Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận học THUYẾT HÌNH THÁI KINH tế xã hội với CON ĐƯỜNG xây DỰNG CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.67 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI
CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên học viên:
Mã số học viên:
Lớp:
Khóa học:

Hà Nội - 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỌC THUYẾT HÌNH
THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế
- xã hội
1.2.
Quan niệm về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là quá trình lịch sử tự nhiên
II.
VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở


VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
Tính tất yếu khách quan quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
2.2.
Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng lý luận Chủ nghĩa
Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
3
3
3
8
10
10
13
20
21


3
MỞ ĐẦU
Mọi người đều biết, trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có
khơng ít cách tiếp cận khi nghiên cứu sự phát triển của xã hội. Xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia
lịch sử tiến hóa của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà xã hội

học Vicô ở Italia (1668-1744) đã phân chia các thời kì phát triển của xã hội
giống như phân chia các giai đoạn của một đời người: thơ ấu, thanh niên,
thành niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm Hêghen (1770 -1831) phân chia
lịch sử xã hội loài người thành ba thời kì chủ yếu: thời kì phương Đơng, thời
kì cổ đại và thời kì Giécmani. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phuriê
(1722-1837) chia lịch sử xã hội thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội,
giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn văn minh. Cịn nhà nhân
chủng Mỹ Hangri Mcgăng (1818-1881) lại phân chia xã hội thành ba thời
đại : thời đại mông muội, thời đại dã man và thời đại văn minh..
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lí luận và tổng kết quá trình lịch sử
đã hình thành nên học thuyết về hình thái kinh tế -xã hội. Hình thái kinh tế- xã
hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những mối quan hệ sản xuất. Do
đó, nghiên cứu vấn đề “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa quan trọng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Phân tích làm rõ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó chỉ
ra tính tất yếu khách quna, hợp quy luật của quá trình Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
- Chỉ ra tính tất yếu khách quna, hợp quy luật của quá trình Việt Nam
tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.


4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
* Phạm vi nghiên cứu
Ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác kết hợp với các phương
pháp nghiên cứu khác như nghiên cứu lý thuyết, phương pháp logic, phân
tích, tổng hợp, thống kê, mơ tả, so sánh...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận
Phân tích làm rõ tính khoa học, cách mạng của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó chỉ ra tính tất yếu khách quna, hợp quy luật của
quá trình Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
* Ý nghĩa thực tiễn
Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo cho các trường đại học, trung
tâm bồi dưỡng chính trị... nghiên cứu, vận dụng vào trong q trình giảng dạy.
Học viên, sinh viên có thể làm tài liệu tham khảo các môn học liên quan đến
chủ đề..
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
tiểu luận gồm 2 chương.



5
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về hình
thái kinh tế - xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác như Lênin đánh giá là thành tựu vĩ
đại nhất của tư tưởng khoa học, trong đó cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội. Giai cấp tư bản không thể chấp nhận được học thuyết này vì trong đó
đã luận chứng một cách khoa học chặt chẽ chế độ tư bản sẽ bị thay thế bằng
chế độ cộng sản chủ nghĩa theo quy luật chung của tiến hóa xã hội, mà chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã tìm ra.
Bằng sự nghiêm túc khoa học, chúng ta thấy rằng cho đến nay chưa có
học thuyết nào về tiến hóa xã hội có thể thay thế được học thuyết Mác về hình
thái kinh tế-xã hội. Học thuyết này đem đến cho chúng ta cơ sở phương pháp
luận để nhận thức quy luật phát triển xã hội và một niềm tin khoa học vào lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật của Mác đã nhìn nhận học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội là một quy luật phát triển của xã hội.
Từ đó ta đi tới khái niệm: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của
chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội xuất phát từ những nhận
thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân lịch sử tiến hóa
của xã hội theo những cách khác nhau.
Đơn cử như triết gia duy tâm Hêghen (1770-1831) phân kì lịch sử xã
hội lồi người thành ba thời kì chủ yếu: Thời kì Phương Đơng, thời kì cổ đại



6
và thời kì Grecmani. Và như nhà xã hội khơng tưởng của Pháp là Phuriê
(1772-1831) chia lịch sử xã hội thành bốn giai doạn.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch
sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để
nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành
nên học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là: “Hịn đá tảng” của
xã hội học Mácxít nói chung cho phép chúng ta hình dung q trình phát triển
của lịch sử là quá trình lịch sử tự nhiên. Lồi người đã trải qua năm hình thái
kinh tế-xã hội theo thứ tự hình thái kinhtế - xã hội cộng sản nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế-xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời và diệt vong. Chế
độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế nó. Đó là
khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, khủng hoảng do mâu thuẫn
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật của mỗi hình thài kinh
tế-xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế, xét cho cùng
do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất qua các hình thái kinh
tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao.
Quan hệ sản xuất, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
- là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó
tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
là một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội khác,
đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của của lịch sử.
Xuyên tạc, cắt xén nội dung học thuyết để phủ nhận học thuyết. Điển
hình của loại quan điểm này là quy lý luận của Mác thành quyết định luật

kinh tế với nghĩa coi kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định sự vận động và
phát triển của xã hội. Điều này đã bị chính Ăngghen bác bỏ - dùng chính lý


7
luận hình thái kinh tế - xã hội để bác bỏ sự ra đời của các nước xã hội chủ
nghĩa, cho rằng nó trái với q trình lịch sử - tự nhiên rằng cách mạng tháng
Mười “Đẻ non”... do chỗ dựa chưa có tất yếu kinh tế cứ để qua chế độ tư bản
chủ nghĩa rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa cộng sản theo đúng quy
luật” [1, tr.316]. Lúc còn sống Lênin đã bác bỏ quan điểm này, song đến nay
vẫn tồn tại, kể cả biến thể của nó là loại quan điểm cho rằng chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do hệ tư tưởng Mác-Lênin
sai trong đó có “lý luận hình thái kinh tế - xã hội”. Đối với nước ta những
năm gần đây cũng có một số ý kiến tương tự, cho rằng ta chưa có “tất yếu
kinh tế” để lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và để bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Bác bỏ gián tiếp: Loại quan điểm này thể hiện dưới dạng: Chứng
minh chủ nghĩa xã hội khơng có tương lai, tất yếu bị diệt vong. Chủ nghĩa tư
bản là nấc thang cao nhất của lịch sử xã hội, nó tồn tại vĩnh viễn.
Muốn thay thế học thuyết hình thái kinh tế xã hội bằng học thuyết khác.
Điển hình cho loại quan điểm này là tiếp cận theo nền văn minh. Xã hội phát
triển từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và văn minh
hậu công nghiệp. Sai lầm căn bản của cách tiếp cận này là coi trình độ phát
triển khoa học, cơng nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy nhất
bỏ qua vai trò của quan hệ kinh tế, giai cấp, chế độ chính trị.
Qua đó chúng ta rút ra: ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, tìm ra nguyên
nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi những hiện tượng xã hội đặt ra cơ
sở lý luận cho khoa học và xã hội học nâng nó lên thành khoa học thực sự.
Chống lại quan điểm duy tâm về lịch sử, coi xã hội là sự kết hợp có tính chất

máy móc của nhiều cá nhân và gia đình, coi sự vận động và phát triển của xã
hội là lý do ý chí của những nhà cầm quyền chi phối, coi kỹ thuật là cái chung
quyết định tính chất chế độ xã hội, là tiêu chuẩn khách quan phân biệt các
hình thái kinh tế - xã hội.


8
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vũ trang cho chúng ta phương
pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển xã hội qua các chế độ xã hội khác
nhau, hiểu rõ cơ cấu chung của hình thái kinh tế-xã hội và những quy luật phổ
biến tác động, chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Rõ ràng, học
thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là một thành tựu vĩ đại của khoa học
xã hội, là một bước tiến khổng lồ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Sự ra đời
của học thuyết này là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử
xã hội.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội đối lập với quan niệm trừu
tượng, duy tâm về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội nói chung, một xã
hội cấu thành chỉ bởi những con người tự nhiên sinh vật. Nó đánh đổ hẳn
quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính máy móc, có thể biến đổi tùy
ý theo đủ mọi kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hóa một cách ngẫu nhiên.
C.Mác đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội và phân tích xã hội
tư bản, vạch ra các quy luật vận động và phát triển của nó. Từ đó dự báo về sự
ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn là: “Cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội” [2, tr.714].
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng, xây dựng trên các
quan hệ xã hội đó. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra vai trò của các
yếu tố cơ bản và mối quan hệ các yếu tố đó bên trong của một kết cấu kinh tế

- xã hội. Các yếu tố cơ bản được Mác chỉ ra là lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Đối với lực lượng sản xuất, Mác quan niệm trong quá trình sản xuất vật
chất, Mác xác định có mối quan hệ song trùng là con người và tự nhiên là lực
lượng sản xuất, còn quan hệ sản xuất là con người với con người. Lực lượng
sản xuất đây là một yếu tố xét cho đến cùng nó quyết đinh đến các yếu tố
khác, đó chính là quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất


9
cịn quyết định sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội. Lực lượng sản
xuất cịn nói lên trính độ kỹ thuật của một hình thái kinh tế - xã hội, đồng thời
nói lên tiêu chuẩn khach quan để phân biệt sự khác nhau của của các thời đại
kinh tế, kỹ thuật của một giai đoạn lịch sử.
Khi tiếp thu tư tưởng của C.Mác, Lênin đã nhấn mạnh đặc điểm của
phương pháp duy vật trong nhận thức xã hội là ở chỗ phương pháp đòi hỏi
phải gắn toàn bộ sự phong phú của các quan hệ xã hội vào quan hệ sản xuát,
đồng thời cần xem xét những quan hệ sản xuất trong sự tương ứng của chúng
với trình độ của những lực lượng sản xuất để giải thích sự vận động của các
hình thái xã hội. Hai mặt quan hệ này thống nhất thành một phương thức sản
xuất và hợp thành nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Lênin
đã đánh giá rất cao việc Mác không dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội,
về quan hệ sản xuất nói chung mà đã đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế
xã hội cụ thể là xã hội tư bản với những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
phức tạp. Mác xem quan hệ sản xuất nó chính là cái sườn của mỗi hình thái
kinh tế - xã hội trong lịch sử, khi đi vào nghiên cứu phân tích một hình thái
kinh tế - xã hội. Mác khơng dừng lại ở cái sườn đó mà Mác xem trong sự
tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mác đã thực hiện một kiểu mẫu về sự phân tích khoa học theo phương
pháp duy vật, một hình thái xã hội và lại là một hình thái xã hội phức tạp nhất

- một kiểu mẫu đã được mọi người công nhận và không ai vượt nổi, trong lý
luận hình thái kinh tế - xã hội Mác coi bên cạnh các quan hệ sản xuất là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Mác
còn vạch ra mỗi quan hệ cơ bản để xác định diên mạo của một hình thái kinh
tế - xã hội. Đó là mỗi quan hệ biện chứng giữa cơ sơ hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
Về kiến trúc thượng tầng, nó chính là một bộ mặt tinh thần của đời
sống xã hội và nó có tác đơng mạnh mẽ tới cả hai yếu tố trên. Mác và
Ăngghen luôn nhấn mạnh đến kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý và


10
xem đây là hai bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Về thực
chất chính là nói đến vai trò của nhà nước.
Như vậy nếu vào năm 1859 Mác đã trình bày hết sức sáng tỏ cấu trúc
của hình thái kinh tế - xã hơi và cơ chế vận động của nó trong Lời tựa tác
phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị thì về sau, vào năm 1888,
Ăngghen đã tóm tắt lại một lần nữa quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội
của Mác và nhấn mạnh rằng cái cơ sở để cắt nghĩa được lịch sử là cả phương
thức sản xuất lẫn cơ cấu xã hội. Ăngghen viết “trong mối thời đại lịch sử,
phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội
do phương thức đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của
thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có
xuất phát từ đó, nớ cắt nghĩa được lịch sử đó” [3, tr.271].
Các yếu tố cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội có quan hệ biện
chứng với nhau và mối quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành hai quy luật cơ
bản vận động ở tất cả các hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản
xuất phù hợ với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và quy
luật cơ sở hạ tầng quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng. Đây là hai
quy luật chung nó tạo động lực bên trong thúc đẩy quá trình phát triển sản

xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là động lực xét đến cùng nó đưa
đến sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
1.2. Quan niệm về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên
Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi
giai đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Các hình
thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển do tác động của các quy luật khách
quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển. C Mác viết: “Tơi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” [4,
tr.102], tức là muốn nói đến quy luật khách quan của lịch sử, quy luật đó được
coi là sự phát triển của quá trình sản xuất vật chất, xét đến cùng là do mâu
thuẫn bên trong giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, do tính tất yếu


11
kinh tế quy định. Các quy luật xã hội chính là hiện thân của các quy luật tự
nhiên được con người sử dụng nó để kiến tạo nên xã hội lồi người.
Tiến trình lịch sử là q trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự
phát triển đứt đoạn và liên tục. Trong q trình sản xuất, con người có những
quan hệ với nhau, đó chính là quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó
do trình độ của lực lượng sản xuất quy định, đến lượt nó quan hệ sản xuất lại
quy định các quan hệ xã hội khác như: chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó thì những thay đổi về chất
mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ sản xuất có, dẫn đến địi hỏi khách quan
là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc
cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi thì tồn bộ các quan hệ sản xuất
khác cũng thay đổi. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ xã
hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã
hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào
những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của

những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có được những cơ sơ vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên” [8, tr.217].
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những
bậc thang lịch sử khác nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định
trong từng phương thức sản xuất nhất định. Thực tiễn đã cho thấy, loài người
đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao.
Đó chính là q trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục
của lịch sử. Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách
quan và chủ quan riêng thì một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể “bỏ
qua” những chế độ xã hội nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển ở phạm
vi toàn nhân loại vẫn là q trình lịch sử - tự nhiên, cịn đối với từng quốc gia,
dân tộc cụ thể bỏ qua những “nấc thang” nhất định. V.I.Lênin viết: “ …tính
quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ


12
mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm
hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó” [9, tr.418].
Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã
chứng minh tính đúng đắn, khoa học của hình thái kinh tế - xã hội và lý luận
về khả năng “bỏ qua” một chế độ xã hội nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chúng ta có thể
rút ra một số điểm có ý nghĩa phương pháp luận sau:
Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội,
những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng xã
hội đã biến đổi xã hội học thành một khoa học thực sự, khắc phục mọi quan
điểm duy tâm về lịch sử. Từ đó có một cách nhìn đúng đắn, thấy được vai trò
thực sự của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, mối quan hệ biện chứng
giữa chúng và các mối quan hệ khác trong quá trình phát triển xã hội.

Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến
đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta
phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội và chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô
và vi mô. Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của
Đảng Cộng Sản. Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên
tục của các hình thái kinh tế - xã hội, của các giá trị văn hoá, khoa học , kĩ
thuật và của chính bản thân thế hệ con người. Từ đó giúp chúng ta khơng
nóng vội chủ quan, khơng đốt cháy giai đoạn, biết kế thừa những thành tựu
chung của văn minh nhân loại.
II. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tính tất yếu khách quan quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
Như đã biết, xã hội có áp bức ắt hẳn có đấu tranh và nhân dân ta đã lấy
đấu tranh để chống lại áp bức bóc lột của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Là
một dân tộc yêu chuộng hịa bình, từ ngàn đời khát khao về một xã hội công
bằng tốt đẹp thể hiện qua những cuộc đấu tranh chống ngọai xâm và ước mơ


13
giải phóng dân tộc, dân ta phải đấu tranh với kẻ thù đàn áp. Đó là tính tất yếu
của xã hội. Nhưng vì sao chúng ta lựa chọn con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa, bỏ qua tư bnar chủ nghĩa? Có thể thấy những nhà yêu nước như Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã từng lựa chọn con đường cách mạng tư
sản để đấu tranh nhưng không thành cơng. Điều đó cho thấy con đường đấu
tranh bằng cách mạng Tư sản không phù hợp với thực trạng nước ta bấy giờ.
Đến với con đường đấu tranh của Hồ Chí Minh, Người đã chọn hình
thức đấu tranh vơ sản, do giai câp công nhân, nông dân lãnh đạo, và đã giành
được thắng lợi thể hiện ở Cách mạng Tháng 8 thành công, miền Bắc đi lên
xây dựng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng này chứng minh sự lựa chọn của

Đảng và nhân dân ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế Việt Nam.
Có thể trả lời câu hỏi: Vì sao Việt Nam đi lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua
tư bnar chủ nghĩa? qua các lý so sau: Phù hợp với chí ý nguyện vọng của
nhân dân; Phù hợp với hiện thực Việt Nam; Phù hợp với cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đây chính là cơ sở lý luận mang tính tất yếu của thời kỳ
qúa độ lâu dài ở Việt Nam.
Đây chính là “quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi
lên xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay, hay nói cách khác đấy chính là
sự phù hợp với lý luận cách mạng ko ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa, vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Đế
Quốc Mỹ ở miền Nam, đồng thời đấy cũng là sự phù hợp với xu thế của thời
đại ngày nay: Chủ nghĩa tư bảnvới những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sâu
sắc chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi tòan
thế giới. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của lồi người. Đây là xu
hướng khách quan thích hợp với lịch sử” [5, tr.118].
Đây là sự phù hợp với lịch sử của Việt Nam thể hiện ở sự phù hợp Thời
kỳ quá độ ở nước ta với lý luận chung về tính chất tất yếu của thời kỳ quá độ,
cụ thể là: Nhà nứớc ta đã thực hiện rõ điều này trên quan điểm: Bỏ qua chủ


14
nghĩa tư bản tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng hấp thu kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời tư bnar chủ nghĩa.
Đất nước ta còn yếu kém, nhìều tàn dư của chế độ xã hội cũ và chiến
tranh để lại. Công cuộc đi lên xã hội chủ nghĩa là một cơng việc khó khăn phức
tạp do đó cần phải có thời gian để cải tạo xã hội, tạo điều kiện về vật chất và tinh
thần cho xã hội chủ nghĩa.

Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nứoc ta đã có đủ
điều kiện quá độ lên tư bản chủ nghĩa, đó là những điều kịên: Nhân dân đoàn
kết tin tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa; Chính quyền thuộc về giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; Có sự
giúp đỡ của các nước tiên tiến, các nước xã hội chủ nghĩa anh em và phong
trào cách mạng tiến bộ của thế giới. Tóm lại, thời kỳ qúa độ lên xã hội chủ
nghĩa bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa là tính tất yếu, là sự lựa chọn sáng suốt
của Đảng và nhân dân ta.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là cơng
cuộc hồn tồn mới mẻ và vơ cùng khó khăn, phức tạp, diễn ra lâu dài quanh
co. Triển vọng thành công của tiến trình này hiện phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực, phẩm chất và bản lĩnh của chính chủ thể tại những địa bàn mà nó
đang được tiếp tục triển khai, đẩy mạnh. Với ý nghĩa đó, đối với nước ta,
những vấn đề cần giải quyết hiện nay để thúc đẩy quá trình tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đó là:
Xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về cả chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đồn kết nhất trí cao, có phương thức lãnh đạo khoa học,
xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; có đủ
trình độ và năng lực đề ra chiến lược và các chính sách đúng đắn, dẫn dắt toàn
dân tộc vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do
dân và vì dân. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là khó khăn,


15
phức tạp. Do vậy, địi hỏi phải có một nhà nước khơng những có quyết tâm,
trung thành với con đường đã lựa chọn, mà cịn phải có kiến thức đầy đủ để
xác định những bước quá độ, những mục tiêu, bước đi biện pháp thích hợp để
thực hiện trong mỗi bước quá độ và kịp thời chuyển từ bước quá độ này sang

bước quá độ khác. Nếu không như thế thì những sai lầm tả khuynh hoặc hữu
khuynh sẽ khơng tránh khỏi, gây tác hại đối với tiến trình cách mạng.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế. Trên cơ sở những tiền đề chính trị đã có, chúng ta cần huy động mọi
khả năng của các thành phần kinh tế, nâng cao ý chí tự lực tự cường, tận dụng
khai thác tối đa mọi lợi thế và nguồn lực của đất nước, mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có
lợi; tiếp thu, sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ mới,
nguồn vốn và kinh nghiệp quản lý tiên tiến của nước ngoài.
Đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cả quy mô bề
rộng lẫn chiều sâu, tạo đường băng để đất nước “cất cánh” một cách hiện thực
hướng tới năm 2045 trở thành một nước công nghiệp, chứ không dừng lại ở
những phương hướng chung. Nghĩa là, phải xây dựng một chương trình khả thi
cho tất cả cơng nghiệp, nơng nghiệp và các ngành kinh tế khác, ưu tiên cho
nông nghiệp, cho các vùng kinh tế - xã hội trọng điểm, cho vùng núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng căn cứ cách mạng…
2.2. Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin về hình thái kinh tế xã hội vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ ở nước ta
Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nơng muốn thốt ra khỏi nghèo nàn
lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành cơng nghiệp hố - hiện đại hố
đất nước.
Mục tiêu của cơng nghiệp hố - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định là: Xây dựng
nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ


16
cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an

ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và nước ta
đã chuyển sang một thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đây là
những nhận định rất quan trọng đối với những bước đi tiếp theo trong sự
nghiệp đổi mới.
Công nghiệp hố là một q trình nhằm đưa nước ta từ một nền công
nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại.
Hiện đại hoá là một mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại , thể hiện xu
hướng lịch sử tiến bộ.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn, đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể
đến cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng trung
của Việt Nam trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ xã hội. Vì vậy cần phải nhận
thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật sản xuất
phù hợp với tính chất trình độ lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất nhằm
cải tảo cac thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất. Phát huy tính
chủ động sáng tạo của các chủ thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
nhiều thành phần kinh tế quốc doanh phải phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả
để thực sự có tác dụng chủ đạo với các thành phần kinh tế khác.
Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
chúng ta đã xác định cong nghiệp hoá “là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội “song vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận thức về
công nghiệp hoá.
Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã
hội với những khó khăn găy gắt lạm phát. Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu,
giữa lý luận và thực tiễn có khoảng cách quá xa tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội
theo mơ hình tập trung quan liêu , bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực
tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng trì chệ trong công việc: ỷ lại



17
lười nhác, phụ thuộc vào Nhà nước. Không năng động sáng tạo bằng công tác
được giao, không cần quan tâm đến kết quả đạt được.
Trong sản xuất sản phẩm làm ra khơng đủ chất lượng lạm phát càng
tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém ,
nghèo khó.
Trước đây chúng ta do khơng thấy được quy luật lực lượng sản xuất
phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại
quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng
quy luật chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên
cơ chế thị trường làm cho năng xuất lao động tăng , lực lượng sản xuất phát
triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải tạo ra yếu tố
tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý
thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản
lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước
dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự
vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng . Nó cũng phải dựa trên
sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận.
Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kì q độ chúng ta đã tuyệt
đối hố nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất .
Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả cịn kinh
tế ngồi quốc doanh lại bị kìm hãm khơng ngóc đầu lên được .Nền kinh tuy
đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó khơng có phát
triển vì dựa vào bao cấp , bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngồi .Con
người khơng được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì
trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội.
Đến khi áp dụng chính sách khốn đất cho nhân dân tự trồng trọt , phá

bỏ hợp tác thì nên nhà nước đã có những bước chuyển mình rất rõ rệt.


18
Để thực hiện mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giầu nước mạnh xã
hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đơi
với việc củng cố, hồn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải phát
triển lực lượng sản xuất, vì khơng có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng
xuất cao thì khơng thể nói đến cơng nghiệp hố xã hội. Một lần nữa ta khẳng
định tính tất yếu của cơng cuộc cơng nghiệp hố - hiện đại hố ở Việt Nam.
cơng nghiệp hố - hiện đại hố đưa đất nước vượt qua một chặn đường dài đi
lên cơng nghiệp xã hội tính được tình trạng chung đó là sự tụt hậu ngài càng
xa của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. công nghiệp hoá hiện đại hoá là để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, công
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước thì có tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh
tế và sự lạc hậu về tiến bộ xã hội .
Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới. Cơng nghiệp hố hiện đại hố
ngài nay khơng thể hiểu như trước kia. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố ngài
nay khơng phải đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ nghành cơng nghiệp mà
cịn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về
kinh tế và cơng nghiệp hiện đại hố tất cả các nghành kinh tế quốc dân. Từ đó
tạo ra được sự cân đối hài hoà giữa các nghành trong tổng thể nền kinh tế
quốc doanh .
Cơng nghiệp hố - hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn. Nước ta
hiện nay là một Nhà nước so với 80% dân cư đang sinh sống bằng sản xuất
nông nghiệp . Đây là một địa bàn tập trung đại bộ phận người nghèo.Vì vậy,
phát triển nơng nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn đã đang và sẽ là mối quan
tâm hàng đầu của chúng ta . Song nơng nghiệp khơng tự mình thâi đổi , đổi
mới cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ , không có khả năng tăng trưởng nhanh
để tạo thêm nhiều cơng ăn việc làm cho nơng dân mà phải có tác động mạnh
mẽ của cơng nghiệp, dịch vụ…. chỉ có như vậy sẽ xố bỏ được trạng thái trì

trệ của nền kinh tế nơng nghiệp sản xuất nhỏ xố đói giảm nghèo nâng cao
mức thu nhập bình quân .


19
Phát triển kinh tế nhiều thành phần. Cơng nghiệp hố - hiện đại hố địi
hỏi sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Sau những năm mở cửa , nền
kinh tế cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi
thành phần kinh tế phát triển không như trước kia ngày nay các thành phần
kinh tế từ quốc doanh đến tư nhân phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong
nền kinh tế thị trường chúng bổ xung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một
sự phát triển có hiệu quả đẩy đất nước ta lên một nấc cao hơn của cơng nghiệp
hố - hiện đại hố xây dựng đất nước.
Tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa
học . Trong điều kiện hiện nay , học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị . Nó đưa
lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời
sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn. Học thuyết đó được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong
điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự ngiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Tổng kết thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa gần 35 năm qua, Đại hội Đảng XIII nhận định: “Nhận thức về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hồn thiện phù hợp vối yêu
cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố
thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị
trường khu vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ;
môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và
phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Doanh nghiệp nhà nước từng bước
được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng

định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi
mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta” [7, tr.59-60].
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn những bất cập. Một số


20
quy định pháp luật, cơ chế, chính sách cịn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn
định, nhất qn; cịn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá
trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh
tế. Cải cách hành chính cịn chậm.
Về những hạn chế trọng việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng XIII đã chỉ rõ: “Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực
xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số
lĩnh vực cịn thấp. Mơi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thơng thống,
minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng
chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết
vùng cịn lỏng lẻo. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa,
dịch vụ cơng cịn lúng túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị
trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành cịn nhiều vướng
mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển chưa đồng bộ” [7, tr.80-81].
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ
quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, đặc biệt là nguyên nhân nhận
thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ, ảnh
hưởng đến quá trình thống nhất nhận thức chung và định hướng hành động

trong vấn đề tiếp tục hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Để góp phần thống nhất nhận thức và định hướng hành động về tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ở nước ta trước
thềm Đại hội XIII của Đảng, cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo về tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên các
vấn đề sau.


21
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động
lực để phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội.
Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
q trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế
thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước
ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững
độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Hoàn thiện thể chế kinh tế đi đơi với hồn thiện thể chế chính trị mà
trọng tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ
máy và cán bộ. Có bước đi phù hợp, vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút
kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai
trị, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp
với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.


22


KẾT LUẬN
Thực tế đã khẳng định rằng, cho đến nay học thuyết của Mác về hình
thái kinh tế - xã hội vẫn là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để
nghiên cứu phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề trong xã hội . Bởi vì học
thuyết đó địi hỏi phải phân tích sự phát triển của các xã hội như một quá trình
lịch tổng hợp các nhân tố và quy luật khách quan, nó là cơ sở phương pháp
luận của sự phân tích khoa học về xã hội, là hòn đá tảng của khoa học xã hội.
Là nguyên lý để nước ta áp dụng vào phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế không những là đòi hỏi cho mỗi Đảng mỗi Nhà nước
mà còn là nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội. Nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam “Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho hành động” [6, tr.24] đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, đi từ khó khăn ban đầu đến vẻ vang độc lập
như ngày hôm nay. Dưới ánh sáng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta với tư cách là
thành viên của giai cấp vô sản trên thế giới đã đồng tâm, đồng sức cùng với
nhân dân cả nước, nhân dân tiến bộ trên thế giới mãi mãi dương cao ngọn cờ
cách mạng phấn đấu khơng mệt mỏi vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh.


23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 40, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
3. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
4. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội, 1976.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 1, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
8. V.I.Lênin, toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
9. V.I.Lênin, toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.



×