Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận phân tích những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.25 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN …

TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHĨ KHĂN TRONG
THỰC HIỆN 17 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA
VIỆT NAM

Họ tên học viên:…………………….
Mã số học viên:
Lớp:…………….,
Khóa học:

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1.
1.1.
1.2.

1
4
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG
Quan niệm về phát triển bền vững

Các mục tiêu phát triển bền vững


PHÂN TÍCH NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHĨ
Chương 2. KHĂN TRONG THỰC HIỆN 17 MỤC TIÊU PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Những thuận lợi trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển
2.1.
bền vững của Việt Nam
Những khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển
2.2.
bền vững của Việt Nam
Định hướng giải pháp phát huy những thuận lợi, khắc
2.3.
phục khó khăn để phát triển bền vững tại Việt Nam hiện
nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

4
4
6
12
12
17
19
21
22


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Trong thời đại chúng ta, khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã
phát triển mạnh mẽ, chất lượng sống của xã hội lồi người có những bước tiến
rõ rệt do khoa học - công nghệ và năng suất lao động xã hội mang lại. Những
của cải được nhân loại tạo ra ngày càng nhiều và phong phú về chủng loại đã
phần nào thoả mãn về vật chất và tinh thần của con người, đã đưa tới sự phát
triển nhanh của nền văn minh nhân loại. Song cũng chính từ sự phát triển ấy đã
làm nảy sinh một số vấn đề ngày càng nổi cộm như tăng trưởng dân số quá
nhanh, tiêu dùng một cách quá mức của cải, tài nguyên, năng lượng làm mất cân
bằng sinh thái của Trái đất. Thiên tai, bão, lũ, lụt, ô nhiễm và sự cố môi trường
ngày càng gia tăng đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã
hội, đe dọa cuộc sống hiện tại và tương lai của con người. Đứng trước áp lực của
thực tế khắc nghiệt này, con người khơng cịn cách lựa chọn nào khác là phải
xem xét lại những hành vi ứng xử với thiên nhiên, phương sách phát triển kinh
tế - xã hội và tiến trình phát triển của mình.
Tại Việt Nam, phát triển bền vững là một chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước và là vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội. Đặc biệt, phát triển
bền vững gắn với phát triển kinh tế, môi trường trong thời gian qua đã có nhiều
cơ chế, chính sách được ban hành và triển khai, bước đầu mang lại những
chuyển biến tích cực. Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng như kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
được duy trì ở mức cao, chất lượng tăng trưởng được nâng lên. Tuy nhiên, Việt
Nam cần tiếp tục đầu tư mạnh vào cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Chú
trọng nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nghèo, vùng sâu, vùng xa,
cả về thể lực và trí lực nhằm đạt mục tiêu thiên niên kỷ như đã cam kết về phát
triển con người. Phát triển vì con người, ưu tiên phục vụ con người, phát huy
cao nhất yếu tố con người trong mỗi chiến lược phát triển. Vì vậy, nghiên cứu
vấn đề “Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu



2
phát triển bền vững của Việt Nam” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững của Việt Nam; chỉ ra
những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững
của Việt Nam. Trên cơ sở đó định hướng một số giải pháp thực hiện các mục
tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu phát
triển bền vững của Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của
Việt Nam thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu phát
triển bền vững của Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

-

Ở Việt Nam
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; Chính sách của Nhà nước về phát triển bền vững.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học

xã hội và nhân văn nói chung, trong đó, chú trọng kết hợp lơgíc và lịch sử, phân
tích, tổng hợp; thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn và điều tra xã hội học để
phân tích luận giải các nội dung của tiểu luận.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận


3
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học
cho Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội hướng đến mục tiêu bền vững.
* Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận luận có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong học tập ở các học viện, trường đại học khi học các chủ đề liên quan
đến phát triển bền vững; có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu.
6. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về phát triển bền vững
Chương 2. Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện 17 mục
tiêu phát triển bền vững của Việt Nam


4
NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG
1.1. Quan niệm về phát triển bền vững
Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, khi cuộc cách mạng
khoa học công nghệ đã bùng nổ, chất lượng cuộc sống của xã hội lồi người đã

có bước tiến bộ rõ rệt do khoa học công nghệ và năng suất lao động mang lại.
Của cải được nhân loại tạo ra ngày càng nhiều và phong phú về chủng loại đã
phần nào thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, đã đưa đến
sự phát triển nhanh của nền văn minh nhân loại. Song cũng chính từ sự phát
triển ấy đã làm nẩy sinh một số vấn đề ngày càng nổi cộm như tăng trưởng dân
số quá nhanh, tiêu dùng một cách quá mức của cải, tài nguyên, năng lượng,
thiên tai bão, lũ, ô nhiễm và sự cố môi trường ngày càng gia tăng đã làm ảnh
hưởng đến sự phát triển của xã hội, gây trở ngại đối với phát triển kinh tế và làm
giảm sút chất lượng sống của con người.
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for
Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển
bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên
sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội
dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu
gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế
giới về Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment
and Development) của Liên hợp quốc định nghĩa “phát triển bền vững” là “phát
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho
việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.


5
Khái niệm phát triển bền vững của WCED chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con
người trong quá trình phát triển. Phát triển bền vững là mơ hình chuyển đổi nhằm
tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm
năng, lợi ích trong tương lai (Goodian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng

đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm
1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát
triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: “Phát
triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (tăng trưởng kinh tế), phát
triển xã hội (thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội; xố đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải
thiện chất lượng mơi trường; phịng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp
lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên) [2, tr.89].
Khái niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời
sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc
nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, là nhận ra sự cần thiết phải
giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi
trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra
Chương trình nghị sự tồn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững
được xác định là: “sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba
bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công
bằng, ổn định, văn hố đa dạng và mơi trường được trong lành, tài nguyên được
duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát
triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế
chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường. Cho tới nay, khái niệm về phát triển bền


6
vững trên bình diện quốc tế có được sự thống nhất chung. Mục tiêu để thực hiện
phát triển bền vững trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.
1.2. Các mục tiêu phát triển bền vững
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh, an toàn và

chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống
kinh tế, trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều
kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các
hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây
là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang
lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng
như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản:
Một là, giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua
công nghệ tiết kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không
gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các
nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm
nghèo tuyệt đối; Năm là, cơng nghệ sạch và sinh thái hóa cơng nghiệp (tái chế,
tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng).
Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1) Có
tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập
cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng
phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay
cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát
triển bền vững về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền
vững về kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nơng
nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững. (3) Tăng trưởng kinh tế
phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, khơng chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí
như: Chỉ số phát triển con người (HDI - Human Development Index), hệ số bình


7
đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa.
Ngồi ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hịa; có sự bình

đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu
nghèo khơng q cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng
miền không lớn.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số HDI là tiêu chí cao nhất
về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí,
giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn
cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất
cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp
nhận được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn
định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm
thiểu tác động xấu của mơi trường đến đơ thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa
mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới
nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của công chúng vào các
quá trình ra quyết định.
Thứ ba, phát triển bền vững về mơi trường. Q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nơng nghiệp, du lịch; q trình đơ thị hóa, xây dựng
nơng thơn mới,... đều tác động đến mơi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến
môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu
tố tự nhiên đó, chất lượng mơi trường sống của con người phải được bảo đảm.
Đó là bảo đảm sự trong sạch về khơng khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh
quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên
được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và
cải thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường địi hỏi
chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì
mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép



8
môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống
trên trái đất.
Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) là mục tiêu phổ quát được đưa ra
nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo rằng tất cả mọi người
được hưởng hịa bình và thịnh vượng vào năm 2030 ở mỗi quốc gia thành viên
Liên hiệp quốc.
Tháng 9 năm 2015, tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hiệp quốc về phát triển
bền vững, các quốc gia trên thế giới đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì
sự phát triển bền vững. Mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development
Goals - SDG) là mục tiêu phổ quát được đưa ra nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ
hành tinh và đảm bảo rằng tất cả mọi người được hưởng hịa bình và thịnh vượng
vào năm 2030 ở mỗi quốc gia thành viên Liên hiệp quốc. SDG là sự tiếp nối của
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals - MDG).
Các SDG dựa trên sáu chủ đề bao gồm: nhân phẩm, con người, hành tinh,
quan hệ đối tác, công lý và thịnh vượng. SDG toàn diện hơn so với MDG và bao
gồm 17 mục tiêu, được xác định bởi 169 mục tiêu cụ thể và 232 chỉ tiêu. Những
mục tiêu này không chỉ bao gồm phát triển xã hội mà còn đề cập đến các vấn đề
như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng kinh tế, đổi mới, tiêu thụ bền vững, hịa
bình, cơng bằng… Các mục tiêu được kết nối với nhau và thành cơng trong một
mục tiêu có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực khác.
Nhằm cụ thể hóa Chương trình nghị sự 2030 tại Việt Nam, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình
nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10
tháng 5 năm 2017), trong đó đã đề ra 17 mục tiêu phát triển bền vững với 115
mục tiêu cụ thể.
Năm 2019, để cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển bền vững,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 681/QĐ-TTg về lộ trình thực
hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030. Ngày 25 tháng 9
năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP để thúc đẩy việc



9
thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong các ngành, các cấp và địa
phương đến năm 2030.
Liên quan đến chính sách về tiêu chuẩn hóa, Nghị quyết số 136/NQ-CP
đặt ra các mục tiêu như hoàn thành xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật về môi trường tương đương với các nước tiên tiến trên thế giới
để đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế; quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ
gỗ rừng trồng theo tiêu chuẩn Việt Nam và thông lệ quốc tế; xây dựng hệ thống
tiêu chuẩn quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ứng dụng và
phát triển các công nghệ cao, công nghệ chủ chốt, phù hợp với yêu cầu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Việc “bản địa hóa” các SDG tại Việt Nam thể hiện cụ thể như sau: SDG 1
toàn cầu là “No poverty”, SDG 1 Việt Nam là “Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở
mọi nơi”. Việt Nam có khả năng hoàn thành mục tiêu SDG 1 đúng hạn, thậm chí
đối với một số mục tiêu cụ thể là trước thời hạn 2030. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ
đặt mục tiêu giảm nghèo cho các hộ nghèo trong khi Liên hiệp quốc hướng tới
giảm nghèo theo đầu người [1, tr.121].
SDG 2 toàn cầu là “Zero hunger”, SDG 2 Việt Nam là “Xóa đói, bảo đảm
an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền
vững”.Các mục tiêu tồn cầu tích hợp giới tính, nhóm dễ bị tổn thương và trẻ em
nhưng các mục tiêu của Việt Nam tổng quát hơn.
SDG 3 toàn cầu là “Good health and well-being”, SDG 3 Việt Nam là
“Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi
lứa tuổi”. Các mục tiêu quốc gia và quốc tế khá tương đồng.
SDG 4 toàn cầu là “Quality education”, SDG 4 Việt Nam khá tương đồng:
“Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, cơng bằng, tồn diện và thúc đẩy các cơ
hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”. Tuy nhiên, các kế hoạch giáo dục của
Việt Nam vẫn chưa tập trung rõ vào việc tiếp cận toàn diện cho mọi đối tượng.

SDG 5 toàn cầu là “Gender equality”, SDG 5 Việt Nam khá tương đồng.
Ngày 03 tháng 3 năm 2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP về
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu tổng


10
quát là tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam
giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp
phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
SDG 6 toàn cầu là “Clean water and sanitation”, SDG 6 Việt Nam khá
tương đồng: “Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống
vệ sinh cho tất cả mọi người”.
SDG 7 toàn cầu là “Affordable and clean energy”, SDG 7 Việt Nam là
“Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả
năng chi trả cho tất cả mọi người”.
SDG 8 toàn cầu là “Decent work and economic growth”, SDG 8 Việt
Nam là “Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm
đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người”.SDG 8 được thể hiện
trong các kế hoạch của Chính phủ ở nhiều cấp độ. Tuy nhiên, cần nỗ lực nhiều
hơn để đạt kết quả mong đợi.
SDG 9 toàn cầu là “Industry, innovation and infrastructure”, SDG 9 Việt
Nam là “Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy cơng
nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới”.
SDG 10 toàn cầu là “Reduced inequalities”, SDG 10 Việt Nam là “Giảm
bất bình đẳng trong xã hội”. Mục tiêu quốc gia và quốc tế cơ bản tương đồng và
khả thi.
SDG 11 toàn cầu là “Sustainable cities and communities”, SDG 11 Việt
Nam là “Phát triển đơ thị, nơng thơn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm
bảo môi trường sống và làm việc an toàn; phân bổ hợp lý dân cư và lao động
theo vùng”. Mục tiêu quốc gia và quốc tế tương đồng nhưng cần nhiều nỗ lực để

đạt được; dữ liệu về một số khía cạnh của các mục tiêu này chưa được thu thập
như chất lượng nhà ở, các chỉ số liên quan đến giao thơng cơng cộng.
SDG 12 tồn cầu là “Responsible consumption and production”, SDG 12
Việt Nam là “Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững”. Năm 2020, Việt Nam
đã ban hành Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền
vững giai đoạn 2021-2030.


11
SDG 13 toàn cầu là “Climate action”, SDG 13 Việt Nam là “Ứng phó kịp
thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai”. Việt Nam là quốc gia bị ảnh
hưởng đáng kể bởi biến đổi khí hậu và thiên tai; hiện đã có nhiều chính sách và
chiến lược quốc gia nhằm đáp ứng những thách thức này.
SDG 14 toàn cầu là “Life below water”, SDG 14 Việt Nam là “Bảo tồn và
sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững”.
Hầu hết các mục tiêu cụ thể của SDG này đều được bao hàm trong các chính
sách quốc gia của Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam có rất ít khu bảo tồn biển (10 khu bảo tồn biển này
chiếm diện tích khoảng 0,24% diện tích vùng biển Việt Nam). Bộ Tài ngun và
Mơi trường đang lấy ý kiến góp ý về dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2050, theo đó đến năm 2030 sẽ có thêm 12 khu bảo tồn biển mới.
SDG 15 tồn cầu là “Life on land”, SDG 15 Việt Nam là “Bảo vệ và phát
triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái,
chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thối và phục hồi tài nguyên đất”. Dự thảo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng
sinh học đến năm 2030 đặt mục tiêu tỷ lệ che phủ rừng tồn quốc duy trì ổn định
ở mức từ 42%; nâng cao chất lượng rừng tự nhiên; phục hồi 20% diện tích hệ
sinh thái tự nhiên bị suy thối, ưu tiên phục hồi các hệ sinh thái tại các khu bảo
tồn thiên nhiên, rừng phịng hộ…

SDG 16 tồn cầu là “Peace, justice and strong institutions”, SDG 16 Việt
Nam là “Thúc đẩy xã hội hịa bình, dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, văn minh vì
sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây
dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các
cấp”. Các mục tiêu cho SDG 16 đã được phản ánh tốt trong chính sách của Việt
Nam, đặc biệt là Hiến pháp.
SDG 17 toàn cầu là “Partnerships for the goals”, SDG 17 Việt Nam là
“Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác tồn cầu vì sự phát triển


12
bền vững”. Việt Nam đã thúc đẩy các hệ thống thương mại đa phương và tăng
cường quan hệ đối tác toàn cầu với đất nước tương đối tốt.
Ủy ban Thống kê Liên hiệp quốc đã xây dựng Bộ chỉ tiêu thống kê để
theo dõi và đánh giá việc thực hiện SDG và 230 chỉ tiêu của họ. Việt Nam đã
xây dựng các khung pháp lý toàn diện để xây dựng các số liệu thống kê này, bao
gồm Luật Thống kê Việt Nam 2015 và Chiến lược phát triển thống kê Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Chương 2. PHÂN TÍCH NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHĨ KHĂN
TRONG THỰC HIỆN 17 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA
VIỆT NAM
2.1. Những thuận lợi trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững
của Việt Nam
Triển khai chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển nhanh và bền vững, qua 36 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết
quả quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế, thực hiện tốt
mục tiêu Thiên niên kỷ, mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên
hiệp quốc. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng
nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện khơng ngừng, sự nghiệp xóa đói giảm
nghèo đạt được kết quả rõ rệt và được thế giới thừa nhận, việc bảo vệ mơi

trường được quan tâm và có nhiều cải thiện, dân chủ trong xã hội tiếp tục được
mở rộng, quốc phịng an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định. Từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, mỗi năm phải nhập cả triệu tấn lương thực, đến nay
Việt Nam đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, thu nhập
bình quân đầu người tăng nhanh, Việt Nam đã bước vào nhóm các nước có thu
nhập bình quân đầu người vào mức trung bình của thế giới.
Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng trưởng
xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và tiêu
dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp, nông thôn
bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa phương. Năm 2020, theo đánh
giá của các tổ chức quốc tế, quy mô nền kinh tế Việt Nam nằm trong tốp 40 nền


13
kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ 4 trong ASEAN. GDP bình quân đầu người
năm 2020 đạt trên 3.500 USD (tính theo sức mua tương đương đạt khoảng
10.000 USD). Mặc dù chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19, song Việt
Nam nằm trong tốp 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới (Là một trong 16
nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới). Việt nam là nền kinh tế mở với độ
mở cao của thế giới khoảng 200% GDP. Hiện nay về đối ngoại, Việt Nam có
quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia; có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư
với trên 224 nước và vùng lãnh thổ; nước ta đã ký 15 Hiệp định FTA, có 16 đối
tác chiến lược [4, tr.87].
Trong thời gian qua, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có mơi trường
kinh tế vĩ mơ, chính trị xã hội ổn định, thuận lợi. Năng lực cạnh tranh quốc gia
năm 2019 xếp thứ 67/141, tăng 10 bậc so với năm 2018. Về chỉ số phát triển con
người và phát triển bền vững: Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam
lọt vào nhóm các nước phát triển con người cao và xếp vào thứ 117/189 quốc
gia (trong giai đoạn 1990-2019, giá trị HDI của Việt Nam đã tăng gần 46%).
Chuyển đổi phương thức phát triển để hướng tới xây dựng nền kinh tế

phát triển bền vững là mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia, phù hợp với xu thế
phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu. Nhiều quốc gia lựa chọn hướng
phát triển kinh tế bền vững là mơ hình phát triển mới để giải quyết đồng thời
những vấn nạn môi trường đang tiếp diễn phức tạp.
Mơ hình kinh tế mới này ghi nhận giá trị và vai trò của đầu tư vào vốn tự
nhiên, tạo ra việc làm, là trụ cột để giảm nghèo. Thay vì sử dụng nhiên liệu hóa
thạch, nền kinh tế phát triển bền vững sử dụng năng lượng tái tạo và cơng nghệ
carbon thấp, khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn nữa
để phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, thực tiễn tại các nước cũng cho thấy, việc thúc đẩy tăng
trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế phát triển bền vững đã
tạo ra những tín hiệu tích cực vơ cùng to lớn, đối với các nước đang phát triển
thì phát triển bền vững còn tạo đà cho một bước nhảy vọt để phát triển kinh tế.


14
Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam
(2004), Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (2012) và
gần đây nhất là Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự
2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 115 mục
tiêu cụ thể đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường.
Quan điểm phát triển bền vững đã được Chính phủ lồng ghép xuyên suốt
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2020.
Đặc biệt, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 đã
nhấn mạnh việc huy động hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển bền vững,
trong đó đối với nguồn lực trong nước, đặc biệt là nguồn lực tài chính cơng địi
hỏi hồn thiện chính sách và hệ thống thuế, bảo đảm tỉ lệ tích luỹ hợp lý cho đầu
tư phát triển (Lê Thị Mai Liên, 2021).

Tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì
sự phát triển bền vững cũng đã đề ra các giải pháp về tài chính để thực hiện các
mục tiêu phát triển bền vững như: Tăng cường nguồn lực tài chính cơng thơng
qua việc nâng cao hiệu quả hệ thống chính sách thu; tiết kiệm chi tiêu cơng; đổi
mới quản lý tài chính cơng theo hướng cơng khai, minh bạch; huy động các
nguồn lực xã hội cho thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững...
Việt Nam là quốc gia đạt được nhiều thành quả trên hành trình phát triển
bền vững. Việt Nam đã ban hành Chương trình quốc gia về phát triển bền vững,
thành lập Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh
tranh. Năm 2018, Việt Nam xếp thứ 69/190 về môi trường kinh doanh (đánh giá
của Ngân hàng Thế giới - WB); xếp thứ 77/140 về năng lực cạnh tranh (đánh giá
của Diễn đàn Kinh tế Thế giới - WEF), xếp thứ 54/162 quốc gia lọt vào Top 30%
quốc gia dẫn đầu về phát triển bền vững (chỉ thua Thái Lan trong ASEAN).
Theo định hướng phát triển đất nước, trong những năm tới, nước ta đã có
chủ trương điều chỉnh chiến lược tăng trưởng nhằm nâng cao hiệu quả và tính


15
cạnh tranh của nền kinh tế, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu đồng thời
giảm phát thải khí nhà kính để tham gia nỗ lực tồn cầu ứng phó với biến đổi khí
hậu. Vì vậy, phát triển bền vững là cơ hội phát triển phù hợp với định hướng
Chiến lược.
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lý chính trị
quan trọng, có cả vùng núi, đồng bằng và ven biển, có hệ thống hạ tầng giao
thông kết nối với kinh tế của các nước trong vùng và đang trở thành một trung
tâm của Đông Nam Á, với tài nguyên thiên nhiên phong phú, giàu vốn tự nhiên
để phát triển. Với việc nhận thức về phát triển bền vững, việc bảo vệ tài ngun,
mơi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý, các giải pháp
quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước,

không khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân dân
đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm
hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
Việt Nam có nguồn lực lao động của Việt Nam đang ở giai đoạn dân số
vàng, có truyền thống cần cù lao động, sống giản dị và hài hòa với thiên nhiên
theo truyền thống văn hóa phương Đơng; có khả năng tiếp thu nhanh khoa học,
bí quyết cơng nghệ và kỹ năng quản lý để phát triển nhân lực chất lượng cao gắn
với khoa học công nghệ hiện đại cũng như nguồn nhân lực.
Tập trung đẩy mạnh công tác giảm nghèo theo hướng bền vững; tạo việc
làm bền vững; Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, riêng các huyện
nghèo giảm trên 4%/năm. Thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội. Chỉ trong 9 tháng/2019, số người tham gia bảo
hiểm xã hội bắt buộc khoảng 14,85 triệu người; Bảo hiểm thất nghiệp khoảng 13
triệu người; Bảo hiểm y tế khoảng 85,2 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 89,8% dân
số. Đời sống nhân dân được cải thiện. Tuổi thọ trung bình đạt 73,5 tuổi (2018),
cao hơn mức trung bình của thế giới (69 tuổi). Chỉ số phát triển con người đạt
0,694 (2017) thuộc nhóm trung bình cao trong tổng số 189 quốc gia. Theo Báo
cáo đánh giá về tiến độ thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững, Việt Nam
xếp thứ 54 (2019) tăng 3 bậc so với năm 2018 và chỉ số phát triển bền vững


16
đứng thứ 2 trong khu vực Đơng Nam Á. Hồn thành nhiều mục tiêu Thiên niên
kỷ. Ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển văn hố
hài hồ với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam; phát
triển bền vững các đô thị, xây dựng nông thôn mới, phân bố hợp lý dân cư và
lao động theo vùng; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí
và trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước, vùng
và địa phương [5, tr.56].
Về tài ngun và mơi trường, chống thối hoá, sử dụng hiệu quả và bền

vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên
nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài ngun khống sản;
bảo vệ mơi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ
và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn ở các đơ thị lớn và khu
cơng nghiệp... Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển, chi ngân sách nhà nước
cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách; đến năm 2011, tất cả các
tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Giải quyết việc làm đạt
kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 - 2011), đã giải quyết được việc làm cho
hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người;
năm 2018, tạo việc làm cho 1,64 triệu người; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn
với tạo việc làm.
Vấn đề môi trường trong giai đoạn 2015 - 2020 đã được chú trọng hơn.
Việc bảo vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách
hợp lý, các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ơ nhiễm
các nguồn nước, khơng khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng
lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng
được quan tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
Những kết quả đạt được này đã tạo nên khơng khí phấn khởi, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang được nhân lên và lan rộng khắp cả
nước. Trong thời gian tới, để thực hiện quan điểm phát triển nhanh bền vững
trong bối cảnh mới, Đảng ta xác định chủ đề chiến lược là: Khơi dậy khát vọng


17
phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và
sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên
cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến
năm 2030 là nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

2.2. Những khó khăn trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững
của Việt Nam
Để chuyển nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững, Việt Nam đang
phải đối diện với khơng ít khó khăn, thách thức: Nhận thức và năng lực của toàn
hệ thống (con người, cơ sở hạ tầng, tài chính và thể chế) cịn thấp, làm cho
những thói quen cũ trong sản xuất đời sống và quản lý chậm thay đổi. Nhận thức
về phát triển bền vững của khơng ít cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhiều
người dân còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; các chính sách kinh tế - xã hội còn
thiên về tăng trưởng nhanh về kinh tế và ổn định xã hội mà chưa quan tâm đầy
đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
gắn với bảo vệ môi trường…
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm. Sự dịch chuyển
cơ cấu tăng trưởng theo ngành, từ khai thác tài nguyên chuyển sang phát triển
công nghiệp chế tạo, dịch vụ mặc dù đã diễn ra, song vẫn chưa đậm nét và
chưa đạt được nhiều thành tựu. Chuyển dịch cơ cấu lao động cũng tương tự
khi tỷ lệ lao động chất lượng cao còn chiếm tỷ lệ thấp. Cơng nghiệp và xây
dựng là động lực chính của tăng trưởng trong thời gian qua. Về cơ cấu thành
phần kinh tế, sự dịch chuyển theo hướng kém lành mạnh, kém cân bằng và
dễ bị tổn thương hơn. Khu vực kinh tế tư nhân chính thức trong nước cịn q
nhỏ; tăng trưởng với tốc độ chưa đủ lớn để nhanh chóng khẳng định vai trị
của mình; khu vực kinh tế hộ kinh doanh cá thể, phi chính thức cịn lớn. Khu
vực kinh tế nhà nước nắm giữ các nguồn lực quốc gia, giữ vai trị chủ đạo
nhưng đóng góp cho tăng trưởng chưa tương xứng. Khu vực FDI tiếp tục mở
rộng với tốc độ nhanh, nhưng nếu có những cú sốc đối với khu vực FDI, chắc
chắn nền kinh tế Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương...


18
Đại dịch Covid-19 đang tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội
tồn cầu, trong đó có Việt Nam, các chuỗi cung ứng sản xuất bị ngưng trệ, nhiều

lĩnh vực dịch vụ phải đóng cửa và ngừng cung cấp. Bên cạnh đó, trình độ phát
triển nói chung còn thấp, bị tụt hậu so với nhiều nước sau những năm chiến
tranh kéo dài để lại những di hại khơng nhỏ, cần có thời gian và nguồn lực lớn
để khắc phục.
Nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt
Nam vẫn chủ yếu là nguồn lực cơng, trong khi đó cân đối ngân sách nhà nước và
dư địa để mở rộng quy mô động viên ngân sách nhà nước đang đối mặt với
nhiều thách thức; vai trò dẫn dắt, chủ đạo của ngân sách trung ương có xu hướng
giảm; Chưa khai thác được một cách có hiệu quả các nguồn lực tiềm năng từ đất
đai, tài nguyên cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Hiệu quả huy động nguồn lực tư nhân, các nguồn lực trong xã hội trong
thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững còn hạn chế. Các doanh nghiệp tư
nhân chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động
thấp. Các dự án thu hút FDI phần lớn sử dụng cơng nghệ thấp, thâm dụng lao
động trình độ thấp, sử dụng tài nguyên lãng phí, chưa tạo sự lan tỏa về năng suất
và cơng nghệ trình độ cao.
Hệ thống pháp luật đang trong thời kỳ chuyển đổi chưa đồng bộ, chưa thật
phù hợp với xu thế tồn cầu hóa và hướng phát triển bền vững.
Công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu còn phổ biến, năng suất lao động thấp, sức
cạnh tranh không cao, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp; công nghệ sản xuất
năng lượng tái tạo chưa phát triển; trình độ phát triển khoa học cơng nghệ (nhất
là R&D và chuyển giao cơng nghệ) cịn thấp.
Tài ngun thiên thiên bị suy giảm nghiêm trọng, một phần bị hủy hoại do
phương thức tăng trưởng còn nặng theo chiều rộng, sử dụng năng lượng hóa
thạch là nguyên liệu đầu vào, trong khi trình độ sử dụng cơng nghệ mới để giảm
tiêu hao vật chất còn thấp.


19
2.3. Định hướng giải pháp phát huy những thuận lợi, khắc phục khó

khăn để phát triển bền vững tại Việt Nam hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững cho các đối tượng liên
quan, đặc biệt là các doanh nghiệp, qua đó giúp cộng đồng doanh nghiệp quan tâm
đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
gắn với bảo vệ mơi trường… trong q trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, thực hiện cải cách mạnh mẽ khung khổ pháp luật về tài chính cơng
để khơi thơng nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Trong đó,
hồn thiện hệ thống chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước,
hướng đến xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, đảm bảo
nhu cầu chi tiêu cần thiết, hợp lý của ngân sách nhà nước. Đa dạng hóa nguồn
lực, khai thác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc thực hiện các
mục tiêu về phát triển bền vững.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phát triển bền vững, đặc
biệt là hồn thiện về thuế bảo vệ mơi trường. Trong thời gian qua, việc xây dựng
và thực hiện các chính sách thuế, phí về bảo vệ mơi trường đã góp phần nâng
cao ý thức bảo vệ mơi trường của tồn xã hội, tạo nguồn thu để giải quyết vấn
đề môi trường. Luật Thuế Bảo vệ mơi trường khuyến khích các hoạt động có lợi
cho mơi trường, thân thiện với mơi trường và kìm hãm, ngăn chặn các hoạt động
gây hại cho môi trường trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải chi trả chi phí
để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường.
Bốn là, tiếp tục chủ trương phát triển bền vững giai đoạn tới theo hướng
phát triển nhanh để duy trì ổn định, nhằm tạo nền tảng cho phát triển bền vững.
Phát triển nhanh dựa trên sự thúc đẩy mạnh mẽ của khoa học, cơng nghệ và đổi
mới sáng tạo. Thực hiện tốt chính sách đối với người có cơng, bảo đảm an sinh
xã hội, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững. Tiếp tục mở rộng bao phủ bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Thực hiện tốt Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; bố trí nguồn ngân sách nhà nước và
huy động các nguồn lực xã hội, tạo điều kiện để người dân vùng dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa tiếp cận và sử dụng hiệu quả các dịch vụ xã hội cơ bản,



20
giảm nghèo và phát triển bền vững. Bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với
biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường. Xây dựng mỗi
dự án, mỗi chính sách kinh tế phải đánh giá một cách nghiêm túc tác động tới môi
trường, môi sinh. Giữ rừng và trồng rừng, tham gia chương trình trồng 1 tỷ cây
xanh. Nghiên cứu và đưa vào trồng những loại cây thích ứng với sự biến đổi của
thời tiết, khí hậu [3, tr.90].


21
KẾT LUẬN
Phát triển bền vững ở mỗi quốc gia và trên quy mơ tồn cầu có thể trở
thành hiện thực thông qua việc xây dựng xã hội phát triển bền vững. Đó là một
xã hội biết kết hợp hài hịa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường
sinh thái. Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển đã đề ra những nguyên
tắc về phát triển bền vững như: hạn chế tác động của con người tới sinh quyển ở
mức trong phạm vi chịu đựng của nó; duy trì kho tài ngun sinh học; sử dụng
tài nguyên không thể tái tạo với mức độ thấp hơn khả năng tạo nên các chất thay
thế; phân bố cơng bằng lợi ích, chi phí sử dụng tài ngun và quản lý mơi
trường; khuyến khích các cơng nghệ tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên; chấp
nhận tiếp cận tham gia liên ngành trong quá trình quyết định; khuyến khích và
hỗ trợ phát triển các giá trị văn hóa phù hợp với tư tưởng phát triển bền vững.
Ở nước ta, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nó được đề cập tới như một yêu cầu
cấp thiết trong hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các cấp, các ngành và các lĩnh vực.
Đảng ta xác định là: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển bền vững
là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển của Việt Nam, đó là q trình
kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội

và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh và trật tự an
tồn xã hội, nhằm tạo dựng một xã hội ổn định, văn minh và hạnh phúc ở cả
hiện tại và tương lai xa của đất nước.


22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2019), Sự gắn kết giữa kinh tế và văn hóa chìa khóa cho sự phát triển lâu bền của xã hội, Tạp chí Triết học, số 4/2019.
2. Phạm Thị Thanh Bình (2019), Phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí
đánh giá và định hướng phát triển đến năm 2030, Tạp chí Ngân hàng, số
24/2019.
3. Vũ Văn Hưng (2018), Phát triển bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận
chính trị, sơ 78/2018.
4. Lê Thị Mai Liên (2021), Huy động nguồn lực tài chính cho thực hiện
các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng
3/2021.
5. Nguyễn Thị Việt Nga (2019), Phát triển bền vững ở Việt Nam và gợi
mở hai mơ hình chính sách, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 11/2019.



×