sòng, cá nục gai, cá nục chuối, cá thu, cá ngừ đại dương, cá ngừ quả, cá ngừ chuối, cá
đuối… từ các ngư trường trong nước.
- Mùa mưa (khoảng từ tháng 6 đến tháng 12): thời tiết không thuận lợi nên việc
đánh bắt có nhiều khó khăn, một số loại cá được mua: Cá thu, cá ngừ, cá dũa. Đây là thời
điểm chính để mua một số loại cá từ nước ngoài: cá cam, cá nục ngô, cá thu đao…
6
Hình 1. Cá cam mới về đến kho
II. Tìm hiểu về quá trình thu mua cá của nhà phân phối:
1. Vai trò của quá trình thu mua:
Là các quá trình liên quan tới việc thu mua nguyên liệu, hàng hoá theo kế hoạch để
cung cấp cho nhu cầu sản xuất hoặc bán hàng.
Bộ phận thu mua rất quan trọng, là mắc xích liên kết giữa công ty và thị trường cung
cấp. Một bộ phận thu mua được đánh giá mạnh khi nó có thể tìm được nguồn nguyên liệu
hàng hoá rẻ, đạt chất lượng; đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu cho quá trình tiếp
theo và xây dựng được mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp.

Đại lý thu mua đóng vai trò trung gian giữa công ty chế biến và người đánh bắt cá.
Họ có chức năng thu mua, bảo quản và vận chuyển cá nguyên liệu tới nhà máy chế biến
và thanh toán tiền trực tiếp cho ngư dân. Trong một số trường hợp, đại lý có thể ứng tiền
cho ngư dân nếu họ có nhu cầu. Lợi ích họ nhận được là phần chênh lệch giữa số tiền bỏ
ra và thu lại khi bán cá
2. Các tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhà cung ứng cá:
Các dịch vụ đánh giá nhà cung cấp giúp cho khách hàng xác lập các tiêu chí và tiêu
chuẩn để đánh giá nhà cung cấp; đánh giá năng lực và trình độ của nhà cung cấp một
cách hiệu quả, xác định các điểm khiếm khuyết, đưa ra một phương pháp được chuẩn hóa
cho việc tuyển chọn nhà cung cấp và cải tiến hoạt động của họ. Các dịch vụ này bao gồm
việc đánh giá một cách độc lập dựa trên các dữ liệu thực tế về năng lực, độ tin cậy của
nhà cung cấp nhằm duy trì và cập nhật một cơ sở dữ liệu về các nhà cung cấp.
7
- Uy tín : Trong kinh doanh chữ “Tín” là quan trọng nhất đối với bất kỳ doang
nghiệp nào. Vì vậy, sự trung thực, uy tín trong kinh doanh là tiêu chí rất quan
trọng đối với Doanh nghiệp (chủ nậu cá).
- Giá cả : Loại hình kinh doanh nào cũng vậy, giá cả là yếu tố mà mọi người quan
tâm nhất, kể cả người mua lẫn người bán. Với tiêu chí về giá thì giá thấp là 1 điều
hiển nhiên.
- Thời gian giao nhận : Không giống như mặt hàng khô, cá tươi là rất chú trọng đến
thời gian giao và nhận. Doanh thu nhận được phụ thuộc vào thời gian rất nhiều.
Đặc điểm của nghề này là giao dịch đúng thời gian, đúng buổi chợ, nếu không sẽ
phải hủy toàn bộ lượng cá đó do không thể tiếp tục tiêu thụ.
- Chất lượng cá : Nhà phân phối cử người sẵn ở các địa phương nơi có cơ sở giao
dịch để kiểm tra chất lượng cá từ khâu nhập hàng. Với các đặc điểm, yêu cầu rất
khắt khe. Cá phải tươi sống. Kiểm tra đặc điểm bên ngoài của cá: cá nguyên con
tươi sống thường có lớp da sáng bóng, sạch, mắt cá trong, lớp mang cá ẩm và có
màu đỏ tươi. Đối với những phần thịt cá phi lê hoặc đã được cắt khúc, chọn phần
thịt ẩm, màu tươi sáng và có độ trong mờ. Sử dụng các giác quan. Thông thường,
các loại cá tươi thường có mùi giống như mùi nước sạch, không quá tanh hoặc

khó ngửi, ngoại trừ một số loại cá có những mùi đặc trưng. Khi ấn ngón tay vào
thịt cá, cảm nhận được độ săn chắc của thịt, không bị mềm hay lõm xuống.
- Đặc điểm từng ngư trường. Ví dụ, mùa hè, các ngư trường ở miền Trung, hay
chính tại biển Thuận An thuận lợi hơn cho quá trình thu mua vì khoảng cách địa
lí và thời tiết thuận lợi cho việc đánh bắt cá. Dân cư ở địa phương thích ăn cá mới
đánh bắt ở tại địa phương mình hơn là ăn cá ướp lạnh ở nơi khác. Mùa đông, vì ở
Thuận An vào mùa này (tháng 10, 11, 12) không có cá, mà nhu cầu cá luôn cần
được đáp ứng cho người tiêu dùng nên phải ưu tiên thu mua cá ở các ngư trường
ở Phan Thiết, Long Hải, Sầm Sơn, Cửa Lò.
Trên lí thuyết, các tiêu chí sẽ được lượng hóa bằng cách đánh giá trọng số và cho
điểm cho từng yếu tố. Từ đó nhà phân phối sẽ quyết định giao dịch với cơ sở nào.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhà phân phối sẽ dựa trên đánh giá chủ quan của mình,
xem xét yếu tố nào thực sự quan trọng với tình hình thị trường hiện tại cũng như
8
khả năng của nhà phân phối để rồi đắn đo, cân nhắc và đưa ra quyết định cuối
cùng.
3. Thương lượng:
Về giá, lấy tiêu chí “thuận mua vừa bán”, doanh nghiệp thu mua với mức giá hợp lý
nhất để vừa giữ được uy tín, vừa đảm bảo được lợi nhuận tối ưu.
Giá một số loại cá như sau:
- Cá Thu có giá dao động từ 70.000 – 140.000/kg
- Cá Nục có giá dao động từ 15.000-30.000/kg
- Cá Ngừ đại dương có giá dao động từ 125.000 – 175.000/kg
- Cá Song có giá dao động từ 25.000 – 45.000/kg
- Cá Dũa có giá dao động từ 30.000-60.000/kg
Về khối lượng, nhìn chung, lượng cá được thu mua trong một ngày từ 5-10 tấn. Khối
lượng sẽ linh động tùy vào nhu cầu của khách hàng cũng như điều kiện khai thác (thời
tiết, mùa cá …)
Thời gian giao hàng: Đặt hàng trước 1 ngày và trưa hôm sau hàng sẽ về đến kho.
Phương thức thanh toán:

- Đối với khách hàng quen thuộc: thời gian thanh toán có thể từ 3-4 ngày sau khi
nhận được hàng.
- Đối với khách hàng khác: Thanh toán ngay sau khi nhận được hàng.
Phương thức vận chuyển: Doanh nghiệp sử dụng loại xe đông lạnh 5 tấn để vận
chuyển cá về kho. Sau khi nhập cá về kho, thì sẽ có các xe nhỏ hơn (xe tải 1,5-2 tấn, xe
máy chuyên dụng ,…) đến chở hàng đi các chợ đầu mối.
Là một doanh nghiệp vững mạnh với trên 15 năm trong nghề, có một mối quan hệ
rộng trên thị trường, do đó nguồn cung ứng cá của doanh nghiệp rất đa dạng, luôn cung
cấp đủ số lượng và chất lượng mà doanh nghiệp yêu cầu. Vì uy tín và mối quan hệ làm ăn
lâu dài nên việc ép giá là không xảy ra.
9
Hình 2. Bốc dỡ cá từ xe tải
4. Hợp đồng :
Những cam kết, giao kèo trong việc giao nhận cá được thực hiện dựa trên uy tín là
chính, hợp đồng ở đây chủ yếu ở dạng hợp đồng miệng (không qua giấy tờ), chỉ giao dịch
trực tiếp, không có hợp đồng bằng văn bản chính thức giữa nhà phân phối và những ngư
dân hay giữa nhà phân phối và các đầu mối, một phần vì tính chất phụ thuộc vào thời tiết
của nghề đánh bắt cá biển.
5. Hợp tác thiết kế :
Nhà phân phối chú trọng công tác ghi chép lại thông tin về nhu cầu thi trường thông
qua tình hình cá tiêu thụ tại chợ đầu mối. Từ đó sẽ tổng hợp lại và đưa ra quyết định về
chủng loại, chất lượng, khối lượng cá cần thiết để tiến hành đặt hàng.
Các đơn hàng được tổng hợp lại, kết hợp với thông tin tình hình đánh bắt cá để thống
nhất về đơn hàng cuối cùng.
Một bộ phận trong nhà phân phối sẽ trực tiếp giám sát, lựa cá, đàm phán giá cả phù
hợp với nhu cầu thị trường và các công ty hợp đồng chế biến.
6. Mua sắm:
Trong quy trình mua sắm cho sản phẩm cá thì nguyên liệu trực tiếp cũng chính là cá.
Đối với nhà nhà phân phối này có sự khác biệt trong khâu nhập nguyên liệu trực tiếp
trong nước và ngoài nước. Trong nước, cá được nhập hàng ngày tương ứng với việc ra

10
khơi hàng ngày của người dân để đảm bảo rằng cá luôn có sẵn, luôn tươi ngon. Tuy nhiên
với cá được nhập từ nước ngoài về thì phải tới 5 đến 7 ngày thì mới được nhập về một
lần, bởi lẽ khoảng cách từ những nơi đó quá xa, thường là từ các ngư trường lớn của các
nước và phải nhập cảng Hải Phòng sau đó mới được vận chuyển về phân phối tại các
vùng. Với dân số như hiện nay cùng với phương thức đánh bắt thô sơ, chủ yếu là gần bờ
của người dân, đặc biệt là những lúc thời tiết khắc nghiệt người dân không thể ra biển thì
nguồn cá trong nước trở nên thiếu và đắt đỏ, nguồn cá được nhập từ nước ngoài này đã
bổ sung cho nguồn cá tiêu thụ trong nước, làm “nguội” giá cả cho mặt hàng hải sản trong
nước và làm phong phú thêm cho sự lưa chọn mỗi ngày của các bà nội trợ. Nhưng vì chịu
ảnh hưởng từ nguồn cá được bắt trực tiếp mỗi ngày, vốn là sự lưa chọn hàng đầu được
xem là tươi hơn, nên việc nhập nguồn cá từ nước ngoài này có sự phụ thuộc vào tình hình
tiêu thụ trong nước, đồng thời với đặc thù là không bảo quản được lâu nên trong quá trình
vận chuyển từ Hải Phòng về, sản phẩm thường được phân phối trực tiếp cho các vùng.
Như vậy đối với mặt hàng này, nhà phân phối ngoài việc nắm bắt tình hình đánh bắt tại
địa phương cũng phải thường xuyên quan tâm chú ý tới tình hình tiêu thụ trong nước.
Đặc biệt trong những ngày lễ, tết hoặc những ngày ăn chay cũng cần có kế hoạch giảm
lượng hàng nhập về để đảm bảo giảm chi phí và hao tổn.
Ngoài nguyên liệu trực tiếp, nhà phân phối cũng quan tâm tới nguyên liệu gián tiếp
vốn là những nguyên liệu không thể thiếu,được sử dụng thường xuyên, hỗ trợ cho việc
đưa sản phẩm tươi hơn, ngon hơn đến người tiêu dùng. Nhà phân phối đã đầu tư vào việc
mua xe tải, chỉ có một số là đầu tư mới, còn lại đa số xe tải được mua lại nhằm tiết kiệm
chi phí. Trong cơ cấu xe vận chuyển có khoảng 80% đến 90% là xe của chính nhà phân
phối, còn lại là các xe lưu động được thuê ngoài. Việc lựa chọn bổ sung xe tải tùy thuộc
vào chi phí tính theo khảng cách km, trọng tải xe, hoặc thời gian giao nhận cho kịp buổi
chợ. Như vậy tính linh hoạt được vận dụng tối đa giúp nhà phân phốitiết kiệm chi phí,
đưa sản phẩm đến người dân đúng lúc, đúng nơi, đúng chất lượng.
Ngoài ra, nhà phân phối còn đầu tư hệ thống máy lạnh và camera cho kho bảo quản,
việc vận dụng hệ thống khoa học công nghệ vào quá trình bảo quản sản phẩm là thật sự
cần thiết và rất hữu ích, đặc biệt là hàng cấp đông và hàng được nhập từ nước ngoài.

11
Như vậy sẽ hạn chế được quá trình hư hỏng của sản phẩm, tiết kiệm được rất nhiều chi
phí. Và khi đưa cá ra khỏi kho, nhà phân phối bảo quản cá trong nước đá có nguồn gốc từ
cơ sở sản xuất nước đá đảm bảo an toàn vệ sinh, nhờ đó mà đổi chất lượng của cá ít bị
biến đổi trước khi đến tay người tiêu dùng, trung bình mỗi ngày chi phí ướp đá cho toàn
bộ lượng cá khoảng 5 triệu đồng, với lượng cá trung bình ước tính khoảng 5 tấn/ngày.
12
Hình 4. Hệ thống các thiết bị hỗ trợ kho bảo quản
Hình 5. Thiết bị hỗ trợ kho bảo quản
Hình 3. Kho bảo quản hiện đại
7. Rủi ro:
Qua việc tìm hiểu thị trường cá của doanh nghiệp như nắm được các yếu tố về giá cả,
chất lượng, khối lượng cá, phương thức vận chuyển…. nhóm còn tìm hiểu và biết thêm
được những rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình thu mua cá.
Thứ nhất, thời tiết – đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình đánh bắt
cũng như thu mua cá. Trong trường hợp thời tiết thuận lợi, “trời yên bể lặn”, công việc
đánh cá sẽ diễn ra rất thuận lợi. Ngược lại, trong mùa biển động, đặc biệt là các mùa mưa
bão, lũ lụt, công việc đánh bắt cá sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phải chấp nhận rủi ro, trở
ngại vì ra khơi thuyền thường gặp sóng to, gió lớn, tàu thuyền đi lại gặp nhiều nguy
hiểm… Do đó, những chuyến đi thường đem lại số lượng cá không đáng kể. Ảnh hưởng
đến giá thành bán ra cũng như sự phong phú của các loại cá đối với những người thu,
mua.
Thứ hai, thời gian giao nhận hàng. Quá trình giao nhận hàng phải diễn ra đúng như
kế hoạch đã thỏa thuận. Tuy nhiên do điều kiện đặc thù của ngành, phụ thuộc rất lớn vào
yếu tố thời tiết nên trong một số trường hợp, thời gian giao nhận hàng bị chậm trễ hay
những ngư dân không thể giao hàng cho doanh nghiệp. Các yếu tố này làm ảnh hưởng
đến chất lượng cá: làm cá không được tươi như mong muốn. Đồng thời, việc số lượng và
chất lượng cá không nằm hoàn toàn trong tầm kiểm soát còn có thể gây mất uy tín của
doanh nghiệp đối với khách hàng đã đặt hàng từ trước.
Thứ ba, chất lượng nguồn hàng. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến uy tín

của doanh nghiệp trong việc phân phối cho khách hàng. Tuy nhiên, trong quá trình thu
mua, doanh nghiệp vẫn gặp phải những nguồn hàng kém chất lượng như: cá bị ươn, cá
ướp đá để qua ngày hay những loại cá còn nhỏ không đủ chất dinh dưỡng…
Bên cạnh những rủi ro kể trên thì phương tiện vận tải cũng có ảnh hưởng không nhỏ
đến sản phẩm cá. Đó là những chiếc xe đông lạnh kém chất lượng, gặp nhiều vấn đề
trong quá trình vận chuyển như gặp tai nạn, chồng chất cá quá nhiều trên phương tiện quá
nhỏ… làm như thế chất lượng cá sẽ giảm đồng thời sẽ không đáp ứng được thời gian giao
nhận hàng.
Cá là sản phẩm mang nhiều giá trị dinh dưỡng cao nhưng không vì thế mà nó phải
luôn được sử dụng mỗi ngày ở mọi gia đình. Những sản phẩm hàng hóa thay thế cá như:
13
thịt, rau, củ, quả….cũng được coi là sản phẩm giàu dinh dưỡng và cũng được người dân
sử dụng thường xuyên trong mâm cơm để thay đổi khẩu vị. Rủi ro còn xảy ra đối với
ngành cá khi có các thông tin về độ an toàn của cá, chẳng hạn như việc rộ lên thông tin cá
biển bị nhiễm chất phóng xạ trong vụ rò rỉ nhà máy điện hạt nhân của Nhật Bản, sự kiện
này cũng làm cho lượng cá tiêu thụ giảm mạnh.
III. Đánh giá – Đề xuất :
1. Ưu điểm :
- Nhà phân phối đã quản lí quy trình thu mua khá tốt, đảm bảo chất lượng nguồn
hàng, mặt khác vẫn tiết kiệm chi phí.
- Địa bàn kinh doanh rộng khắp, cả trong nước lẫn ngoài nước, vừa giúp nhà phân
phối tìm được nguồn cung ứng cá chất lượng, sản lượng cá dồi dào đáp ứng nhu
cầu thị trường, vừa mang lại nguồn doanh thu lớn cho nhà phân phối
- Tiêu chí kinh doanh lấy chất lượng làm đầu đã mang lại uy tín cho doanh nghiệp
đối với bạn hàng
2. Nhược điểm :
- Việc đánh giá, lựa chọn đối tác cung ứng cá còn mang nhiều tính chủ quan
- Việc kinh doanh của nhà phân phối từ thương lượng đến giao kèo đều dựa trên
kinh nghiệm và uy tín là chính. Đây cũng chính là yếu điểm của nhà phân phối,
bởi thực tế nhà phân phối cũng đã mắc phải những tranh chấp hay sự không đúng

hẹn của đối tác gây nên những tổn thất cho nhà phân phối
- Công tác quản lí rủi ro trong doanh nghiệp, mặc dù đã được nhận thức, nhưng
chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. Quản lí rủi ro đặc biết quan trọng khi
doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh và nhu cầu thị trường biến động như
hiện nay.
3. Đề xuất:
- Thu thập, tập hợp thông tin về các nguồn cung trên thị trường (giá cả, chất lượng,
uy tín…) từ đó so sánh để đưa ra những đánh giá toàn diện hơn.
- Nhà phân phối nên có một số ràng buộc hay cam kết về một số điều khoản có thể
dự trù được ( giá cả, giao nhận) để hai bên có thể hoạt động thống nhất hơn
- Cần có những phương án dự trù cho những rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ : luôn dự
phòng một số nguồn cá hay phương tiện vận tải….
14

×