Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận hãy phân tích quan điểm của triết học mác lênin về con người và bản chất con người từ đó, trình bày quan điểm của đảng ta về phát triển con người toàn diện và liên hệ thực tiễn bản thân về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.13 KB, 17 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN TRIẾT HỌC

Đề tài: Hãy phân tích quan điểm của triết học Mác- Lê Nin về con
người và bản chất của con người. Từ đó, trình bày quan điểm của Đảng ta về
phát triển con người toàn diện và liên hệ với thực tiễn của bản thân về vấn
đề này.
Lớp Cao học Quản lý Giáo dục (Mã lớp CH21QGD_HCM10_1)
Họ và tên học viên: …
Mã học viên: …
GIẢNG VIÊN : …

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
I.
CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc con
1.1.
người
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
1.2.
những quan hệ xã hội


TỪ QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ
II.
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI TOÀN DIỆN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ NÀY
2.1.
Sự vận dụng của Đảng ta về phát triển con người toàn diện
2.2.
Vấn đề xây con người ở Việt Nam hiện nay
Liên hệ thực tiễn bản thân về vấn đề này (Hiệu trưởng quản
2.3.
lý trường tiểu học)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
4

6
6
8
12
14
15



MỞ ĐẦU
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của tồn nhân loại.
Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra
bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối
cảnh đó sự tan ró của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do
tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam
càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong
thực tế, khơng ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong chủ nghĩa tư
bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hồn thiện con người trong các tôn
giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng,
tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song nhìn
nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác Lênin trong xã hội ta, có lẽ khơng ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng
của nó trong sự phát triển con người.
Vấn đề phát huy và sử dụng có hiệu quả nhân tố con người có vị trí, vai
trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế tri thức nói riêng và
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Để phát huy và sử dụng nguồn
nhân lực có hiệu quả chúng ta phải hiểu được nguồn gốc, bản chất của con
người, hay chính là quán triệt những nguyên tắc cơ bản của triết học Mác Lênin về xây dựng con người. Mặt khác nhận thức được nội hàm, vị trí và ý
nghĩa quan trọng của vấn đề này, Đảng ta khẳng định phát huy vai trò nhân tố
con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề “Hãy phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về con
người và bản chất con người. Từ đó, trình bày quan điểm của Đảng ta về
phát triển con người toàn diện và liên hệ thực tiễn bản thân về vấn đề này”
làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI

VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm
của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh
học, tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.
Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó là q trình con người đấu tranh với thiên nhiên, với
thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn
thành người, điều đó đã được chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của
Đácuyn. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người đã trải qua từ sinh
thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con
người. Như vậy con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong
những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ
của nó với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân
con người.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất
quyết định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác
nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng cơng
cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hay con người là động vật có tư
2



duy… Những quan niệm này đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc bản chất xã
hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề
con người một cách toàn diện, cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của nó,
mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con
người: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơn giáo, nói
chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng việc tự
phân biệt với súc vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như vậy, con người đã gián
tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của mình” [1, tr.318].
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ giới tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, cịn con
người thì tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên” [2, tr.617].
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con
người. Thơng qua hoạt động sản xuất, con người tạo ra của cải vật chất và tinh
thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngơn ngữ và tư duy;
xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản
chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng
đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau,
nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự
phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến
dị, tiến hoá… quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã
hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.

3


Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất trong đời
sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ giữa sinh
học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã
hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học với mặt xã hội cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh con người, và
đến lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thốt ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người
viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
1.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ
những quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và
mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên
một mệnh đề nổi tiếng Luận cương về Phơbách: “Bản chất con người không
phải một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội” [3, tr.120].
Luận đề trên khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly
mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người ln ln cụ thể, xác định,

sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong
điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
4


Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con
người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn
nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết là ở bản
chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục thiếu sót của các nhà triết học trước Mác
không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý
nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ khơng thể là cái duy nhất; do đó
cần phải thấy được các biểu hiện riêng phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về
cả phong cách, nhu cầu và lợi ích của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
người. Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa
cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… cái học
thuyết ấy quên rằng chính bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”
[4, tr.123]. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên. Ph.Ăngghen cũng cho
rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong
chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà
chúng khơng hề biết và cũng không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con
người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy,

với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào
tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của
lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên.
Con người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú
thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
5


người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính
bản thân con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp
với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con người
thì cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của toàn bộ
lịch sử xã hội loài người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính
là tồn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa
định hướng giáo dục. Thơng qua đó con người tiếp cận hồn cảnh một cách tích
cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử , hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ
và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người và hoàn cảnh trong
bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
II. TỪ QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TA VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ NÀY
2.1. Sự vận dụng của Đảng ta về phát triển con người toàn diện

Lịch sử nhân loại, xét đến cùng, là lịch sử giải quyết vấn đề con người,
từng bước thoát khỏi thần quyền và bạo quyền để đi đến mục ticu cuối cùng là
phát triển tồn diện cả nhân trong xã hội văn minh. Khơng một dân tộc nào tồn
tại và phát triển lại không chú ý tới vấn đề con người, có điều là khác nhau ở
mục đích và phương pháp giải quyết mà thôi. Ngày nay, Việt Nam đang trong
giai đoạn dẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, cùng với
q trình đổi mới tồn diện đất nước, do vậy việc xây dựng con người Việt Nam
hiện đại là yêu cầu cấp bách.
6


Kế thừa những thành tựu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người
và xây dựng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [7,
tr.319]. Tư tưởng xem con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng, của sự phát triển xã hội là tu tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng cùa Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng con người là
phải chú ý đến tất cả các mặt trong đời sống của con người, từ đời sống vật chất
đển đời sống tinh thần. Người dân phải được ăn no, mặc ấm, được học hành và
được hưởng quyền tự do, hạnh phúc. Con người được phát triển toàn diện.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và xây dựng con người luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong
quá trình xây dựng và phát triển con người suốt thời kỳ đổi mới vừa qua, thể
hiện rõ và nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng.
Con người được sinh ra là những cá thể. Để trở thành con người với tư
cách là chỉnh thể sinh vật - xã hội đặc biệt, con người cần được xây dựng, rèn
luyện, trải nghiệm... Xây dựng con người bao hàm trong đó quá trình phát triển
con người, nghĩa là bao hàm trong đó quá trình làm gia tăng các giá trị cần thiết
cho con người về thể chất, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và các năng lực cần thiết
khác nhằm đáp ứng nhu cầu phát biển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch

sử nhất định.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung và phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích cùa dân tộc, đất nước và quyền làm chủ
của nhân dân... Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý
thức làm chủ, bách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có
văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI xác định mục tiêu cụ thể trong xây
dựng văn hóa, con người Việt Nam là: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
7


tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý
thức tôn họng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tơn
vinh lịch sử, văn hóa dân tộc” [5, tr.49].
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng đề ra đinh hướng: “Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của
chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn
mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế; tạo mơi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật... Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo
đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [6, tr.181].
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng con người Việt Nam cũng chính là việc xây
dựng nguồn nhân lực “đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Qua các văn kiện, các chiến lược, chính sách phát triển của Đảng và Nhà
nước thời kỳ đổi mới, có thể tóm lược tư tưởng về xây dựng con người Việt

Nam ở một số điểm chính sau: Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
quá trình phát triển và cũng là chủ thổ của quá trình phát triển. Vì vậy, xây dựng
con người là một nội dung quan trọng của sự nghiệp cách mạng; xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển đất nước trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị truyền
thống, bồi đắp, củng có những giá trị mới, khắc phục những hạn chể của con
người Việt Nam. Xây dựng con người Việt Nam là một q trình gắn bó chặt chẽ
với các q trình phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức
khỏe và bảo vệ mơi trường, thực hiện an sinh xã hội...
2.2. Vấn đề xây con người ở Việt Nam hiện nay
Việc nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển
sáng tạo quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là chủ thể sáng tạo có
ý thức của lịch sử. Đối với khái niệm nhân tố con người, đến nay đã có nhiều
học giả trong và ngồi nước đề cập với những góc độ, cách tiếp cận khác nhau
8


(có thể dưới góc độ quản lý, hay dưới góc độ phân tích tâm lý - xã hội,...). Trong
tài liệu triết học - xã hội về nhân tố con người cũng nổi lên nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Tựu trung lại, có hai cách tiếp cận chính:
Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con người
riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng
như tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định.
Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hịa các phẩm chất thuộc
tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các dạng thức
hoạt động khác nhau.
Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người về
bản chất là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng sự
khác nhau là, quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn phẩm
chất, năng lực được thể hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy đặc trưng

cơ bản là những phẩm chất năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện nó.
Phát huy nhân tố con người là một tổ hợp thống nhất các quan điểm,
phương hướng, phương pháp, biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,
quản lý... nhằm tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần thuận lợi cho việc hình thành,
phát triển, hiện thực hóa vai trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người,
hướng vào mục đích phát triển xã hội, phát triển con người.
Việc phát huy nhân tố con người không chỉ là khơi dậy, khai thác, sử dụng
tiềm năng sáng tạo của con người một cách tối đa, tạo ra động lực phát triển
kinh tế - xã hội, mà đồng thời cịn là q trình đào tạo, bồi dưỡng, tạo động lực
kích thích phát triển và nâng cao khơng ngừng vai trị chủ thể tích cực, tự giác,
sáng tạo của con người với tư cách như là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Từ
đó, có thể khẳng định: Phát huy nhân tố con người chính là tạo cơ hội, điều kiện
để sử dụng, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cần thiết để con
người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động và hoạt động sáng tạo
nhằm thúc đẩy sự phát triển kỉnh tế - xã hội. Phát huy nhân tố con người nói
chung (theo nghĩa rộng) thường đề cập đến việc sừ dụng con người, giáo dục,
bồi dưỡng nguồn nhân lực và các chính sách, biện pháp tạo động lực kích thích
9


người lao động, làm cho các năng lực tiềm ẩn được tỏa sáng thành hiệu quả kinh
tế - xã hội; còn theo nghĩa hẹp, thường tập trung vào việc tạo động lực kích thích
để các tiềm năng được phát huy.
Xây dựng con người có ý nghĩa rất quan trọng quyết định sự thành công của
sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa” [8, tr.278]. Năm 2014, sau khi tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII về văn hóa, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã ban
hành Nghị quyết 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (Nghị quyết số 33), trong đó,

đề cao việc phần xây dựng con người phát triển toàn diện.
Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong chăm lo xây dựng con người. Lấy
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản, cốt lõi đoàn kết mọi
người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy
chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhân cách làm thước đo đánh giá con người
trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, xã hội, hướng tới giá trị nhân văn.
Xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện mỹ. Sống trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng quốc
tế, đang diễn ra cuộc cách mạng 4.0, đòi hỏi mỗi con người Việt Nam phải có
thế giới quan khoa học trong nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng và xử lý
các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Vấn đề cốt lõi của thế giới quan khoa học
là tư tưởng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức và cải tạo
thế giới. Muốn có thế giới quan khoa học, Đảng yêu cầu: “Nâng cao trí lực, bồi
dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và
xã hội học tập”.
Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây là nhiệm vụ có tính cấp
10


thiết và thời sự đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đảng đòi
hỏi các nhà quản lý, giới khoa học nghiên cứu toàn diện, sâu sắc con người Việt
Nam trong lịch sử và hiện nay, đúc rút nêu ra một hệ giá trị chuẩn của con
người Việt Nam, làm cơ sở pháp lý trong tổ chức thực hiện và hướng đích xây
dựng con người phát triển toàn diện.
Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường”. Đây là lối sống thể hiện bản

chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thể hiện mối quan hệ “cái chung” và “cái
riêng”, đặt “cái ta” lên trên “cái tôi”, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản
thân, gia đình và xã hội. Từ đó, Đảng khẳng định trong xây dựng con người
phải: “Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân
rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
Xét đến cùng, văn hóa là nghệ thuật của cái đẹp, mọi hoạt động của văn
hóa đều vận động theo quy luật của cái đẹp. Muốn hiểu đúng cái đẹp cần phải
giáo dục để mọi người dân nhận biết đúng đắn chuẩn mực, giá trị của cái đẹp.
Đảng đề ra nhiệm vụ: “Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm
thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên”.
Xây dựng con người phát triển toàn diện, quy lại trong bốn giá trị cốt lõi
là Trí - Đức - Thể - Mỹ. Thực tiễn cho thấy thể lực, tầm vóc, sức dẻo dai của con
người Việt Nam cịn hạn chế. Do vậy, Đảng chủ trương: “Nâng cao thể lực, tầm
vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ
năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Xây đi đôi với chống. Xây dựng phẩm chất tốt đẹp, nhân cách nhân ái,
cao thượng, bao dung, thân thiện của người Việt Nam đồng thời với đấu tranh
với mọi biểu hiện cản trở, làm tha hóa nhân cách, lối sống tốt đẹp của con
người. Đảng đề ra nhiệm vụ: “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp
hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến
xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những
mặt hạn chế của con người Việt Nam”.
11


Những nhiệm vụ cụ thể nêu trên trong Nghị quyết số 33 là những chỉ dẫn
rất quan trọng để cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân căn cứ vào đó
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
2.3. Liên hệ thực tiễn bản thân về vấn đề này (Hiệu trưởng quản lý
trường tiểu học)

Hiệu trưởng trường tiểu học với tư cách là người đứng đầu nhà trường có
chức năng lãnh đạo và quản lý nhà trường. Hiệu trưởng nhà trường là hạt nhân chủ
yếu ứng dụng khoa học quản lý, cải tiến các biện pháp quản lý để thực hiện mục
tiêu giáo dục. Từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và bản chất
con người; quan điểm của của Đảng ta về phát triển con người toàn diện đặt ra
yêu cầu người hiệu trưởng phải làm tốt công tác quản lý, nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên và chất lượng dạy học của nhà trường. Trên cơ sở đó mới tạo ra
được những con người - thế hệ trẻ có đầy đủ kiến thức, năng lực cần thiết để học
tập ở bậc cao hơn. Để làm được việc đó người hiệu trưởng trường tiểu học cần
làm tốt một số nội dung sau:
Một là, quản lý việc thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học của nhà
trường. Hiệu trưởng cần nắm vững kế hoạch, chương trình dạy học của cấp học.
Việc nắm vững chương trình, kế hoạch dạy học tạo tiền đề to lớn trong việc tiến
hành công tác quản lý việc xây dựng kế hoạch dạy học trong nhà trường diễn ra
đúng trọng tâm, hợp lý, đồng thời giúp chủ thể quản lý có thể tiến hành nhiều
hoạt động khác có hiệu quả.
Hai là, quản lý hoạt động dạy học của giáo viên. Kết quả của q trình dạy
học nói chung và từng tiết học nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào công việc chuẩn
bị bài chu đáo, cẩn thận và suy ngẫm đến mọi khả năng có thể xảy ra trong từng
tiết học của giáo viên để có cách thức, phương pháp giảng dạy phù hợp với đối
tượng học sinh và trang thiết bị hiện có. Do đó, hiệu trường cần phải chỉ đạo tốt
công việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy và các thiết bị dạy học cần thiết của giáo
viên. Quản lý việc thực hiện kế hoạch bài dạy của giáo viên, việc thực hiện kế
hoạch bài dạy trên lớp của giáo viên giữ vai trò quyết định đến chất lượng dạy
học. Biên soạn bài giảng và chuẩn bị những thiết bị cần thiết cho giờ lên lớp của
12


giáo viên chỉ mang lại hiệu quả cao khi giáo viên thực hiện thành cơng trên lớp,
ngồi việc thực hiện những ý đồ đã chuẩn bị, giáo viên còn phải biết linh hoạt giải

quyết các tình huống xảy ra sao cho hồn tất các cơng việc đã được chuẩn bị.
Hiệu trưởng tuy khơng giữ vai trị trực tiếp quyết định việc thực hiện kế hoạch bài
dạy của giáo viên song có vai trị tác động gián tiếp tới hiệu quả giờ lên lớp.
Ba là, quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên. Giáo viên là nhân tố quyết
định chất lượng của giáo dục. Cơng tác bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ
giáo viên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
Bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ của hiệu trưởng, nó mang ý nghĩa của vai trò
cố vấn sư phạm. Hiệu trưởng phải tổ chức các hoạt động bồi dưỡng thường
xuyên với nhiều nội dung và hình thức khác nhau. Nội dung bồi dưỡng bao gồm
cả bồi dưỡng về chính trị tư tưởng và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ. Hình
thức bồi dưỡng: bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng đạt chuẩn, bồi dưỡng nâng
chuẩn; bồi dưỡng giáo viên qua sinh hoạt tổ khối chuyên môn; tổ chức viết sáng
kiến kinh nghiệm và tổng kết kinh nghiệm dạy học; tổ chức chuyên đề đổi mới
phương pháp giảng dạy; tổ chức các đợt thao giảng; Quy định và tạo điều kiện
cho giáo viên tự bồi dưỡng.
Bốn là, quản lý hoạt động học tập của học sinh. Hoạt động học tập của
học sinh là hoạt động đồng thời với hoạt động giảng dạy của thầy. Quản lý hoạt
động học của học sinh rất quan trọng để tạo ý thức, động cơ đúng đắn trong học
tập. Người hiệu trưởng căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường thống nhất
yêu cầu và biện pháp giáo dục tư tưởng, thái độ và động cơ học tập của học sinh
trong tất cả giáo viên và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường. Giáo dục tinh
thần và thái độ học tập phải được cụ thể hoá trong nội quy nhà trường để học
sinh rèn luyện thường xuyên thành những thói quen tự giác.
Tóm lại, trên cương vị là hiệu trưởng trường tiểu học, bản thân tôi luôn cố
gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, không ngừng nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên của nhà trường; chất lượng dạy và học của học sinh.
Qua đó góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện theo đúng quan điểm
của Đảng ta.
13



KẾT LUẬN
Con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là con người hoàn
chỉnh phát triển toàn diện trong hiện thực, đây chính là một bước chuyển biến về
chất trong nhận thức về con người của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nó là cơ sở
nghiên cứu những điều kiện, con đường đúng đắn để đi đến giải phóng con
người. Đồng thời là cơ sở để Đảng ta đề ra những chủ trương, chính sách phát
huy và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trí tuệ trong nền kinh tế tri thức yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước.
Chính vì vậy, để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải phát triển lực phát triển nhân tố con
người - nguồn nhân lực là quan trọng và quyết định. Bên cạnh đó, xây dựng,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao một cách bền vững cần phải được xác
định là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược nhằm đảm bảo tính
ổn định của quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
Với quan điểm và chiến lược đúng đắn, chắc chắn tình hình kinh tế - xã
hội Việt Nam sẽ có bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới, góp phần thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
3. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
4. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
8. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.

15



×