Cảm nghĩ của em về nhân vật Lão Hạc và ông giáo trong tác phẩm Lão
Hạc của nhà văn Nam Cao
Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê
thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống
cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập
trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta
hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách
đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện.
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của
đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu
ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người.
Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực
hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm
đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt.
Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo
“ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi
lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.
Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười
như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt
nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh
khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải
bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão
tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại
với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm
mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão
suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi
già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người
lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa,
trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này.
Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của
một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên
tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để
nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi
chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha
thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được
trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói
cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi
từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn
nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm
và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời
trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến
mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là
giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực
sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão
Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện
trong xã hội cũ.
Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh
thần của Lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về
con người Lão Hạc. Nhân vật Lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi.
Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả
một người thân thiết, gần gũi với Lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự
thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh
Tư cho biết Lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính
ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại
thêm đáng buồn”. Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa
chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con
người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như Lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha
hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp
đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát.
Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của Lão Hạc, ông
giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo
một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông
giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về Lão Hạc và người
nông dân “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu
họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi toàn những cớ để cho
ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta
thương”.
Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. ở đời cần phải
có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải
nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của
tình thương.
Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng
cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều
đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào
cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ.
Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu
chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang
sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của
mình.
Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa
bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình
đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của Lão Hạc, đâu là giọt nước mắt
của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm
chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng
sọc, cười như mếu
Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển
dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ
cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc
Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở
thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác
phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu
lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ
mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng
hơn khi tìm hiểu tác phẩm.