TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN ANH CƯỜNG
KHẢO SÁT SỰ PHÂN BỐ VÀ BIẾN ĐỘNG SINHLƯỢNG
CỦA MỘT SỐ LOÀI RONG BIỂN Ở MỘT SỐ THỦY VỰC
NƯỚC LỢ CỦA TỈNH SÓC TRĂNG VÀ BẠC LIÊU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN ANH CƯỜNG
KHẢO SÁT SỰ PHÂN BỐ VÀ BIẾN ĐỘNG SINH LƯỢNG
CỦA MỘT SỐ LOÀI RONG BIỂN Ở MỘT SỐ THỦY VỰC
NƯỚC LỢ CỦA TỈNH SÓC TRĂNG VÀ BẠC LIÊU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ts. NGUYỄN THỊ NGỌC ANH
2012
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
DANH SÁCH HÌNH iii
DANH SÁCH BẢNG v
CHƯƠNG I ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Giới thiệu 1
1.2 Mục tiêu đề tài 2
1.3 Nội dung đề tài 2
CHƯƠNG II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1 Nguồn lợi rong biển thế giới 3
2.2 Nguồn lợi rong biển Việt Nam 3
2.3 Vai trò của một số loài rong biển 5
2.3.1 Dùng làm thực phẩm 5
2.3.2 Dùng trong y học và dược phẩm 6
2.3.3 Rong biển dùng trong nông nghiệp 6
2.3.4 Rong biển dùng trong công nghiệp 6
2.3.5 Ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản 6
2.4 Vị trí phân loại và đặc điểm sinh học một số loài rong biển 9
2.4.1.Rong Bún Enteromorpha sp 9
2.4.2.Rong Mền Cladophora spp 11
2.4.3. Rong Đá Najas sp 14
2.5 Các yếu tố môi trường 15
2.5.1 Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến rong bún 15
2.5.2 Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến rong mền 18
2.5.3 Yếu tố môi trường ảnh hưởng tới rong đá 18
CHƯƠNG III VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
3.1 Vật liệu nghiên cứu 19
3.1.1 Dụng cụ và trang thiết bị 19
3.1.2 Hóa chất 19
3.2 Phương pháp nghiên cứu 19
3.2.1 Địa điểm thu mẫu 19
3.2.2 Phương pháp thu mẫu rong 20
3.2.3 Xử lý rong sau khi thu 20
3.2.4 Các chỉ tiêu chất lượng nước 21
3.2.5 Đánh giá năng suất, sản lượng rong thu 21
3.2.6 Phương pháp xử lý số liệu 21
CHƯƠNG IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 22
4.1 Các thông số về môi trường nước 22
4.1.1 Các yếu tố thủy lý 22
Độ Mặn (‰) 22
Độ trong(cm) 23
Nhiệt độ (
o
C) 23
pH 24
Mức nước ở trảng (cm) 25
Mức nước mương (cm) 26
4.1.2 Các yếu tố thủy hóa 26
Hàm lượng NH
4
+
/NH
3
(mg/L) 26
Hàm lượng NO
3
-
(mg/L) 27
Độ kiềm (mg CaCO
3
/L) 28
Hàm lượng PO
4
3-
(mg/L) 29
4.2 Năng suất rong biển 29
4.2.1 Năng suất rong bún các thủy vực ở Bạc Liêu 29
4.2.2 Năng suất rong bún các thủy vực ở Sóc Trăng 31
4.2.3 Năng suất rong mền các thủy vực ở Bạc Liêu 31
4.2.4 Năng suất rong mền các thủy vực ở Sóc Trăng 33
4.2.5 Năng suất rong đá các thủy vực ở Bạc Liêu 35
4.2.5 Năng suất rong đá các thủy vực ở Sóc Trăng 35
4.3 Tỉ lệ phần trăm rong hỗn hợp phân bố trong thủy vực khảo sát 36
4.3.1 Tỉ lệ phần trăm rong hỗn hợp phân bố trong thủy vực ở Bạc Liêu 36
4.3.1Tỉ lệ phần trăm rong hỗn hợp phân bố trong thủy vực ở Sóc Trăng 37
4.4 Sản lượng từng loài rong biển trong các thủy vực khảo sát 38
4.4.1 Sản lượng rong bún ở các thủy vực ở Bạc Liêu 38
4.4.2 Sản lượng rong bún ở các thủy vực ở Sóc Trăng 38
4.4.3 Sản lượng rong mền ở các thủy vực ở Bạc Liêu 41
4.4.4 Sản lượng rong mền ở các thủy vực ở Sóc Trăng 41
4.4.5 Sản lượng rong đá ở các thủy vực ở Bạc Liêu 43
4.4.5 Sản lượng rong đá ở các thủy vực ở Sóc Trăng 43
CHƯƠNG V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 44
5.1 Kết luận 44
5.2 Đề xuất 45
CHƯƠNG IV TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
LỜI CẢM TẠ
Trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp, em xin chân thành bày tỏ lòng biết
ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Ngọc Anh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ
em trong suốt thời gian thực hiện đề tài này. Đồng thời củng bày tỏ lòng biết ơn
đối với anh Nguyễn Minh Tiến.
Xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô khoa Thủy Sản đã truyền đạt những
kiến thức quý báo cho tôi và sự giúp đỡ của bạn bè trong quá trình học tập tại
khoa Thủy Sản.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn thầy Trần Ngọc Hải, cố vấn học tập đã dìu dắt,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập vừa qua.
Cần Thơ, ngày 13 tháng 7 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Anh Cường
i
TÓM TẮT
Khảo sát về sự phân bố, biến động năng suất và sản lượng của rong biển được
thực hiện ở ao quảng canh và thủy vực tự nhiên của tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng
từ tháng 3/2011 đến tháng 2/2012.
Kết quả khảo sát cho thấy các yếu tố môi trường nước trong suốt thời gian khảo
sát dao động trung bình như nhiệt độ:28,3 - 36,5
o
C, độ mặn 0 – 23,3‰, pH: 7,6 -
8,9, độ trong: 21,7 - 54,5 cm , mức nước ở trảng: 5 – 45 cm, mức nước tổng: 30 –
93 cm, hàm lượng NH
4
+
/NH
3
: 0,1 - 0,57 mg/L, NO
3
-
:1,17 - 4,67 mg/L, độ kiềm:
81 – 192 mgCaCO
3
/L, hàm lượng PO
4
3-
: 0,15 - 1,25 mg/L.
Năng suất và sản lượng trung bình rong bún ở Bạc Liêu và Sóc Trăng cao vào các
tháng đầu 3 - 4 - 5/2011, có khuynh hướng giảm vào giữa đợt thu mẫu và tăng trở
lại vào cuối đợt thu mẫu tháng 1 - 2/2012. Năng suất rong bún ở Bạc Liêu dao
động trung bình từ 0,46 - 2,73 kg/m
2
, ở Sóc Trăng dao động trung bình từ 0,31 -
1,81 kg/m
2
. Sản lượng rong bún ở các thủy vực ở Bạc Liêu dao động trung bình
từ 1.470 – 16.320 kg/ha, ở Sóc Trăng dao động trung bình từ 312 – 13.024 kg/ha.
Năng suất rong mền ở Bạc Liêu biến động nhiều qua các tháng thu mẫu, năng
suất trung bình rong mền ở Bạc Liêu cao nhất 2,3 kg/m
2
và thấp nhất 0,37 kg/m
2
.
Năng suất rong mền ở Sóc Trăng dao động trung bình từ 0,03 – 1,4 kg/m
2
.
Ở Bạc Liêu rong đá chỉ xuất hiện trong các ao tự nhiên, năng suất rong đá trung
bình cao nhất 1,28 kg/m
2
và thấp nhất 0,02 kg/m
2
. Ở Sóc Trăng năng suất rong đá
trung bình của các thủy vực đạt cao nhất 2,88 kg/m
2
.
Qua thời gian khảo sát cho thấy rong bún là loài ít xuất hiện vào mùa nắng và có
chiều hướng giảm năng suất và sản lượng khi nhiệt độ tăng cao và độ mặn biến
động lớn. Rong mền xuất hiện gần như quanh năm ở các thủy vực được khảo sát
và phát triển tốt ở điều kiện nhiệt độ và độ mặn cao. Rong đá là loài thường sống
ở thủy vực có độ mặn thấp, độ trong cao và thường phát triển mạnh vào mùa
mưa. Sự phát triển của các loài rong biển bị ảnh hưởng nhiều bởi nhiệt độ và độ
mặn và có sự cạnh tranh về môi trường sống khi loài này phát triển ưu thế sẽ lấn
át loài kia.
ii
DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Hình rong bún Enteromorpha sp 9
Hình 2.2 : Vòng đời rong bún Enteromorpha sp 10
Hình 2.3 : Rong mền Cladophora spp 11
Hình 2.4 : Rong đá Najas Minor 14
Hình 4.1: Năng suất trung bình của rong bún qua các tháng thu mẫu ở Bạc
Liêu 30
Hình 4.2: Năng suất trung bình của rong bún qua các tháng thu mẫu ở Sóc
Trăng 30
Hình 4.3: Năng suất trung bình của rong mền qua các tháng thu mẫu ở Bạc
Liêu 32
Hình 4.4: Năng suất trung bình rong mền qua các tháng thu mẫu ở Sóc Trăng. 33
Hình 4.5: Năng suất trung bình của rong đá qua các tháng thu mẫu ở Bạc
Liêu 34
Hình 4.6: Năng suất trung bình của rong đá qua các tháng thu mẫu ở Sóc
Trăng 34
Hình 4.7: Trung bình phần trăm rong hỗn hợp phân bố trong thủy vực qua các
tháng thu mẫu ở Bạc Liêu 36
Hình 4.8: Trung bình phần trăm rong hỗn hợp phân bố trong thủy vực qua các
tháng thu mẫu ở Sóc Trăng 37
Hình 4.9: Sản Lượng trung bình của rong bún qua các tháng thu mẫu ở Bạc
Liêu 39
Hình 4.10: Sản Lượng trung bình của rong bún qua các tháng thu mẫu ở Sóc
Trăng 39
Hình 4.11: Sản Lượng trung bình của rong mền qua các tháng thu mẫu ở Bạc
Liêu 40
iii
Hình 4.12: Sản lượng trung bình của rong mền qua các tháng thu mẫu ở Sóc
Trăng 40
Hình 4.13: Sản lượng trung bình của rong đá qua các tháng thu mẫu ở Bạc
Liêu 42
Hình 4.14: Sản lượng trung bình của rong đá qua các tháng thu mẫu ở Sóc
Trăng 42
iv
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 4.1: Độ mặn và độ trong trung bình qua các tháng thu mẫu 22
Bảng 4.2: Nhiệt độ và pH trung bình qua các tháng thu mẫu. 24
Bảng 4.3: Mức nước ở trảng và mức nước mương trung bình qua các tháng
thu mẫu. 25
Bảng 4.4: Hàm lượng NH
4
+
/NH
3
và NO
3
-
trung bình qua các tháng thu mẫu 27
Bảng 4.5: Độ kiềm và hàm lượng PO
4
3-
trung bình qua các tháng thu mẫu. 28
v
1
CHƯƠNG I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Rong biển là một hợp phần quan trọng của nguồn lợi sinh vật biển, chúng là bãi
đẻ và nơi cư trú cho các loài động vật biển, có khả năng hấp thu mạnh các chất
dinh dưỡng trong môi trường, chế biến và sử dụng trong nhiều lĩnh vực như thực
phẩm, y dược, mỹ phẩm, nông nghiệp, chiết suất nhiên liệu sinh học và có thể cân
bằng sinh thái bền vững. Thêm vào đó, rong biển chứa nhiều chất dinh dưỡng,
các nguyên tố vi lượng, có thể được sử dụng làm thức ăn cho con người và cá,
tôm, cua Đặc biệt rong biển có vai trò như máy lọc sinh học cũng như vai trò
trong việc bảo vệ nguồn giống sinh vật biển và đa dạng sinh học (FAO, 2003;
Dhargalkar and Pereira, 2005).
Nghiên cứu về phân bố và tình hình trồng rong biển ở nước ta chỉ tập trung ở các
tỉnh miền Trung, các loài rong câu (Gracilaria sp.) được trồng phổ biến với hình
thức trồng quảng canh hay bán thâm canh, năng suất bình quân 2 tấn khô/ha/năm,
một số nơi có thể đạt 3 - 4 tấn khô/ha/năm. Ngoài ra, một số loài rong biển được
nhập nội như rong sụn (Kappaphycus alvarezii), rong nho (Caulerrpalentillifera)
đã nuôi thử nghiệm thành công ở các tỉnh miền Trung (agroviet.gov.vn/Pages).
Ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), theo số liệu điều tra về sự phân bố và
phát triển của các loài rong biển trong các mô hình nuôi nước lợ khác nhau của
Nguyễn Văn Tròn (2011) và Trần Phát Đạt (2011), hầu hết các hộ dân cho rằng
rong bún (Enteromorpha sp.), rong mền (Chladophoraceae) và rong đá (Najas
sp.) xuất hiện nhiều nối tiếp hoặc xen kẻ nhau ở các thủy vực nước lợ. Các loài
rong này có tiềm năng lớn trong nuôi trồng thủy sản như mô hình nuôi kết hợp
hoặc sử dụng làm thức ăn cho cá, tôm. Trong đó, rong mền và các loại rong khác
chiếm tối đa khoảng 30% diện tích ao nuôi thì chất lượng nước ao nuôi ổn định
và cá, tôm cua nuôi mau lớn. Nếu xuất hiện nhiều (>50% diện tích), ao nuôi
quảng canh có thể bị thất thu đặc biệt là nguồn tôm tự nhiên hoặc tôm sú thả nuôi
gần như không tồn tại. Vì thế đề tài: “Khảo sự phân bố và biến động sinh
lượng của một số loài rong biển ở một số thủy vực nước lợ của Tỉnh Sóc
Trăng và Bạc Liêu” được thực hiện.
2
1.2 Mục tiêu đề tài
Đánh giá sự biến động sinh lượng và các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến mùa
vụ xuất hiện của một số loài rong biển trong các thủy vực nước lợ khác nhau ở
tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Từ đó cung cấp một số thông tin khoa học về đặc
điểm sinh học đặc trưng cho các loài rong này nhằm phục vụ cho việc nuôi trồng
và khai thác.
1.3 Nội dung đề tài
Khảo sát sự biến động sinh lượng (năng suất và sản lượng) của một số loài rong
biển: rong bún (Enteromorpha sp.), rong mền (Cladophoraceae) và rong đá
(Najas sp.) trong ao quảng canh và thủy vực tự nhiên của tỉnh Sóc Trăng và Bạc
Liêu.
3
CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Nguồn lợi rong biển thế giới
Trên thế giới nghề trồng rong biển phát triển mạnh từ những thập niên 70, hướng
mở rộng từ châu Phi đến Nam Mỹ. Theo tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc
(FAO), sản lượng rong biển năm 1960 chỉ 150.000 tấn đến nay đã tăng 1,6 triệu
tấn mỗi năm.
Tổng sản lượng rong biển trên thế giới hàng năm khoảng 220 triệu tấn được cung
cấp chủ yếu từ Trung Quốc, Philippines và Indonesia, Thái Bình Dương chỉ
chiếm một phần nhỏ. Giá rong biển hiện tại giao động từ 600-800 USD/tấn. Phần
lớn rong biển được trồng ở vùng biển Đông Nam Á. Các nước nhập nhiều rong
biển là Đan Mạch, Pháp, Na uy, Anh, Mỹ. Châu Á tiêu thụ nhiều rong biển nhất,
đến 90% tổng sản lượng toàn thế giới, châu Âu chỉ tiêu thụ 1% (FAO, 2003 ).
Rong biển từ lâu chỉ được khai thác tự nhiên như một nghề truyền thống của
người dân vùng ven biển, tuy nhiên nguồn lợi này ngày càng suy giảm. Những
năm gần đây, với tiến bộ trong kỹ thuật trồng rong biển đã giúp cho nghề trồng
rong phát triển. Rong biển được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau nhưng
chủ yếu vẫn là phục vụ làm thức ăn cho con người và dùng trong công nghiệp.
2.2 Nguồn lợi rong biển Việt Nam
Ở nước ta có khoảng 794 loài rong biển, phân bố ở vùng biển miền Bắc 310 loài,
miền Nam 484 loài, 156 loài tìm thấy ở cả hai miền (Nguyễn Hữu Dinh, 1998).
Trong đó có các đối tượng quan trọng là: rong Câu (Gracilaria), rong Mơ
(Sargassum), rong Đông (Hypnea), rong Mứt (Porphyza), và rong Bún
(Enteromorpha).
Nguồn rong trồng bao gồm chủ yếu các loại rong đỏ như: rong câu cước (G.
Acerosa), rong câu chỉ vàng (G.verrucosa), rong câu (G.asiatica và
G.heteroclada), rong sụn (Alvarezii).
Trong đó G.Verrucosa và G.Asiatica được trồng ở vùng nước lợ từ năm 1970 ở
phía Bắc, phía Nam từ 1980 với tổng diện tích 1.000 ha đạt sản lượng khoảng
1.500 - 2.000 tấn khô/năm. Rong câu cước (G.acerosa) cũng được trồng ở vùng
thủy triều, vịnh, ao, đìa với diện tích khoảng 100 ha, sản lượng khoảng 150 - 200
tấn khô/năm.
4
Nguồn rong mọc tự nhiên chủ yếu là rong nâu (Phaeophyta). Trữ lượng khoảng
10.000 tấn khô/năm (Trần Thị Luyến và ctv, 2004).
Nguồn rong Đỏ (Rhodophyta) tự nhiên cũng có khoảng 1.500-2.000 tấn khô/năm.
Có khoảng 14 loài rong Đỏ mọc tự nhiên ở nước ta, trong đó rong Câu chỉ vàng
có trữ lượng lớn và cho chất lượng Agar cao (Trần Thị Luyến và ctv, 2004).
Ở Việt Nam rong câu Gracilaria có trữ lượng lớn và là nguồn nguyên liệu chính
sản xuất Agar, một lượng nhỏ là Gelidium. Sản lượng rong tươi khoảng 3000
tấn/năm. Trong đó sản lượng rong Đỏ (Rhodophyta) chiếm khoảng 100-150 tấn
khô/năm (Nguyễn Hữu Dinh, 2004). Các chuyên gia rong biển Việt Nam phân
chia rong Đỏ thành các loại: rong câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica), rong rễ Tre
(Gelidiella acerosa) , rong chuỗi, rong chân vịt (Gracilaria eucheumodes), rong
câu ống, rong hoa đá,…
Rong câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica) phân bố dọc miền duyên hải từ Bắc vào
Nam. Có một số vùng chuyên canh trồng rong câu chỉ vàng như: Phá Tam Giang,
Lăng Cô Bình Trị Thiên cũ, đầm Thị Nại - Bình Định, đầm Ô Loan tỉnh Phú Yên,
Bình Trị Thiên cũ là một vựa rong của Việt Nam.
Theo số liệu nghiên cứu nguồn lợi rong nâu (Phaeophyta) có giá trị ở vùng biển
Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Định cho thấy khu vực
miền Trung và Nam Trung Bộ trữ lượng rong lớn và chất lượng cao. Rong Nâu
phân bố tại vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng không nhiều so với vùng biển
Khánh Hòa và Ninh Thuận. Quảng Nam - Đà Nẵng tuy có nhiều triền đá dốc, bãi
đá cội, bãi san hô chết nhưng có chiều ngang rất hẹp (1 - 10 m) nên diện tích phân
bố rất nhỏ, trữ lượng không cao. Khối lượng rong tươi trung bình từ 2 - 4 kg/m
2
,
cá biệt có nơi đạt đến 7 kg/m
2
như vùng Cù Lao Chàm, triền đèo Hải Vân (Trần
Thị Luyến và ctv, 2004).
Diện tích rong mơ mọc tại chỗ vùng biển Quảng Nam- Đà Nẵng khoảng 190.000
m
2
, trữ lượng rong mọc tại chỗ có thể thu được vào tháng 4 khoảng hơn 800 tấn
rong tươi. Đây là kết quả không lớn đối với một vùng biển có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho sự phát triển của rong mơ. Kết quả này rất nhỏ so với các vựa rong
mơ khác nằm rải rác ven biển miền Trung. Rong đạt kích thước và sinh lượng cao
nhất vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4. Sau đó rong sống cầm cự thêm một thời
gian nữa rồi tàn lụi vào tháng 7.
5
Diện tích có rong mọc tại chỗ của tỉnh Bình Định khoảng hơn 40.000m
2
, trữ
lượng rong tươi ước tính hơn 100 tấn/năm. Sinh lượng cao nhất vào cuối tháng 4
và đầu tháng 5. Diện tích có rong phân bố rất bé so với các tỉnh khác, sinh lượng
trung bình quân khoảng 2,5 kg/m
2
.
Các vùng có rong mọc là Bãi Xép, Ghềnh Ráng, Hòn Khô. Trong đó vùng Hòn
Khô là vùng có chiều dài bãi rong khoảng 10 km, rong mọc không đều dãi rong
hẹp, có trữ lượng cao nhất.
Trữ lượng rong của tỉnh Bình Định thấp nhất trong các tỉnh điều tra. Hiện nay số
rong này hàng năm tự mọc, tự tàn lụi, không có kế hoạch nào khai thác sử dụng,
còn rất lãng phí.
Vùng biển Khánh Hòa là vùng có diện tích rong mơ mọc cao nhất trong các tỉnh
điều tra, tổng diện tích có rong lên tới 2.000.000 m
2
, trữ lượng có thể khai thác
được hàng năm có thể ước tính hơn 11.000 tấn rong tươi. Khánh Hòa có nhiều
vùng rong như Hòn Chồng, Bãi Tiên, bán đảo Cam Ranh, Hòn Tre và một số đảo
khác. Trong đó vùng Hòn Chồng, Bãi Tiên là hai vùng tiếp giáp nhau có các điều
kiện thuận lợi cho rong mọc với mật độ khá dày đặc, sinh lượng trung bình khá
cao lên tới hơn 5,5 kg/m
2
. Vùng Hòn Chồng, Bãi Tiên là vùng rong lớn, dễ khai
thác nhất, nó nằm ngay bên cạnh đường lộ và rong mọc tập trung gần bờ.
Rong mơ phân bố ở các vùng Sơn Hải, Cà Ná, Mỹ Tân thành các bãi rong mọc
khá dày đặc. Vùng Sơn Hải là vựa rong lớn nhất của Ninh Thuận, với điều kiện
rất thuận lợi là có bãi đá và san hô chết rộng gần 20 m, có nơi rộng hơn 50 m
chạy dài liên tục dọc bờ biển gần 7 km. Tổng diện tích có rong khoảng 1.500.000
m
2
. Trữ lượng có thể khai thác được ước tính hơn 7.000 tấn rong tươi/năm (Trần
Thị Luyến và ctv, 2004).
2.3 Vai trò của một số loài rong biển
Theo nghiên cứu của FAO (2003), rong biển có nhiều vai trò quan trọng trong đòi
sống con người.
2.3.1 Dùng làm thực phẩm
Nhiều loại rong biển có giá trị dinh dưỡng cao, chứa nhiều nguyên tố vi lượng,
vitamin, protein…Đặc biệt trong protein có nhiều axit amin thiết yếu. Vì vậy từ
lâu người ta sử dụng rong như một nguồn thực phẩm: dùng làm thức ăn tươi
6
(Ulva, Caulerpa, Gracilaria….); thức ăn khô (Porphyra, Laminaria,
Monostroma…); dùng để nấu canh (Ulva, Laminaria, Undaria).
2.3.2 Dùng trong y học và dược phẩm
Một số rong biển được dùng trong y khoa vì chúng chứa một số chất như Iod trị
bệnh về tuyến giáp trạng, trị béo phì, một số tạo chất kháng sinh chống nhiều loài
vi khuẩn. Agar làm môi trường nuôi cấy vi khuẩn; Sargassum, Codium chứa axit
alginic dùng làm thuốc phóng xạ, trị bệnh tim mạch; Alginat dùng trong huyết
thanh nhân tạo …
2.3.3 Rong biển dùng trong nông nghiệp
Rong được làm thức ăn cho gia súc; đặc biệt ở một số nước, rong làm thức ăn
chính cho gia súc vào mùa đông thay cho cỏ (ví dụ như Eteromorpha,
Gracilaria ).
Trong trồng trọt, rong biển còn được dùng làm phân bón do trong rong biển chứa
nhiều K, Ca, P, cung cấp cho đất (Eteromorpha, sargassum, cladophora…).
Ngoài ra, rong biển có thể chiết xuất ra các loại kích thích tố sinh trưởng như
Auxin, Gebberelline…từ các loài rong như: Gracilaria, Atcuata, Acanthophora
muscoides, Padina, Dictyota, Caulerpha…
2.3.4 Rong biển dùng trong công nghiệp
Theo FAO (2003), rong biển được chiết xuất và chế biến cho ra NaOH, KOH,
Iod… dùng nhiều trong công nghiệp hóa chất, chế biến thực phẩm, phân bón.
Agar được dùng để hồ và nhuộm vải, kem đánh răng; Alginat dùng trong công
nghệ thực phẩm; Carrageenan dùng làm hồ trong công nghiệp dệt, bánh kẹo…
Theo Trần Đình Toại và ctv, (2009) cho biết k-carrageenan chiết từ rong Hồng
Vân Eucheuma geletinae có thể dùng làm phụ gia chế biến và bảo quản thay thế
có hiệu quả và không độc hại so với hàn the trong sản xuất các sản phẩm làm từ
tinh bột (bún).
2.3.5 Ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản
Trong nuôi trồng thủy sản rong biển được nuôi trồng kết hợp với các loài cá, tôm,
nhuyễn thể. Rong biển đóng vai trò như máy lọc sinh học làm giảm ô nhiễm môi
trường nước và nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích mặt nước.
Lê Như Hậu và ctv, (2005) đã nghiên cứu khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của
một số loài rong câu Gracilariaceae (G. tenuistipitata, G. firma và G. bailinae)
7
trong việc xử lý nước thải nuôi tôm. Ba thí nghiệm đã được nghiên cứu: (1) Nước
biển bổ sung thành phần muối dinh dưỡng, (2) Nước lấy ở bể nuôi tôm sau 4
tháng nuôi (trong phòng thí ngiệm), (3) Trong ao nước thải nuôi tôm. Kết quả cho
thấy rằng trong tất cả các trường hợp, rong câu Gracilariaceae hấp thụ NH
4
+
trước
và sau đó là NO
3
-
và PO
4
3-
. Nitrogen và phosphorus đã được hấp thụ nhanh chóng
trong những ngày đầu thí nghiệm.Trong phòng thí nghiệm, sau 24 giờ, hàm lượng
NH
4
+
giảm khoảng 80% và trong ao tôm thì tỷ lệ này giảm khoảng 60 - 70%.
Trong bể kính, sau 10 ngày, hầu hết lượng nitrogen và phosphorus đã được rong
sử dụng, nhưng trong ao nước thải tôm thì còn lại khoảng 20 - 25%. Khả năng
hấp thụ chất dinh dưỡng không khác nhau nhiều giữa 3 loài rong câu, nhưng loài
rong G. bailinae có xu thế cao hơn.
Nghiên cứu của Jones (2000), tiến hành thử nghiệm khả năng lọc của hàu
(Saccostrea commercialis) và rong Gracilaria edulis (Gmelin) Silva. Nước được
lấy từ ao nuôi tôm sau đó cho hàu và rong vào. Kết quả sau 72 giờ (đối với rong
biển), cho thấy hàm lượng các thông số giảm so với ban đầu, như : TSS giảm
12%; TN 28%; TP 14%; NH
4
+
76%; NO
3
-
30%; PO
4
3-
35%; chlorophyll a 0,7%.
Neori et al., (1996) đã đánh giá chất lượng nước từ mô hình nuôi cá biển (Sparus
aurata) thâm canh kết hợp trồng rong xà lách (U. lactuca) trong hệ thống bán
tuần hoàn nước. Kết quả cho thấy rong hấp thu hầu như toàn bộ hàm lượng
amonia mà cá thải ra. Các thông số như DO, NH
4
+-N, oxidized-N, pH và
phosphate còn lại rất ổn định và an toàn cho cá nuôi trong suốt 2 năm nghiên cứu
và khác biệt có ý nghĩa so với các ao nuôi cá thâm canh thông thường. Ngoài sản
lượng cá mô hình này còn cho thu hoạch một lượng lớn rong biển giúp tăng thêm
thu nhập và lợi nhuận. Mô hình này được xem như cung cấp cách giải quyết hữu
ích cho nhà quản lý và những vấn đề môi trường trong nuôi ven biển.
Theo Huỳnh Quang Năng (2004) các loài rong câu (Gracilaria) như rong câu chỉ
(G. Tenuistipitata), rong câu thắt (G. Fisherii), rong câu cước (G. Bailinae) có
khả năng hấp thụ mạnh cả về tốc độ và số lượng các muối dinh dưỡng đặc biệt là
Amôn, trong môi trường nước và đáy của các thủy vực bị ô nhiễm ưu dưỡng, vì
vậy chúng đều có khả năng dùng làm tác nhân sinh học để xử lý nhiễm bẩn ưu
dưỡng do nuôi trồng thủy sản gây nên, đối với nước chỉ cần 2-3 ngày thì rong đã
hấp thụ từ 70 - 80% hàm lượng các muối dinh dưỡng, còn đối với nền đáy cần
thời gian lâu hơn, đến ngày thứ 10 rong hấp thụ được 91% P tổng và 96% N tổng.
8
Theo Huỳnh Quang Năng (2005), trồng rong sụn Kappaphycus alvarezii Doty
luân canh trong ao đìa ven biển ở Khánh Hòa và Ninh Thuận cho các kết quả: đối
với nước ô nhiễm ưu dưỡng, sau 1 tháng hàm lượng Nitơ tổng trong nước giảm
48%. Sau 50 ngày giảm 68%. Hàm lượng Amôn trong nước sau 1 tháng đã giảm
đi 50%. Trong khi ở ao không trồng rong tuy nước ra vào tự do, song lượng Nitơ
tổng chỉ giảm 20% sau 1 tháng và 29% sau 50 ngày. Amôn chỉ giảm 20% sau 1
tháng. Nhìn chung các hợp chất chứa Nitơ của nước trong ao có trồng rong sụn
trung bình giảm đi khoảng 70% sau 30 ngày, đối với ao không trồng rong sau 50
ngày chỉ giảm 30%.
Theo Trần Kim Thêu (2011), nghiên cứu “Ảnh hưởng của các loài rong biển khác
nhau lên môi trường sống, tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm sú” kết quả cho thấy
khi nuôi tôm sú kết hợp với rong bún cho tỉ lệ sống cao hơn so với nuôi không kết
hợp, kết hợp với rong nhớt và rong mền. Tốc độ tăng trưởng về khối lượng và
chiều dài của tôm sú khi nuôi kết hợp với rong bún (Enteromorpha) có khuynh
hướng cao hơn so với khi nuôi tôm đơn hoặc nuôi kết hợp với rong nhớt
(Spirogyra ) và rong mền (Cladophora). Hệ số thức ăn của nghiệm thức khi nuôi
tôm sú kết hợp với rong bún thấp hơn khi nuôi không kết hợp và nuôi kết hợp
tôm sú với rong mền và rong nhớt.
Ngoài các vai trò nêu trên, theo Nguyễn Văn Tròn (2011) “Khảo sát vai trò của
rong bún và thực vật thủy sinh trong ao nuôi tôm quảng canh ở các tỉnh ven biển
ĐBSCL" thì các loài rong biển như : rong bún (Enteromorpha spp), rong mền
(Cladophora), rong đá (Najas) đóng vai trò làm thức ăn tự nhiên, nơi cư trú cho
các loài tôm cá và gây màu nước cho các ao nuôi tôm cá quảng canh. Sinh khối
rong sau khi chết và bị phân hủy sẽ làm nguồn dinh dưỡng cho một số loài tảo
phát triển tạo năng suất sinh học sơ cấp cho ao tôm.
Theo điều tra của Trần Phát Đạt (2011), “Điều tra về sự xuất hiện và tác động của
các loài rong biển trong các mô hình nuôi tôm biển ở ĐBSCL” thì cho thấy các
loài rong biển như rong bún (Enteromorpha spp.), rong mền (Cladophoraceae),
rong đá (Najas), rong nhớt (Spirogyra) có vai trò cải thiện chất lượng nước, làm
thức ăn, nơi trú ẩn cho tôm cá và làm phân bón. Theo khảo sát này thì rong đá
được đánh giá cao với tất cả các vai trò trên. Rong nhớt có vai trò thấp nhất trong
việc cải tạo chất lượng nước, làm thức ăn cho tôm.
9
2.4 Vị trí phân loại và đặc điểm sinh học một số loài rong biển
2.4.1.Rong Bún
Phân loại của Enteromorpha
Trên toàn thế giới có hơn 135 loài Enteromorpha được mô tả (Index Nominum
Algarum, 2002), Việc phân loại hệ thống các chi như sau:
Ngành: Chlorophyta
Lớp: Chlorophyceace
Bộ: Ulvales
Họ: Monostromataceace
Giống: Enteromorpha
Hình 2.1: Hình rong bún Enteromorpha sp (Link, 1820).
Đặc điểm hình thái học của Enteromorpha :
Các loài rong bún thuộc giống Enteromorpha rất khó để phân biệt với nhau
(Budd và Pizzola, 2002), các nhánh lá của Enteromorpha có dạng ống, màu xanh
lục và đôi khi bị tẩy trắng do sự thay đổi của điều kiện môi trường, để xác định
một loài chính xác của Enteromorpha cần kiểm tra trên kính hiển vi về chi tiết tế
bào của nó. Các tế bào trong Enteromorpha có thể thay đổi trong kích thước và
hình dạng từ loài này sang loài khác. Mỗi tế bào có chứa một lục lạp duy nhất,
thay đổi kích thước tùy thuộc vào kích thước của tế bào.
10
Vòng đời của rong bún Enteromorpha
Giống nhiều loài tảo khác, rong bún Enteromorpha có hai hình thức sinh sản: vô
tính và hữu tính. Thể bào tử có 2 bộ nhiễm sắc thể, ký hiệu là 2n. Trong khi đó
thể giao tử chỉ có 1 bộ nhiễm sắc thể 1n. Thông qua nguyên phân, giao tử được
sinh ra bởi thể giao tử và phát triển thành 1 thể bào tử và giảm phân tạo ra hợp tử
(tế bào sinh sản vô tính) và mỗi hợp tử phát triển thành 1 thể giao tử, thể giao tử
này sau đó tạo ra nhiều giao tử hơn và chu kỳ vẫn tiếp tục. Các giao tử đực và cái
có thể cùng hoặc khác kích thước, cả hai giao tử và hợp tử được sinh ra từ những
tản rong bún (Enteromorpha spp.), khi giao tử đực có màu cam vàng và giao tử
cái có màu xanh thì chúng bắt đầu kết hợp lại với nhau để tạo thành một cây rong
non. Các giao tử không thể tồn tại trong thời gian dài sau khi được phát tán nếu
chúng không tìm thấy một giao tử khác hoặc một nơi để phát triển (Budd and
Pizzola, 2002).
Hình 2.2 : Vòng đời rong bún Enteromorpha sp (Kirby, 2001).
Điều kiện sinh trưởng của rong Bún
Rong bún Enteromorpha phân bố chủ yếu ở các ao hồ nước tĩnh, nước trong, độ
mặn thấp. Trong các ao quảng canh, tự nhiên và ao nước thải, những ao hồ gần
khu dân cư hoặc trên các trảng có vật thể để bám dính. Mùa vụ xuất hiện rong
bún, thường vào mùa mưa khi mà độ mặn giảm thấp khoảng 2 - 25‰, vào mùa
nắng nóng rong bún ít xuất hiện và có hiện tượng tàn lụi (Nguyễn Văn Luận,
2011).
11
Theo khảo sát của Nguyễn Văn Tròn (2011), Rong bún Enteromorpha chỉ sống
và xuất hiện trong điều kiện nước có độ mặn thấp và nhiệt độ môi trường thấp.
Rong Bún sống tốt trong mùa mưa, nước lợ, nước trong và ở những nơi nước ít
lưu thông. Ngược lại rong bún bị tàn lụi trong điều kiện môi trường có độ mặn
cao và nắng nóng.
2.4.2.Rong Mền
Hệ thống phân loại
Ngành: Chlorophyta
Lớp: Ulvophyceae
Bộ: Cladophorales
Họ: Cladophoraceae
Giống: Chaetomorpha
Cladophora
Pithophora
Aegagropila
Rhizoclonium
Wittrockiella
Hình 2.3 : Rong mền Cladophora spp.
12
Rong Mền (Cladophora) dạng sợi, chi nhánh nhiều theo kiểu mọc bên, đối nhau,
chạc hai, chạc ba, mọc về một bên, hình lược hay mọc vòng thành chùm. Rong
sinh trưởng ở đỉnh. Bám bằng tế bào gốc lóe ra hay gễ giả. Rong sống một hay
nhiều năm, bám, trôi dạt thành bè, mảng hay phủ trên bùn. Màu lục, kích thước
tùy loài từ 4 - 20 cm (Nguyễn Hữu Dinh và ctv, 1993). Rong mền Cladophora Là
một giống của lớp Ulvophyceae. Các loài Cladophora phổ biến ở vùng biển ôn
đới và nhiệt đới, nhưng Cladophora không xuất hiện ở vùng biển Bắc cực. Trong
khu vực ôn đới và nhiệt đới chúng được tìm thấy trong nước ngọt, biển, cửa sông
và môi trường sống nước lợ (Hoek et al., 1995). Rong mền ngoài tự nhiên xuất
hiện rất bất thường, mà nguyên nhân là ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường sống
và giai đoạn phát triển của rong.
Vòng đời của Cladophora
Rong mền là loài rong có sợi đơn, các nhánh mọc từ đầu hoặc giữa của sợi rong.
Một số sinh sản vô tính bằng cách phân nhánh, một số khác phân đoạn. Trong
điều kiện bất lợi thì một số loài có thể sinh sản hữu tính bằng cách sản sinh ra bào
tử. Có hai giai đoạn đa bào trong chu kỳ cuộc sống của rong mền Cladophora,
một là thể giao tử (đơn bội) và hai là thể bào tử (lưởng bội), hai giai đoạn này
trông rất giống nhau. Cách duy nhất phân biệt hai giai đoạn trong chu kỳ sống của
rong mền Cladophora là căn cứ vào số lượng nhiễm sắc thể của chúng, hoặc kiểm
tra rong con. Thể giao tử (đơn bội) sinh ra giao tử đơn bội bằng cách nguyên phân
và thể bào tử (lưởng bội) sinh ra bào tử đơn bội bằng cách giảm phân. Chỉ có thể
nhìn thấy sự khác biệt giữa các giao tử và bào tử của Cladophora là các giao tử
có hai roi và các bào tử có bốn roi (Dodds và Gudder, 1992).
Nghiên cứu sinh thái học rong mền Cladophora spp. của Dodds and Gudder
(1992), Cladophora spp. cung cấp nơi trú ẩn và thức ăn cho nhiều loài sinh vật
thủy sinh. Chúng có thể là loài rong phổ biến nhất trong môi trường nước ngọt
trên thế giới. Loài rong sợi này có thể phát triển đến mức gây hại như hậu quả của
sự phì dưỡng trong nuôi trồng thủy sản. Cladophora có nhiều loài, rất là khó
trong việc phân loại chúng. Sự phân loại có thể được định danh rõ bằng cách nuôi
trồng đồng thời các loài được biết và nguồn giống thu từ tự nhiên ở cùng điều
kiện nuôi. Điều này có thể loại trừ sự khác nhau về kiểu sinh thái theo hình thái
học. Cladophora spp. chủ yếu sống ở đáy thủy vực và thường thấy ở những vùng
có dòng chảy một hướng hoặc hoạt động sóng theo chu kỳ. Sự trao đổi chất và
hình thái học của chúng liên quan đến các điều kiện động lực học chất nước. Nitơ
13
và phospho là hai chất dinh dưỡng chính giới hạn sự phát triển của Cladophora.
Rong mền Cladophora là loài phát triển nối tiếp giữa-sau trong thủy vực nước
ngọt nơi chúng chịu được các loài ăn thực vật trong quần xã nước mặn, tuy nhiên,
chúng được xem là loài cơ hội phát triển trước và tương đối thuận lợi cho các loài
động vật không xương sống. Cladophora spp. sống bám trên các động vật bởi vì
chúng có thể có chức năng bảo vệ các động vật từ vật ăn mồi, làm thức ăn cho các
động vật hoặc làm giá thể để hạn chế sự xáo trộn từ dòng chảy. Các loài tương tác
với nhau xảy ra trong quần xã Cladophora gồm 1) sự canh tranh với các vật sản
xuất sơ cấp, 2) kiểm soát tăng-giảm của sinh khối, 3) kết hợp sự cố định đạm với
các loài thực vật sống bám, 4) làm thức ăn cho các động vật không xương sống và
5) tạo chuỗi thức ăn phức hợp trong quần xã ở vùng triều và thủy vực nước ngọt.
Bởi vì Cladophora được tìm thấy ở nhiều môi trường sống khác nhau, hệ sinh
thái của chúng thay đổi rất lớn ở nơi chúng sống (Dodds and Gudder, 1992).
Sự phân bố
Rong mền Cladophoraceae xuất hiện phổ biến trong các thủy vực lợ mặn ở khu
vực châu Á. Ở nước ta, loài rong này thường sinh trưởng và phát triển mạnh trong
các thủy vực ven biển đồng bằng sông Cửu Long (Nguyễn Hoàng Duy, 2011).
Nhiều nghiên cứu cho rằng độ mặn là nhân tố giới hạn sự phân bố của nhiều loài
rong tảo. Rong mền Cladophoraceae được tìm thấy ở hầu hết các thủy vực từ
nước mặn trở vào đến nước ngọt. Các loài rong mền sống ở vùng triều là loài
rộng muối và thích nghi ở độ mặn cao tốt hơn so với rong mền nước ngọt
Cladophora glomerata. Loài rong mền Cladophora rupestris được tìm thấy ở các
vùng trung triều có độ mặn 5 – 30‰ (Dodds and Gudder, 1992). Cladophoraceae
chủ yếu sống ở đáy các thủy vực nước tĩnh từ các ao hồ tự nhiên cho đến các ao
đầm quảng canh. Chúng được xem là loài cơ hội phát triển trước và tương đối
thuận lợi cho các loài động vật không xương sống.
14
2.4.3. Rong Đá
Hệ thống phân loại
Ngành : Magnoliophyta
Lớp : Magnoliophyta
Bộ : Alismatales
Họ : Najadaceae
Giống : Najas sp.
Hình 2.4 : Rong đá Najas Minor
(Nguồn://nbii-nin.ciesin.columbia.edu/ipane/icat/browse.do?specieId=79)
Thân rong trụ tròn hay trụ dẹp, chi nhánh nhiều hay ít tùy từng loài, ở phần thân
thường có thân bó, từ đó mọc lên các thân cứng. Rong mọc thành bụi rậm hay
từng đám, màu đỏ lục hoặc đỏ nâu (Nguyễn Hữu Dinh và ctv, 1993). Rong Đá
(Najas sp.) thuộc loài thực vật thủy sinh có kích thước lớn, chiều dài có thể lên
đến 120 cm phổ biến ở môi trường nước ngọt, lợ. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát
triển của rong đá là từ 21 – 29
o
C, pH từ 6 – 7.2. Rong đá xuất hiện chủ yếu vào
mùa mưa khi độ mặn giảm thấp trong các ao, kênh tự nhiên đôi khi có mặt trong
các ao quảng canh (thời gian không canh tác, thả nuôi) và ao nước thải (Nguyễn
Hoàng Duy, 2011). Rong đá thường mọc ở những thủy vực nước tĩnh hoặc dòng
chảy yếu. Đây là loài phân bố rộng, được tìm thấy nhiều ở nước ta
(www.plantedtank.net/forums/191Najas sp Roraima Najas.html). Theo khảo sát
15
của Trần Phát Đạt, 2011 thì các nông hộ cho rằng rong đá là loài sống ở độ sâu
cao nhất khoảng 0,7 m, rong đá có thể sống được ở trên trảng và mương sâu do có
thân dài và rễ bám., các nông hộ củng cho rằng độ mặn thích hợp cho rong đá
phát triển từ 9 - 15‰. Theo Nguyễn Văn Tròn (2011), qua khảo sát này thì đa
phần các hộ nông dân cho là rong đá thường xuất hiện ở độ sâu khoảng 0,43 m và
độ mặn từ 10 - 13‰.
Phân bố của Najas
Trên thế giới, chúng phân bố phổ biến trong khu vực Châu Á, phân bố rộng trong
các thủy vực ngọt đến các thủy vực lợ mặn và sinh trưởng tốt trong môi trường có
độ mặn giao động thấp. Các loài thuộc chi Najas thường xuyên xuất hiện trong
các hồ tự nhiên, ao nước tĩnh, nơi ít bị ảnh hưởng bởi sóng, gió (Nguyễn Hoàng
Duy, 2011).
Theo một nghiên cứu so sánh về mức độ đa dạng sinh học trong các thủy vực và
hồ lớn ở Pakistan, nhóm nghiên cứu kết luận về tính đa dạng các loài rong biển,
và đánh giá được mức độ hiện diện của Najas graminea Raffeneaa- Dehile ở các
hồ tự nhiên cao hơn trong các đập, vùng ven bờ biển tại khu vực khảo sát.
Một khảo sát khác về sự đa dạng thành phần loài thực vật thủy sinh ở hồ lớn
thuộc huyện Thiruvallur, tỉnh Tamil Nadu Ấn Độ. Hai tác giả Muthulingam
Udayakumar và Kanakasanthi Ajithadoss đã báo cáo về mức độ phong phú của
các nhóm Najas indica, Najas minor, Najas graminea trong các hệ thống ao hồ
nhỏ của khu vực nghiên cứu.
2.5 Các yếu tố môi trường
2.5.1 Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến rong bún
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự phát triển của Enteromorpha bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố như cường độ ánh sáng, độ mặn, nhiệt độ và chất dinh dưỡng
(Kirby, 2001; Martins and Marques, 2002). Đối với nhiệt độ (Maith et al., 1986)
báo cáo cho rằng sự tăng trưởng của Enteromorpha flexuosa trong ao ở Ấn Độ
có thể sinh trưởng ở 30°C và duy trì ở nhiệt độ từ 15,5 - 30°C. Trên 33°C thì xảy
ra hiện tượng mất màu (rong có màu trắng), nhiệt độ sinh sản tốt nhất là dưới
30°C, trong vùng nước có pH khoảng 8,2.
Theo nghiên cứu Martins et al., (1999) về ảnh hưởng của độ mặn đến tốc độ tăng
trưởng của Enteromorpha đã được thử nghiệm các độ mặn từ 0 - 32 ‰, kết quả