Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

nghiên cứu thử nghiệm nuôi thương phẩm lươn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.46 KB, 27 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA: NÔNG NGHIỆP
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Chuyên đề:
NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM NUÔI THƯƠNG PHẨM LƯƠN
(Monopterus albus Zuiew,1793)
Người hướng dẫn: TS BÙI QUANG TỀ
Sinh viên thực hiện: Phạm Văn Quỳnh
Lớp: ntts-k10.
Bắc Ninh tháng 10 năm 2013
1
2
LỜI CẢM ƠN!
Lời đầu tiên, tôi xin được trân thành cảm ơn quý thầy Ts.Bùi Quang Tề, địa
chỉ khu phố Chùa Dận- phường Đình Bảng- thị xã Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh,cùng
toàn thể gia đình quý thầy cô đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện
tốt nhất về học tập,sinh hoạt để tôi hoàn thành tốt nhất bài báo cáo này.
Tôi xin cảm ơn Công ty TNHN sản xuất và dịch vụ Quang Dương đã tạo cơ
sở vật chất, vật liệu để tôi làm thí nghiệm.
Tôi xin cảm ơn quý giảng viên Khoa Nông nghiệp Trường đại học Hải
phòng đã tận tình chỉ dẫn tôi để tôi thực hiện tốt chuyên đề này.
Nhân đây tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến các bạn sinh viên trường Đại học Hải
Phòng, các bạn sinh viên trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã cùng tôi làm việc
và giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập này.
Cuối cùng tôi xin gửi tới những người than trong gia đình, bạn bè đã giúp
đỡ ,động viên trong suất thời gian học tập.
Tôi xin cảm ơn với cả tấm chân tình!
Bắc Ninh tháng 10 năm 2013
Người thực hiện chuyên đề.
PHẠM VĂN QUỲNH


2
3
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Lươn là là đối tượng thủy sản quý, có giá trị kinh tế cao và là loại thực phẩm
có giá trị dinh dưỡng cao, còn là loại được dùng như một loại dực liệu chữa một số
bệnh của con người.
Lươn chế biến được nhiều món ăn rất phong phú và da dạng theo tùng địa
phương
Nhiều nước trên thế giới đã và đang là thị trường tiêu thụ luơn khá lớn làm
thực phẩm như Trung Quốc, Hồng Kong, Mỹ, Nhật.
ở nước ta hiện nay nhu cầu về lươn thực phẩm cũng rất lớn. Tuy nhiên
nguồn lươn tựnhiên đã giảm nhanh chóng và ngày càng khan hiếm do khai thác
bừa bãi, không có sự bảo vệ hay phục hồi. Việc sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ
thực vật không kiểm soát đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống tự
nhiên của lươn, đến cơ sở thức ăn tự nhiên (giun, côn trùng…) hoặc đã trực tiếp
hủy hoại chúng.
Nuôi lươn thương phẩm đang có xu hướng phát triển mạnh ở nhiều địa
phương. Tuy nhiên nguồn lươn giống vẫn còn phụ thuộc vào tự nhiên, lươn giống
nhân tạo chưa nhiều và chưa đáp ứng đủ nhu cầu nuôi hiện nay.
Trong những năm 1994-1997, ở miền Bắc đã có phong trào nuôi lươn trong
bể nhưng không duy trì được lâu dài. Hiện nay nuôi lươn thương phẩm lại đang
phát triển ở nhiều địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nuôi lươn thịt
3
4
trong bể ximăng, bể đất, trong ao, mương, ruộng. Kinh nghiệm nuôi ở các địa
phương cho thấy: có thể nuôi trong bểxi măng hoặc bể đất, chuồng lợn cũ… diện
tích 20-50m
2
, mực nước sâu 0,2-0,3m. Trong bể nên để giá thể bằng dây nylon cho
lươn trú ẩn thay cho ụ đất. Mật độthả50-60 con/m

2
, cỡ lươn 70-150 con/kg. Thức
ăn cho lươn là cá tạp, ruột ốc bươu vàng. Năng suất đạt từ

10-15kg/m
2
bể với tỷ lệ
sống từ 60-80%. Tỷ lệ sống thấp do nguồn giống tự nhiên chất lượng kém vì đánh
bắt bằng các hình thức nguy hại như rà điện, dùng hóa chất, thuốc nhử độc…
Lươn là đối tượng thủy sản dễ nuôi, hình thức nuôi đa dạng, có thể tận dụng
những cơ sở vật chất đơn giản ở nông hộ để phát triển nuôi. Nuôi lươn ở quy mô
hộ gia đình sẽ tận dụng được lao động nhàn rỗi, thức ăn dư thừa của gia đình và
thích hợp cho những gia đình có nguồn vốn eo hẹp. Vì thế lươn là đối tượng để xóa
đói giảm nghèo, giúp cho nhiều bà con vươn lên làm giầu từ đối tượng này,góp
phần đưa nghề nuôi đối tượng này phát triển, đo đó tôi chọn chuyên đề “NGHIÊN
CỨU THỬ NGHIỆM NUÔI THƯƠNG PHẨM LƯƠN.(Monopterus albus
Zuiew,1793)
2. Mục đích của đề tài
Đánh gia ảnh hưởng của môi trường đến quá trình nuôi lươn.
Đánh giá tỷ lệ sống, tốc độ sinh trưởng của lươn nuôi thương phẩm tại Bắc
Ninh nhằm thúc đẩy nghề nuôi lươn phát triển đem lại nguồn thu nhập nhằm xóa
đói, giảm nghèo.
3. Nội dung.
4
5
PHẦN 2. TỔNG QUAN
1- ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA LƯƠN ĐỒNG
1.1. Vị trí phân loại
Theo W. Rainboth 1996, vị trí phân loại của lươn đồng như sau:
Bộ mang liền Synbranchiformes

Họ mang liền Synbranchidae
Giống Monopterus
Loài Monopterus albus, Zuiew 1793
5
6
Hình 1.1: Lươn đồng (Monopterus albusZuiew 1793)
Năm 1793, lần đầu tiên Zuiew đã mô tả và đặt tên khoa học cho loài lươn là
Monopterus albus, về sau các tác giả khác còn định danh lươn với tên đồng danh là
Fluta alba. Cho đến nay vẫn chỉ thấy có một loài lươn duy nhất trong tất cả các
mẫu lươn được mô tả trên khắp các lục địa. Do có 2 tên khoa học đồng danh gọi
chung một loài và có nhiều biến dị địa lý trong loài nên một số người vẫn cho rằng
có 2 loài lươn khác nhau. Tuy nhiên vẫn có thể tồn tại 2 hoặc nhiều loài phụ do rất
khác nhau về kích cỡ và cùng tồn tại trong một vùng địa lý. Ở nước ta hiện nay cả
hai miền Bắc và Nam đều tồn tại một loài lươn, nhưng do có những biến dị địa lý
trong loài mà nhiều người vẫn nghĩnhầm là có hai loài. Nhưng theo Nguyễn Mộng
Hùng (1998), có thể phân thành hai loài phụ do rất khác nhau về kích cỡ và cùng
tồn tại ở hai vùng địa lý khác nhau.
1.2. Đặc điểm hình thái, tập tính sống
6
7
Lươn là một loại cá hình rắn, thân hình dài dạng ống, da trơn, xương sọ
rắn… nên dễ chui rúc trong bùn. Lươn là một loài cá sống ở nhiều vùng nước khác
nhau ở sông, hồ, ao, đầm, ruộng, cống, mương rãnh…, ưa sống ở đáy những vùng
đất sét, đất pha bùn, nơi nước tĩnh, chịu đựng được các điều kiện khắc nghiệt của
môi trường sống, thậm chí cả những nơi nước bùn, thối, bẩn, hầu như thiếu oxy,
chúng vẫn sống được (Phạm văn Trang 1998 và 2004). Lươn là loài có tính nhát và
rất nhạy cảm với những mùi lạ. Chúng ưa nơi chất đáy là bùn, thích sống trong
hang do lươn tự đào. Lươn dùng đầu để đào hang rất nhanh, tạo thành nơi trú hình
tròn, chiều sâu của hang từ 2-3 lần chiều dài thân lươn. Hang của lươn chia làm
nhiều nhánh và có ít nhất 2 cửa, có 1-3 cửa ngập trong nước là nơi lươn đi lại bắt

mồi hoặc chạy trốn, một cửa hang cao hơn mặt nước để lấy oxy cho lươn hô hấp.
Theo các tác giả nghiên cứu như Trương thủ Khoa (1993), Mai Đình Yên
(1983), W. Rainboth (1996), Chavalit Vidthayanon (2008), lươn thuộc bộ cá mang
liền, khe mang nằm ở mặt dưới của đầu, hai khe mang liền lại thành một kẽ ngang.
Mang thoái hoá, hô hấp chủ yếu nhờ da, xoang bụng, ruột. Ở lươn không có bóng
hơi. Các vây thoái hoá để thích nghi với điều kiện sống chui rúc trong bùn (Lê
Hoàng Yến, 2006). Lươn có thân tròn dài và dẹp ở phía đuôi, đầu tròn tương đối
lớn và cao hơn thân. Mõm ngắn, miệng bé, rạch miệng hơi cong. Vây ngực và vây
bụng thoái hoá. Các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi có tia vây không rõ ràng
và 3 vây này gần như dính liền nhau. Mặt trên thân có màu vàng nhạt hoặc nâu
sẫm tùy theo vùng sinh sống của lươn. Phía lưng thường đậm hơn, bụng trắng nhạt
hoặc có những chấm đen.
Lươn thích tối, tránh ánh sáng, quen sống dưới đáy nên mắt thoái hóa và rất
nhỏ, thường ngủ vào ban ngày và đêm mới hoạt động tìm mồi. Lươn có xúc giác
và khứu giác khá phát triển giúp cho việc phát hiện con mồi và kẻ thù từ khoảng
cách xa. Lươn sống phổ biến ở nhiều loại hình thủy vực nước tĩnh hoặc nước chảy
7
8
như ao, sông, hồ, ruộng, kênh mương. Chúng thường ưa sống tầng bùn đáy nhiều
hữu cơ và sinh vật đáy hoặc ở trong hang. Đôi khi gặp lươn chui rúc trong các
đống cỏ, rơm rạ trong ruộng hoặc ao, kênh mương. Mùa khô chúng có thể nằm vùi
dưới hang sâu trong bùn tới 1,5m. Cũng thường gặp lươn đào hang ven bờ ao,
mương, hang vừa là nơi trú ẩn vừa làm nơi đẻ trứng. Lươn có cơ quan hô hấp phụ
nằm trong xoang miệng với các vi huyết quản nhỏ, dày đặc và cả ở da nên có thể
sống trên cạn với thời gian dài và chỉ cần giữ cho da luôn được ẩm.
Lươn là động vật có xương sống biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể biến đổi theo
nhiệt độ môi trường. Lươn ưa nhiệt độ cao, nhiệt độ thích hợp từ 25-28
0
C, lươn có
thể sống ở nhiệt độ dưới 3

0
C đến 32
0
C, nhiệt độ quá cao (trên 32
0
C) hay quá thấp
(5
0
C) lươn sống không bình thường, giảm ăn, chui rúc trong bùn…. Nước có pH
từ7 đến 8 thích hợp cho lươn nhưng lươn có thể sống ở pH dưới 6. Chúng có thể
sống ở điều kiện hàm lượng oxy thấp dưới 2 mg/l, nhờ có các cơ quan hô hấp ở
xoang hầu, tuyến da và mang. Cơ quan hô hấp chính là xoang hầu và tuyến da.
Lươn có thểhô hấp trực tiếp khí trời qua hai lỗ mũi khi môi trường nước thiếu
dưỡng khí. Nếu trong ao nuôi nay đủ khí oxy hòa tan thì xoang hàm miệng của
lươn cũng có thể hấp thu được oxy trong nước. Khi nước dơ bẩn, thiếu oxy, lươn
thường ngôi đầu khỏi mặt nước để thở bằng khí trời. Tuy nhiên nếu tình trạng thiếu
oxy kéo dài thì lươn phát triển chậm, dễ nhiễm bệnh. Lươn có thể sống trên cạn
một khoảng thời gian dài nếu da lươn được giữ ẩm.
Lươn có khả năng chịu đựng khô hạn bằng cách chui rúc vào đất ẩm và sống
ở đó hết mùa khô. Lươn sống ở đáy ao, chui ở đáy bùn và làm hang ở bờ. Hang của
lươn khá sâu, đôi khi gấp tới 3 lần chiều dài thân của lươn và có nhiều cửa hang để
dễ dàng di chuyển, trú ẩn hoặc trốn tránh kẻ thù, trong đó có một cửa để thu nhận
khí trời giúp cho lươn hô hấp khi ở trong hang sâu. Ban ngày lươn thường ở trong
8
9
hang, ban đêm lươn mới ra kiếm mồi. Lươn ăn mạnh nhất vào tháng 5 đến tháng 7
và béo nhất vào mùa thu và mùa xuân.
1.3. Tính ăn và bắt mồi
Theo các tài liệu, lươn là loài ăn tạp thiên về động vật, rất ham ăn và hung
dữ. Tuy nhiên chúng cũng dễ chuyển đổi khi loại thức ăn thích hợp bị khan hiếm.

Trương Thủ Khoa cho rằng lươn ăn động vật. Theo Rainboth, lươn là loài địch hại,
chúng thích ăn giáp xác, nhuyễn thể. Theo Ngô Trọng Lư (2007), thì lươn là loài
ăn tạp nhưng thích ăn động vật có mùi tanh. Khi còn nhỏ, lươn ăn sinh vật phù du,
giai đoạn tiếp ăn côn trùng, trùn chỉ, bọ gậy, ấu trùng chuồn chuồn, ăn cả mùn bã,
mảnh vụn hữu cơ. Lươn lớn ăn giun, ốc, tôm, tép, cá con, nòng nọc và những động
vật trên cạn gần mép nước… Ngoài ra lươn còn có khả năng chịu nhịn đói từ1-2
tuần và trọng lượng có thể bị giảm đi một nửa.
Những người khai thác lươn ở nước ta nhận thấy lươn rất thích những thức
ăn động vật và có mùi tanh như giun (trùn), giáp xác, nhuyễn thể, nòng nọc, cua,
ốc, tôm tép và cá con, nên thường sử dụng những loại mồi đó (để sống, đập nát
hoặc có thể nướng chín cho có mùi thơm) đặt trong ống trúm để nhử lươn chui
vào. Lươn cũng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn phụ khác như phụ phẩm lò mổ
và xí nghiệp chế biến thủy sản, đồ phế thải của nhà bếp, thịt trai, ốc, nhộng tằm,
tiết gia súc gia cầm. Ngoài ra chúng còn ăn thức ăn
chế biến, thức ăn viên công nghiệp dành cho gia súc, gia cầm và cá. Khi khan hiếm
thức ăn nguồn gốc động vật, chúng ăn cả chất bột như lúa, gạo, cám nấu chín, rau
bèo và củ, quả.
Khi thiếu thức ăn lươn có thể ăn thịt lẫn nhau. Lươn tìm thức ăn nhờ vào
khứu giác là chủyếu. Khứu giác của lươn phát triển hơn thị giác (mắt) nên chúng
9
10
nhận biết mồi rất nhạy và nhanh chóng tìm đến đúng chỗ có mùi đã hấp dẫn chúng.
Vào mùa sinh sản, chúng hầu như không ăn. Nhiệt độ thích hợp cho chúng từ23-
28
0
C. Khi nhiệt độxuống thấp dưới 10
0
C thì lươn ngừng kiếm ăn và đào hang sâu
để qua đông. Lươn ăn mạnh nhất vào tháng 5 đến tháng 7. Lươn béo mập nhất vào
mùa thu và mùa xuân trước khi lươn đẻ.

Theo Phạm văn Trang và Phạm Báu (2004), lươn có hai hình thức bắt mồi
như sau:
- Bắt mồi thụ động: lươn không chủ động đi tìm mồi mà nhô đầu lên miệng
hang, chờ mồi bơi đến miệng rồi đớp lấy.
- Bắt mồi chủ động: lươn chủ động đi tìm mồi. Lươn rúc vào bùn tìm bắt
động vật nhỏ như: giun nước, ấu trùng côn trùng, tôm, tép, cá con, ốc, hến….
Lươn kiếm mồi bất kỳthời gian nào trong ngày, nhưng thường bắt mồi nhiều
vào ban đêm. Những người khai thác lươn dựa vào tập tính này và tập trung đánh
bắt lươn vào ban đêm là chủ yếu.
1.4. Đặc tính sinh trưởng
Lươn đồng có kích thước trung bình, cỡ lớn nhất được ghi nhận có
chiều dài 70-75cm, có khi tới 100cm. Lươn là loài có tốc độ tăng trưởng
chậm. Lươn mới nở có chiều dài 1,5-2cm với bọc noãn hoàng lớn, đó là
nguồn thức ăn nuôi dưỡng chúng trong những ngày đầu. Sau một tuần, noãn hoàng
của lươn con tiêu biến hết và cơ thể lươn được hình thành cơ quan tiêu hóa, vây
ngực tiêu biến dần, đến cuối cùng chỉ là một điểm chấm. Lúc này chiều dài lươn
10
11
khoảng 3cm, lươn bơi mạnh hơn, thân dài và đã có hình dáng giống nhưlươn
trưởng thành. Lươn con bắt đầu rời khỏi hang ra ngoài và tự đi kiếm ăn được.
Trong 3 tháng đầu tiên lươn chỉ đạt chiều dài 10-12cm, nặng trung bình 20-
25gam/con. Tăng trọng của lươn tăng dần các tháng về sau. Trọng lượng trung
bình của lươn 12 tháng tuổi từ 100-150 gam/con. Lươn 2 tuổi có trọng lượng từ
200-300 gam/con. Lươn ở miền Bắc lớn tối đa vào khoảng 500g.
Lươn phân bố ở miền Nam có kích cỡ lớn hơn, trọng lượng tối đa có thể đạt
trên 1kg. Khi đủ thức ăn thì lươn béo mập, ngắn con, khi thiếu thức ăn, môi
trường sống không tốt, lươn chỉ dài ra và lớn chậm. Trung bình chiều dài của lươn
trên một năm tuổi (một tuổi cộng hay1
+
) là 24-25 cm, hai tuổi cộng (2

+
) là 38-40
cm và ba tuổi cộng (3
+
) có thể đạt tới 55 cm. Ở các tỉnh phía Bắc hiện nay hiếm
khi bắt được lươn có trọng lượng trên 200gam mà chủ yếu là lươn kích thước nhỏ,
bằng ngón tay hoặc lớn hơn giun (trùn đất) đôi chút (Nguyễn Mộng Hùng, 1998).
Ở miền Nam lươn còn khá nhiều nhưng không còn phong phú như trước đây. Sản
lượng khai thác tự

nhiên ngày càng giảm nhiều, kích cỡ cũng nhỏ dần vì nguồn lợi
lươn tự nhiên không kịp bù đắp. Tình trạng khai thác bừa bãi, quá mức cũng như
việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, không kiểm soát trên đồng ruộng và
dư lượng thuốc đi vào các thủy vực đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường
sống cũng như sinh sản của lươn.
11
12
2. KỸTHUÂT NUÔI LƯƠN THƯƠNG PHẨM
2.1. Chuẩn bị bể nuôi lươn
Nuôi lươn thịt không khó và đã phát triển đa dạng nhiều hình thức nuôi. Ơ
các tỉnh Nam bộ, tùy theo điều kiện của từng nông hộ và từng cơ sở, có thể nuôi
lươn trong ao đất, trong ruộng lúa mương vườn, trong bể đất lót bạt cao su, trong
bể ximăng, đôi khi cải tạo lại chuồng heo cũ là có được bể nuôi lươn khá tốt. Có
nơi do thiếu điều kiện, lươn còn được nuôi trong khạp hoặc vại lớn. Tùy điều kiện
kinh tế, đất đai và hiểu biết kỹ thuật của nông hộ mà lựa chọn hình thức nuôi phù
hợp. Hiện nay hình thức nuôi trong bể là phổ biến, vì điều kiện nuôi trong lươn
trong bể dễ quản lý, theo dõi và kiểm soát thuận tiện hơn nuôi dưới ao, mương,
đồng thời đạt năng suất cao hơn, thu hoạch cũng dễ dàng hơn.
Có hai kiểu bể nuôi: (1) bể đáy phủ thêm đất và (2) bểxi măng và bể lót bạt
cao su. Hiện nay đa các hộ ưa thích nuôi lươn trong bể ximăng và bể lót bạt cao su

(càng trơn láng càng tốt). Trong bể đất nên có thực vật thủy sinh (bèo lục bình, rau
muống ), bể ximăng có treo các bó xơ nylon để lươn có nơi trú ẩn.
+ Bể đất: diện tích từ 10-15m
2
, độ sâu 60-80 cm, giữ được mực nước 0,4m,
có bố trí dưới gần đáy ống rút nước cạn hoặc bí nước lại khi cần. Ống phải bịt lưới
để lươn không chui và và đi mất. Đất trong bể phải chọn đất thịt pha sét hoặc đất
sét để không làm đục nước. Tạo một cù lao có diện tích khoảng 1/3 bể nằm ở giữa
hoặc một bên của bể và trồng cây thủy sinh, phần ngập nước có thể thả một ít lục
bình. Trước khi thả giống phải tháo cạn bể, rãi đều vôi bột nơi thành và đáy bể
(0,7-1kg/10m
2
) để diệt mầm bệnh và điều chỉnh pH, phơi nắng 1-2 ngày, đưa nước
vào đầy bể và ngâm 4-5 tiếng, sau đó tháo cạn nước cũ cấp nước mới để thả giống.
Nên đo pH của nước trong bể trong khoảng 7-8 là thích hợp. Treo từ 2-3 hàng
trong bể với khoảng 10-15 bó giá thể bằng dây nylon
12
13
+ Bể ximăng hoặc bạt cao su: diện tích 10-50m
2
, độ sâu 60-80cm, có thành
bể thẳng đứng để hạn chế lươn thoát nước ra ngoài. Bố trí ống thoát nước sát đáy
và ống cấp nước phía trên, ống nước tràn ở lưng chừng bể(cách đáy khoảng 30-
40cm). Trước khi thả lươn nuôi, phải tháo cạn bể, tẩy trùng đáy và thành bể bằng
nước vôi trong (1kg vôi bột hòa tan 10 lít nước, lắng lấy nước trong) hoặc chlorin
10ppm (1 gam trong 1 m
3
nước). Phơi nắng bể từ 2-3 nắng cho bể khô hẳn rồi mới
cấp nước mới và sạch vào bể (tốt nhất là nước chứa để cấp vào bể nuôi cũng được
khử trùng). Treo trong bể từ 2-3 hàng gồm 10-15 bó giá thể bằng dây nylon, chiếm

khoảng 1/3 diện tích bể (đểtạo chỗ trú bám vào và dễ ngoi lên mặt nước để thơ).
Nuôi lươn với mật độ khá cao, sẽ có tình trạng thiếu oxy trong bể nuôi, do
đó nên cho máy sục khí và bố trí dàn ống dẫn khí để sử dụng khi cần thiết.
13
14
Hình 2.1: Bể ximăng nuôi lươn có giá thể là bèo lục bình
Hình 2.2. Bể nuôi lươn có giá thể xơ nilon.
2.2. Lươn giống thả nuôi
Giống lươn nhân tạo chưa sản xuất nhiều, nên nguồn lươn giống để nuôi
hiện nay chủyếu đánh bắt từ tự nhiên. Để đáp ứng nhu cầu giống chất lượng nhiều
cơ sở sản xuất giống và nông hộ nuôi cũng đã chủ động sản xuất giống nhân tạo.
14
15
Người thu bắt lươn giống thường có các phương pháp đặt ống tre, câu, tát
ao, hoặc xúc mô. Hiện nay còn còn có tinh trạng thu bắt mang tính hủy diệt như
rà điện và nhử mồi thuốc. Khi sử dụng lươn giống trong tự nhiên, cần quan sát kỹ
để đánh giá chính xác chất lượng và tình trạng sức khỏe, tránh bị nhầm với lươn bị
đánh bắt bằng rà điện hoặc dùng thuốc mồi nhử có độc tố. Thậm chí khi thả
chung, chất thải từ lươn đã bị nhiễm mồi thuốc cũng làm cho lươn bình thường bị
lây nhiễm và chết từ từ sau 1-2 tuần. Lươn bị rà điện thì yếu và chậm lớn, có thể
chết sau vài tháng.
Lươn giống trong tự nhiên có nhiều kích cỡ và có gần như quanh năm,
nhưng mùa lươn giống tập trung nhiều nhất là tháng 6-8, giữa đến cuối mùa mưa.
Kích cỡ lươn giống thu bắt để nuôi khoảng 12-15cm, nặng từ 20-25g/con hoặc có
cỡ lươn lớn 35-40g/con (1kg lươn giống lớn khoảng 25-30con). Chọn lươn giống
bằng cách quan sát ngoại hình, lươn khỏe, đều cỡ, có màu sắc sáng đặc trưng của
loài, thân màu vàng có chấm rõ, không bị sây sát, không bị mất nhớt, vận động co
trườn nhanh nhẹn. Những con lươn có màu nhợt nhạt, có khi màu vàng xanh hoặc
xám tro thì yếu và khó nuôi, sẽ tăng trưởng chậm. Khi để lươn vào thau chậu có
nước, lươn yếu thường ngoi đầu lên cao, mang phình to, thường đã bị mất nhớt.

Lươn bị rà điện thì ít vận động, lờ đờ, phần sau hoặc phần đầu của thân tính từ hậu
môn bị mất nhiều nhớt, có khi chuyển màu. Lươn bị nhiễm thuốc mồi thì xung
quanh nắp mang và hậu môn xung huyết.
Khi mua lươn giống tự nhiên nên chọn từ những nơi đánh bắt tin cậy, vận
chuyền nhanh vào bể nuôi giữ tạm, tắm nước muối 3% từ 5-10 phút, thay nước
sạch rồi giữ trong bể tạm 1-2 ngày để lươn hồi phục và loại bỏ những lươn yếu, bị
thương hoặc có biểu hiện bệnh.
15
16
Mật độ nuôi thả lươn trong bể 30-40 con/m
2
, cỡ giống có thể từ 20-25; 25-30
hoặc 30-40con/kg. Nên chọn giống thả cùng một bể nuôi có kích cỡ cùng lứa, đều
nhau để tránh tình trạng cạnh tranh thức ăn thậm chí con lớn vượt đàn ăn thịt
những con lươn có kích cỡ nhỏ hơn.
Lương giống sản xuất bán nhân tạo có thể thả mật độ cao hơn 80-100
con/m
2
, chiều dài 8-12cm, khối lượng 1,0-1,5g/con.
2.3. Thức ăn
Lươn ưa thích thức ăn có nguồn gốc động vật và có mùi tanh (cá, ốc, trùn,
phế phẩm lò mổ…), thức ăn có thể tươi sống hoặc tốt nhất là nấu chín, vừa với cỡ
miệng của chúng. Lươn cũng ăn được thức ăn chế biến phối trộn từ nhiều nguồn
đạm động vật và thực vật (đậu nành, cám, tấm, bắp, khoai trộn với cá tạp vụn, bột
cá ) và cả thức ăn viên công nghiệp. Tuy nhiên do lươn có tập tính quen một loại
thức ăn mới, nên người nuôi muốn cho lươn sử dụng nhiều dạng thức ăn cần chú ý
từ khi bắt đầu nuôi phải luyện cho lươn ăn được nhiều loại thức ăn khác nhau.
Không cho lươn ăn cố định một loại thức ăn làm cho lươn quen thức ăn đó, chúng
sẽ không ăn những loại thức ăn khác.
Thức ăn là cá tạp, cá vụn, ruột ốc bươu vàng, tép, phụ phẩm lò mổ…phải

bằm nhỏ vừa cỡ miệng lươn. Thức ăn chế biến gồm các thành phần gốc động vật
(cá tạp, bột cá…) trộn với cám gạo, bột đậu nành, tấm, bột bắp và một số chất bổ
sung như premix khoáng, vitamin… và nấu chín để hạn chế sự ô nhiễm nước bể
nuôi.
Bảng 1: Tỷ lệ, thành phần thức ăn tươi sống, thức ăn chế biến và khẩu phần
ăn
16
17
Lươn có tập tính rất ham ăn và ăn nhiều vào lúc tối và ban đêm. Cho thức ăn
vào sàn treo vào bể vừa ngập trong nước để lươn rút thức qua kẽ sàn hoặc bò vào
sàn ăn. Kiểm tra và rửa sạch sàn ăn mỗi lần cho ăn thức ăn mới. Đặt sàn ăn hoặc
thả thức ăn cho lươn gần với cống rút nước để khi lươn ăn xong sẽ rút bỏngay
nước dơ bẩn và thay nước mới.
Nguồn nước thay mới phải sạch không bị ô nhiễm hóa chất độc hại. Không
cho thức ăn đã bị hư, ôi thiu làm hỏng môi trường nuôi, dễ gây bệnh cho lươn.
Hàng ngày theo dõi mức độ ăn của lươn để điều chỉnh phù hợp, nên cho ăn vừa đủ.
Hằng ngày phải vét sạch thức ăn dư trong bể, dưới đáy bể sau mỗi lần cho ăn.
Không để lươn bị đói nhưng cũng không cho thức ăn dư thừa sẽ gây ô nhiễm nước
trong bể hoặc lươn ăn quá nhiều quá dễ bị bội thực và chết. Trong giai đoạn đầu
mới nuôi, cho lươn ăn với mức khẩu phần thấp hơn khi lươn đã lớn.
17
18
2.4. Quản lý môi trường và sức khỏe lươn nuôi
2.4.1. Quản lý môi trường nước
- Quản lý nước nuôi: mức nước trung bình 15-20cm là thích hợp để lươn dể
dàng chủ động hô hấp khí trời. Do bể nuôi có diện tích giới hạn, mực nước trong
bể thấp, nên rất nhanh bị ô nhiễm từ thức ăn dư thừa hoặc tan toả trong nước và
những chất thải từ hoạt động sống của lươn. Cần phải thay nước bể nuôi hằng ngày
(nên thay nước sau khi lươn ăn 1-2 giờ để cải thiện chất lượng nước, cung cấp đủ
lượng oxy hòa tan và ổn định hiệt độ trong bể nuôi. Lượng nước thay từ 2/3 đến

toàn bộ và tùy thuộc chất lượng nước, không để nước có mùi hôi.
- Khi thời tiết nắng nóng kéo dài, cần có biện pháp che mát cho bể nuôi,
dùng lưới mùng màu đen hoặc mái che đơn giản bằng tàu dừa che trên bể. Những
khi mưa lớn cần để ống xảtràn phòng khi nước trong bể dâng cao.
- Vào ban đêm nhất là mùa khô nóng, có thể trong bể nuôi thiếu oxy hòa tan,
phải kết hợp thay nước mới trong sạch cho bể, cần vận hành máy sục khí cung cấp
thêm oxy để lươn bớt ngoi đầu lên thở không khí trời, lươn sẽ khỏe và phát triển
tốt hơn.
2.4.2. Quản lý hoạt động và sức khỏe lươn
- Hàng ngày quan sát hoạt động của lươn, phát hiện thấy một số lươn lúc lắc
đầu và nhoài lên khỏi mặt nước, bơi lung tung không bình thường, cần kiểm tra
chất lượng nước, ngửi mùi nước … và nhanh chóng thay nước mới, tăng cường sục
khí. Kịp thời vớt xác lươn bị bệnh, lươn chết hoặc sắp chết ra khỏi bể đểkhông bị
thối rữa.
18
19
- Kiểm tra tăng trưởng của lươn: định kỳ hàng tháng kéo bắt khoảng 30 con
và cân đo trọng lượng, chiều dài để đánh giá mức độ tăng trưởng, đồng thời có căn
cứ để tính tính toán lượng thức cho lươn trong giai đoạn tiếp theo.
- Kiểm tra tình trạng sức khỏe của lươn: khi phát hiện thấy biểu hiện bất
thường, bắt lươn lên kiểm tra các bộ phận bên ngoài, nhận biết các dấu hiệu thay
đổi trên cơ thể, sau đó có thể mổ xem xét nội tạng để chuẩn đoán tình trạng bệnh
tật của lươn và có biện pháp phòng trị.
PHẦN 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU.
1.1 Địa điểm
Công ty TNHN sản xuất và dịch vụ Quang Dương
Địa chỉ:khu phố Chùa Dận- phường Đình Bảng- thị xã Từ Sơn- tỉnh Bắc
Ninh.
1.2 Thời gian nghiên cứu.

Từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1013
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Lươn đồng (Monopterus albus Zuiew,1793)
19
20
2. BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
2.1Vật liệu thí nghiệm.
+ 9 hệ thống bể nuôi lươn thương phẩm.
+lươn giống kích thước 20-40 con/kg được lấy từ khu nuôi lươn của Công ty
TNHN sản xuất và dịch vụ Quang Dương.
+ cân, thước do
Hình 3.1 dụng cụ cân đo tốc độ sinh trưởng của lươn.
+ tes do các chỉ số môi trường như ph, DO, nhiệt độ…
20
21
Hình 3.2 bộ test đo các chỉ số môi trường nuôi.
+ phòng thí nghiệm
+ thức ăn nuôi gồm cá tạp say nhỏ, thức ăn công nghiệp hàm lượng đạm 35-
40%. Của Công ty TNHN Cargill Việt Nam. Sản xuất tại Hưng Yên.
21
22

Hình 3.3 thức ăn viên công nghiệp.
22
23
+ Thuốc và chế phẩm sinh học

Hình 3.5 men vi sinh (a) và thuốc dùng cho
thí nghiệm (b).
2.2 Phương pháp nghiên cứu

2.2.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm
Bố trí 3 lô thí nghiệm nuôi lươn thương phẩm, mỗi bể (3-10 m
2
).
- 1 bể nuôi lươn đồng mật độ 50con/ m³. Kích thước :
- 1 bể nuôi lươn đồng mật độ 100 con/ m³.
- 1 bể nuôi lươn đồng mật độ 150con/m
3
2.2.2 Phương pháp theo dõi thí nghiệm
• Xác định các thông số môi trường
23
ba
24
- Các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước (t
0
C), oxy hòa tan(DO), ph
được xác định 2 lần/ ngày vào 7h và 15h. Các yếu tố môi trường được đo
bằng test đo môi trường.
• Xác định các chỉ tiêu tăng trưởng: Định kỳ 15-20 ngày cân, đo một lần. Đo chiều
dài thân (L, cm), khối lượng (W,gam) từng con. Mỗi bể thu ngẫu nhiên 30 con
lươn/lần kiểm tra
Các chỉ tiêu theo dõi:
- Khối lượng lươn tăng thêm WG( Weight gain)
WG (gam) = W
2
- W
1
Trong đó W
2
, W

1
là khối lượng lươn sau và trước thí nghiệm.
- Chiều dài lươn tăng thêm LG ( Length gain)
LG = L
2
– L
1
Trong đó L
2,
L
1
là chiều dài của lươn sau và trước khi thí nghiệm
- Tốc độ tăng trưởng bình quân ngày ADG (average daily growth)
ADG (gam/con/ngày) =(W
2
– W
1
)/ Ngày nuôi
- Tỷ lệ sống (TLS %)
TLS(%) = số lươn còn lại sau thí nghiệm / Số lươn đem thả.
2.3 Phương pháp xử lý số liệu.
Số liệu được xử lý bằng phần mền Excel.
24
25
PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. MÔI TRƯỜNG NUÔI TRONG QUÁ TRÌNH LÀM THÍ NGHIỆM.
1.1 Nhiệt độ.
Kết quả theo dõi nhiệt độ trong quá trình làm thí nghiệm được thể hiện trong
các bảng sau:
Bảng 4.1 nhiệt độ môi trường nước.

Thán
g Tháng 7 Tháng8 tháng 9
sáng chiều sáng chiều sáng chiều
Min 27 28.5 26 27.5 25 25
Max 31 34 32 34 30 33
Trung
bình 29 30.7 29 31 28 29.5
Bảng 4.2 nhiệt độ môi trường không khí
Tháng Tháng 7 Tháng8 tháng 9
sáng chiều sáng chiều sáng chiều
Min 28 29 25 27 26 26
Max 35 36 32 36 31 36
Trung bình 30.6 32.3 29.2 33 28.8 31.5
Hình 4.1 Biến động nhiệt độ tháng 7.
25

×