Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

hiện trạng tài nguyên rừng và các giải pháp bảo vệ tài nguyên rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 39 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC DUY TÂN
KHOA MÔI TRƯỜNG

BI TẬP NHÓM
ĐỀ TI: “SUY GIẢM TI NGUYÊN RỪNG”
Giáo viên hướng dẫn :NGUYỄN THỊ HỒNG TÌNH
Nhóm : 8
Lớp : K15KMT
ĐÀ NẴNG, tháng .6 năm 2010
PHẦN MỞ ĐẦU

Rừng là tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham
gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ
bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt,
hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên
tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày nay,
nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, nạn phá rừng,
mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng càng bị thu hẹp lại.
Mất rừng và suy thoái rừng gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất tại
nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách
thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó
khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng
nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái
rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng.
MC LC
1.Khái quát vấn đề
1.1. Khái niệm
1.2. Vai trò của tài nguyên rừng
1.3. Phân loại


2. Hiện trạng tài nguyên rừng
2.1 Hiện trạng tài nguyên rừng trên thế giới
2.2 Hiện trạng ở Việt Nam
3.Nguyên nhân
3.1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất:
3.2. Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép:
3.3. Cháy rừng
3.4. Sức ép dân số
3.5. Nghèo đói
3.6. Hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học để lại:
3.7. Tập quán du canh du cư
3.8. Hiệu lực pháp luật và chính sách
4. Tác động của suy giảm tài nguyên rừng đến tự
nhiên – môi trường sống.
4.1. Ảnh hưởng với môi trường tự nhiên:
4.2. Ảnh hưởng của suy giảm tài nguyên rừng đến môi trường sống.
5. Giải pháp cơ bản bảo vệ tài nguyên rừng.
5.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về quản lý
bảo vệ rừng.
5.2. Quy hoạch, xác định lâm phận các loại rừng ổn định.
5.3. Hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật
5.4. Nâng cao trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền các cấp và sự
tham gia của các ngành, các tổ chức xã hội vào bảo vệ rừng.
5.5. Củng cố tổ chức, nâng cao năng lực của lực lượng kiểm lâm.
5.6. Hỗ trợ nâng cao đời sống người dân.
5.7. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng.
5.8. Ứng dụng khoa học công nghệ.
5.9. Tài chính.
5.10. Hợp tác quốc tế.
1.Khái quát vấn đề

Quá trình suy giảm tài nguyên rừng
1.1. Khái niệm
Suy giảm tài nguyên rừng là hiện tượng suy giảm,do con người gây ra làm
giảm trữ lượng lâm sản tại các vùng rừng trong một thời gian nhất định.
1.2. Vai trò của tài nguyên rừng
 Là hệ sinh thái đa dạng và giàu có nhất trên cạn, đặc biệt là rừng ẩm nhiệt
đới.
 Rừng có vai trò to lớn về môi trường và phát triển, là nguồn cung cấp
nguyên vật liệu cần thiết cho con người.
Suy giảm
tài
nguyên
rừng
Lấn chiếm mở
rộng đất canh
tác
Khai thác lấy gỗ
Nạn cháy rừng
Khai thác lâm sản
ngoài gỗ
 Rừng cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến, dược liệu, du lịch, giải trí…
 Rừng là “ lá phổi xanh” hấp thụ CO
2
, tái sinh O
2
, điều hòa khí hậu cho khu
vực.
Về tác dụng cân bằng sinh thái, rừng có vai trò vô cùng quan trong:
 Trước hết, rừng có ảnh hưởng đến nhiệt độ, độ ẩm không khí, thành phần

khí quyển và có ý nghĩa điều hòa khí hậu.
 Rừng là vật cản trên đường di chuyển của gió và có ảnh hưởng đến tốc độ
cũng như hướng gió
 Rừng không chỉ chắn gió mà còn làm sạch không khí và có ảnh hưởng đến
vòng tuần hoàn trong tự nhiên.
 Rừng có vai trò bảo vệ nguồn nước bảo vệ đất chống xói mòn.
 Thảm thực vật có chức năng quan trọng trong việc ngăn cản một phần nước
mưa rơi xuống đất và có vai trò phân phối lại lượng nước này.
 Thảm mục rừng là kho chứa các chất dinh dưỡng khoáng, mùn và ảnh
hưởng lớn đến độ phì nhiêu của đất.
 Là nơi cư trú của hàng triệu loài động vật và vi sinh vật, rừng được xem là
ngân hàng gen khổng lồ, lưu trữ các loại gen quý.
Theo thống kê, một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500
kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). Mỗi người một năm cần
4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m2 cây xanh tạo ra trong
năm. Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5oC.
Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão. Hệ số dòng chảy mặt trên đất có độ che phủ
35% lớn hơn đất có độ che phủ 75% hai lần. Lượng đất xói mòn của rừng bằng 10%
lượng đất vùng đất không có rừng. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nơi
cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Vì vậy, tỷ lệ đất có rừng che phủ của
mỗi quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường quan trọng. Diện tích
đất có rừng của một quốc gia tối ưu phải đạt 45% tổng diện tích.
 Tầm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống, giữ vai trò to lớn đối với
con người.
Sự suy giảm tài nguyên rừng không chỉ ảnh hưởng đến quốc gia bản địa
mà còn cả thế giới.
1.3. Phân loại
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng có thể được phân thành các loại
sau đây:
 Rừng phòng hộ: được sử dụng chủ yếu dể bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất,

chống xối mòn, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường
sinh thái. Rừng phòng hộ được phân thành các loại: Rừng phòng hộ đầu nguồn,
Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển, Rừng
phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
 Rừng đặc dụng: được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn
hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen thực vật, động vật rừng,nghiên cứu khoa
học, bảo vệ di tích kịch sử, văn hoá và danh la, thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi, du
lịch. Rừng đặc dụng được chia thành các loại: Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, khu rừng văn hoá- xã hội, nghiên cứu thí nghiệm.
 Rừng sản xuất: được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh dpanh gỗ, các lâm
san khác, dặc sản rừng và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái. Rừng sản
xuất được nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có đủ
điều kiện quy định dể sản xuất, kinh doanh theo hướng thâm canh, nông- lâm-
nghiệp kết hợp.
2. Hiện trạng tài nguyên rừng
2.1 Hiện trạng tài nguyên rừng trên thế giới
Trên toàn thế giới, ước tính có khoảng 3.870 triệu ha rừng, trong đó 95% là
rừng tự nhiên và 5% rừng trồng. Phá rừng nhiệt đới và suy thoái rừng ở nhiều vùng
trên thế giới đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến các loại hàng hoá và dịch vụ
từ rừng. Diện tích rừng ở các nước phát triển đã ổn định và đang tăng nhẹ, còn ở các
nước đang phát triển, phá rừng vẫn đang tiếp diễn. Mức thay đổi ước tính hàng năm
diện tích rừng trên toàn thế giới (thập kỷ 90) là 9,4 triệu ha, là số liệu dựa trên mức
phá rừng hàng năm là 14,6 triệu ha và diện tích rừng tăng ước tính là 5,2 triệu ha.
Tài nguyên rừng trên trái đất ngày càng bị thu hẹp về diện tích và trữ lượng.
Số liệu thống kê cho thấy, diện tích rừng Trái đất thay đổi theo thời gian sau:
 Ðầu thế kỷ 20: 6 tỷ ha
 Năm1958 :4,4 tỷ ha
 Năm1973 : 3,8 tỷ ha
 Năm1995 : 2,3 tỷ ha.
- Hằng năm trên thế giới mất đi trung bình 16,1 triệu ha rừng, trong đó rừng

nhiệt đới bị suy giảm với tốc độ lớn nhất 15,2 triệu ha.
- Diện tích rừng bình quân thế giới trên đầu người 0,6 ha/người.
- Phần lớn đất rừng rất thích hợp cho canh tác nông nghiệp.
- Hiện nay rừng nhiệt đới chỉ còn khoảng 50% diện tích so với trước đây.
2.2 Hiện trạng ở Việt Nam
 Mất rừng xảy ra phổ biến ở nhiều nơi.
Mặc dù tổng diện tích rừng toàn quốc tăng trong những năm qua, nhưng diện
tích rừng bị mất còn ở mức cao. Thống kê từ năm 1991 đến tháng 10/2008, tổng
diện tích rừng bị mất là 399.118ha, bình quân 57.019ha/năm. Trong đó, diện tích
được Nhà nước cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất có rừng là 168.634ha;
khai thác trắng rừng (chủ yếu là rừng trồng) theo kế hoạch hàng năm được duyệt là
135.175ha; rừng bị chặt phá trái phép là 68.662ha; thiệt hại do cháy rừng 25.393ha;
thiệt hại do sinh vật hại rừng gây thiệt hại 828ha
Như vậy, diện tích mất chủ yếu do được phép chuyển đổi mục đích sử dụng và
khai thác theo kế hoạch chiếm 76%; diện tích rừng bị thiệt hại do các hành vi vi
phạm các quy định của Nhà nước về quản lý bảo vệ rừng tuy có giảm, nhưng vẫn ở
mức cao làm mất 94.055ha rừng, chiếm 23,5% trong tổng diện tích rừng mất trong
7 năm qua, bình quân thiệt hại 13.436ha/năm
 Tình trạng vi phạm pháp luật còn nghiêm trọng.
Từ năm 1999 đến tháng 10 năm 2008, cả nước đã phát hiện, xử lý 494.875 vụ
vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Mặc dù tình trạng vi phạm giảm qua các năm, nhưng số vụ vi phạm còn lớn, diễn ra
phổ biến ở nhiều nơi, những cố gắng trong ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật
chưa tạo được chuyển biến căn bản.
Tình hình chống người thi hành công vụ diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt,
hung hãn. Hành vi chống đối có tổ chức (có nơi bầu người lãnh đạo, tổ chức canh
gác, đặt bẫy chông, đá, đập phá phương tiện, tài sản…), dùng các thủ đoạn trắng
trợn và côn đồ, như: đập phá phương tiện của các cơ quan và cán bộ có thẩm quyền,
đe doạ xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản của người thi hành công vụ và thân
nhân, gia đình họ, khi bị phát hiện hành vi vi phạm, chúng dùng nhiều phương tiện

tấn công, kể cả việc đâm xe vào lực lượng kiểm tra, dùng kim tiêm có máu nhiễm
HIV để tấn công
Do lợi nhuận cao từ buôn bán gỗ và động vật hoang dã trái phép, nên tình hình
diễn ra phức tạp ở hầu khắp các địa phương. Đầu nậu thường giấu mặt, thuê người
nghèo vận chuyển, thu gom, tập kết gỗ, động vật hoang dã tại những điểm bí mật
rồi tổ chức vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Nhiều thủ đoạn tinh vi được chúng sử dụng
để vận chuyển, tiêu thụ gỗ trái phép, động vật hoang dã trái phép như: dùng xe
khách, xe chuyên dùng, xe cải hoán (hai đáy, hai mui, dùng biển số giả…), giấu gỗ
dưới hàng hóa khác, kết gỗ chìm dưới bè, sử dụng giấy tờ quay vòng nhiều lần
Gần đây xuất hiện một số đường dây buôn bán gỗ, động vật hoang dã xuyên biên
giới, quá cảnh qua nước ta sang nước thứ ba.
 Tình hình phòng cháy, chữa cháy rừng.
Từ năm 1995 đến tháng10/2008, cả nước xảy ra 10.444 vụ cháy rừng, gây thiệt
hại 75.318 ha rừng, bình quân mỗi năm bị cháy 5.380 ha.
Rừng bị cháy trong những năm gần đây chủ yếu là rừng trồng, với các loài cây
chính là thông, tràm, bạch đàn, keo; đối với rừng tự nhiên, chủ yếu là cháy rừng
nghèo kiệt, rừng khoanh nuôi tái sinh mới được phục hồi. Nguyên chủ yếu trực tiếp
gây ra cháy rừng là: Do đốt dọn thực bì làm nương rẫy, đốt dọn đồng ruộng gây
cháy, chiếm 41,80%; do người vào rừng dùng lửa để săn bắt chim thú, đốt đìa bắt
cá, trăn, rùa, rắn…, hun khói lấy mật ong, chiếm 30,9%; đốt dọn thực bì tìm phế
liệu 6,1%; cháy lân tinh 5,5%; hút thuốc 3%; đốt nhang 2%; cố ý 5%; nguyên nhân
khác 5,7%.
 Phòng trừ sinh vật hại rừng.
Những năm qua, trên diện tích rừng cả nước chưa xảy ra dịch bệnh làm mất
rừng với quy mô lớn. ở một số địa phương như: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng trị, Thừa Thiên Huế có xảy ra hiện tượng dịch sâu róm hại rừng
trồng loài cây thông, có năm diện tích rừng thông bị nhiễm bệnh lên đến hàng chục
ngàn hécta, đã ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng xuất nhựa. Ngành lâm
nghiệp đã sử dụng nhiều biện pháp kỹ thuật phòng, trừ, như phun thuốc sâu, biện
pháp sinh học Tuy nhiên, công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật về

phòng trừ sinh vật hại rừng còn rất hạn chế, chủ yếu mới thực hiện các giải pháp
ứng phó khi dịch xảy ra, các biện pháp phòng sinh vật hại rừng chưa được quan tâm
đúng mức, do vậy, sẽ rất lúng túng nếu dịch xảy ra trên quy mô lớn. Theo quy định
hiện hành của pháp luật, công tác quản lý về phòng trừ sinh vật hại rừng được giao
cho hệ thống cơ quan bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống các cơ quan
này mới chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ cây trồng nông nghiệp, chưa có đầy đủ
năng lực để thực hiện các biện pháp phòng trừ sinh vật hại rừng.

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta
Rừng nước ta ngày càng suy giảm về diện tích
và chất lượng, tỉ lệ che phủ thục vật dưới ngưỡng
cho phép về mặt sinh thái, ¾ diện tích đất đai của
nước ta(so với diện tích dất tự nhiên) là đồi núi, khí
hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên rừng rất quan trọng
trong việc cân bằng sinh thái. Đất có rừng phải
được duy trì tối thiểu 50-60%, vùng đồi núi phải là
80-90%, vùng đầu nguồn sông suối phải là 100%.
Rừng ngập mặn với diện tích 450 nghìn ha có
tác dụng cung cấp gỗ và than. Đồng thời có tác
dụng giữ và cải tạo đất, là nơi cư trú và sinh sản
của các loài thuỷ sinh. Đất lâm nghiệp chiếm 30%
diện tích đất tự nhiên(rừng tự nhiên 26%, rừng
trồng 4%). Tỉ lệ che phủ còn dưới tiêu chuẩn cho
phép do uỷ ban Môi trường quốc tế đưa ra và áp
dụng cho toàn cầu là 33%. Tỉ lệ che phủ ở tây bắc
chỉ còn 13,5%, đông bắc còn 16,8%.Theo điều tra của năm 1993 , nước ta còn
khoản 8,631 triệu ha rừng (trong đó có 5.169 ngàn ha rừng sản xuất kinh doanh,
2.800 ngàn ha rừng phòng hộ , 663.000 ha rừng đặc dụng). Rừng phân bố không
đồng đều , tập trung cao nhất ở khu vực tây nguyên (dăk lăk 1.253 ngàn ha , gia lai
838.6000 ha ), kế là miền trung du phía bắc ( Lai châu 229.000 ha) và thấp nhất ở

đồng bằng sông cửu long ( an giang 100 ha).
Là một quốc gia đất hẹp người đông,
Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại
thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha
rừng, trong khi mức bình quân của thế giới
là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống kê cho
thấy, đến năm 2000 nước ta có khoảng gần
11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên
chiếm khoảng 9,4 triệu hecta và khoảng 1,6
triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng
chỉ đạt 33% so với 45% của thời kì giữa
những năm 40 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực trong việc thực hiện
các chủ trương chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng,
"phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên nhiều năm gần đây diện tích rừng ở nước ta
đã tăng 1,6 triệu hecta so với năm 1995, trong đó rừng tự nhiên tăng 1,2 triệu hecta,
rừng trồng tăng 0,4 triệu hecta. Ở nhiều tỉnh, rừng tự nhiên giàu còn lại rất thấp,
như Lai Châu còn 7,88%, Sơn La 11,95%, và Lào Cai 5,38%. Sự suy giảm về độ
che phủ rừng ở các vùng này là do mức tăng dân số đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản
và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành đất hoang cằn
cỗi. Những khu rừng còn lại ở vùng núi phía Bắc đã xuống cấp, trữ lượng gỗ thấp
và bị chia cắt thành những đám rừng nhỏ phân tán.
3.Nguyên nhân

Chuyển đổi mục đích sử dụng đất

Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép

Cháy rừng

Sức ép dân số


Nghèo đói

Hậu qủa của cuộc chiến tranh để lại

Tập quán du canh du cư

Hiệu lực pháp luật và chính sách
Đi vào tìm hiểu 8 nguyên nhân trên chúng ta có thể nhìn nhận được suy thoái
rừng ở Việt Nam đang là vấn đề đáng lo ngại.
3.1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất:
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất
sản xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là
nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh
học. Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng. Do chưa hiểu
hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế
trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt
Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả của việc phá rừng ngập mặn lấy đất
nuôi tôm một cách bừa bãi như hiện nay là huỷ hoại môi trường, làm suy giảm mức
sống của nhiều người dân nghèo ven biển, ảnh hưởng xấu đến chủ trương xoá đói
giảm nghèo và phát triển bền vững của Chính phủ.Nhiều cơ quan quản lý ở Trung
ương và địa phương chưa đánh giá đúng vai trò to lớn của hệ sinh thái rừng ngập
mặn; buông lỏng quản lý trong việc sử dụng tài nguyên vùng ven biển có rừng ngập
mặn; không kiên quyết xử lý việc phá rừng để nuôi tôm. Nhiều địa phương chỉ chú
trọng đến lợi ích trước mắt là tôm xuất khẩu mà chưa tính đến hậu quả lâu dài do
thiên tai và suy giảm tài nguyên khi không còn rừng, nên rừng bị tàn phá khắp nơi.
Phần lớn các dự án nuôi tôm không thực hiện việc đánh giá tác động môi trường mà
hình như các cơ quan hữu quan cũng không lưu ý nhắc nhở thực hiện luật pháp.
Ngành lâm nghiệp cũng chưa quan tâm đến việc tuyên truyền giáo dục về lợi ích lâu
dài của rừng ngập mặn nên việc đấu tranh để bảo vệ rừng của cộng đồng còn yếu.

Vì mất nguồn sinh sống, một số người có thể biết là sai nhưng vẫn phải làm để nuôi
gia đình, đó là dùng lưới mắt nhỏ, đăng bắt hết tôm tép hoặc dùng chất nổ, xung
điện để huỷ diệt nguồn lợi.
Ngoài khai phá rừng để làm đầm tôm người dân còn phá rừng để trồng cà phê.
Mặt khác, do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành thuỷ sản và lâm nghiệp nên
không những mất rừng, mà sự cân bằng sinh thái suy giảm và cuộc sống của cộng
đồng ven biển bị xáo trộn. Có thể khẳng định, việc nuôi tôm và trồng cà phê không
có quy hoạch là mối đe doạ lớn nhất đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn và làm
giảm diện tích rừng.
3.2. Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép:
Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài
nguyên rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị
suy thoái một cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự
phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra
nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng
là hành động do chính con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau
mà con người đã sử dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên
rừng. Với các mục đích khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở
đây được chia thành 3 hoạt động: khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản
ngoài gỗ.
 Khai thác gỗ: Ngày nay, khi giá gỗ tăng cao, con người đã không ngừng
tiến hành khai thác các loài nhóm gỗ trên theo các mục đích của mình. Họ khai phá
để phục vụ cho các công trình xây dựng như làm giàn giáo, cốppha. Đối với loài gỗ
bền chắc thì họ khai thác để xây dựng nhà ở, đối với loài gỗ quý hiếm thì họ khai
thác nhằm để bán và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xa xỉ của con người.
Việc khai thác các loài gỗ quý hiếm để phục vụ mục đích kinh doanh xuất khẩu
hiện nay đang là một nguồn lợi tức đáng kể cho quốc gia có trữ lượng lớn gỗ quý
như Việt Nam.Với tốc độ đáng lo ngại nạn khai thác rừng chủ yếu diễn ra ở các khu
rừng nhiệt đới đang dần đưa đến nguy cơ mất rừng. Như rừng Amazône là khu rừng
nguyên sinh lớn nhất hành tinh hiện nay cũng đang bị khai phá nghiêm trọng cũng

với tốc độ khai phá này thì chỉ trong vài mươi năm nữa thì khu rừng sẽ bị huỷ diệt
hoàn toàn và lúc đó con người sẽ nhận những hậu quả khó lường xẩy ra do sự biến
đổi khí hậu trên trái đất.
 Khai thác củi : Đối với các loại gỗ ngoài giá trị xây dựng công trình, xây
dựng nhà ở, phục vụ kinh doanh xuất khẩu thì những loại thực vật kém giá trị khác
lại được con người khai thác với mục đích là làm củi đốt. Nhiều người dân ở vùng
miền núi và nông thôn chiếm một phần dân số đông so với cả nước, đã theo thói
quen trong sinh hoạt họ chỉ dùng củi để làm nguyên liệu đốt và dùng với lượng củi
khá cao. Những hộ gia đình nghèo không có đất sản xuất, vốn đầu tư đã vào rừng
khai thác củi bán đều có thêm thu nhập. Với dân số 84 triệu người hiện nay, thì nhu
cầu về lượng củi đốt như hiện nay cũng tăng theo. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho
việc tàn phá rừng tiếp tục tiếp diễn.
 Khai thác lâm sản ngoài gỗ: Ngoài khai thác gỗ quý hiếm còn khai thác củi
thì khai thác lâm sản ngoài gỗ cũng là một sự tàn phá đến tài nguyên rừng. Đây có
thể xem là nguyên nhân tác động làm suy kiệt tài nguyên rừng nhanh nhất. Lâm sản
ngoài gỗ bao gồm các loài động vật quý, động vật hoang dã… và các loại thực vật
mà cho các sản phẩm ngoài gỗ như: song, mây, tre, nứa, lá các loại cây thuốc,
dầu… Tất cả các loài trên có thể được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu cho
nên tình trạng khai thác, buôn bán trái phép, xuất khẩu các loài động vật thực vật
đang được diễn ra mạnh mẽ. Giá trị xuất khẩu cao của các loài nói trên cùng với sự
kém hiểu biết, hám lợi nhuận đã thúc đẩy con người tìm cách săn bắt chúng ở khắp
mọi nơi. Cùng xuất phát từ sự nghèo đói mà người dân đổ xô vào rừng khai thác các
nguồn lâm sản ngoài gỗ. Chỉ vì khai thác quá mức để bán ra các tỉnh và cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất đũa, chiếu và làn giàn giáo cho các công trình
xây dựng mà dẫn đến suy thoái các rừng luồng nghiêm trọng. Và đang còn rất nhiều
hoạt động khai thác các loài động vật thực vật khác theo từng mục đích riêng ảnh
hưởng tới môi trường. Các hoạt động khai phá trái phép này kéo dài âm ỉ, liên tục,
tốc độ của sự phục hồi rừng không kịp với tốc độ phá rứng cho nên rừng đang bị
suy thoái. Cần có các biện pháp tích cực để ngăn chặn và làm giảm các hoạt động
trái phép này.

3.3. Cháy rừng
Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng
một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện
tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con
người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể
đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác
của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ
trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi…
những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy. Và hầu hết các diện tích
rừng bị cháy đều nằm trong những vùng nhạy cảm như rừng đầu nguồn, đất dốc,
vùng sinh thái đất ngập nước, rừng tràm, vùng rừng chống cát di động nên dễ gây lũ
quét, xói lở, đất dễ bị khô hạn và thoái hoá. Cháy rừng sẽ nhanh chóng lan ra trên
một diện tích rộng lớn và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất nghiêm trọng. Sự
phục hồi và tái tạo lại rừng trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên
rừng đang cạn kiệt dần đi.
3.4. Sức ép dân số
Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa
dạng sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong
sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông
nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm
trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Khi chưa có sự xuất hiện của
con người, rừng che phủ hầu hết đất đai của các lục địa, trong lịch sử phát triển của
loài người vào thời kì đồ đá cũ, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào rừng bằng
các hoạt động săn bắt và hái lượm, các hoạt động này không gây thiệt hại gì cho
rừng. Đến khi con người bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt thì con người có những
hoạt động tác hại đến rừng, mặc dù các tác động này có phần nào hạn chế sự phát
triển của rừng nhưng cũng chưa đáng kể lắm. Từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên trở
về sau thì rừng mới thực sự bị con người tấn công khai phá. Sự tấn công khai phá
rừng ngày càng được thấy rõ nét hơn, khi dân số đông dần lên, nông nghiệp ngày
càng mở rộng đồng thời nghề luyện kim xuất hiện. Con người đốt rừng để trồng tỉa,

lấy gỗ để làm nhiên liệu, đồ gỗ làm thuyền làm bè… Cứ như thế rừng bị thu hẹp
dần. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, đời sống của con người dần được
nâng lên, nhu cầu trong đời sống của họ cũng dần tăng cùng theo đó. Và dần dần,
dân cư ngày càng tập trung ở các đô thị để dễ dàng trao đổi buôn bán… thoã mãn
nhu cầu của họ, gây nên tình trạng mất cân đối giữa dân cư ở nông thôn và thành
thị. Người dân ồ ạt ra thành thị kiếm sống dẫn đến tình trạng đô thị hoá, đòi hoỉ nền
kinh tế ở khu vực này phải phát triển tương đồng để đáp ứng đầy đủ việc làm cho
người dân. Và khi nhu cầu con người trong tất cả các lĩnh vực tăng cao, nhu cầu
việc làm cũng tăng thì các nhà máy, xí nghiệp, các công ty, cơ sở chế biến… bắt
đầu được hình thành. Nhưng diện tích đất thành thị chỉ chiếm một phần rất nhỏ cho
nên tất cả các hoạt động tiêu dùng và sản xuất, khai thác chế biến không thể diễn ra
ở đây, chẳng hạn như xây dựng nhà máy xi măng, nhà máy gạch, các nhà máy chế
biến nguyên liệu mía, sắn… thì không thể xây dựng trong địa bàn thành thị vì lí do
đảm bảo đầu vào nguyên liệu dễ dàng, đảm bảo môi trườmh không bị ô nhiễm ở
thành thị thì buộc họ phải chuyển đến một nơi cách xa thành thị, cách xa nơi sinh
sống, chuyển đến một địa bàn nào đó để xây dựng cở sở sản xuất cho mình. Và dần
họ lấn chiếm vào rừng, nơi có diện tích khá rộng và tiến hành khai thác tàn phá
rừng để xây dựng các nhà máy xí nghiệp. Và tại các vùng nông thôn thì dân số tăng
thì buộc người dân phải mở rộng diện tích đất canh tác để sản xuất đủ lương thực
đảm bảo cho cuộc sống. Điều tất nhiên là người dân không thể mở rộng diện tích
đất sản xuất xuống cac vùng đô thị, diện tích đất đồng bằng chiếm phần rất ít thì
buộc họ phải tiến sâu vào rừng, bất đầu chặt phá rừng để lấy đất tiến hành sản xuất.
Ban đầu chỉ khai thác một phần diện tích nhỏ và sau một thời gian dài, ngoài nhu
cầu mở rộng đất canh tác mà nhu cầu về nhà ở của con người cũng tăng lên. Do nền
kinh tế phat triển, giá cả đất tại các đô thị rất cao nhưng người dân họ không đủ khả
năng để mua nhà tại các vùng đồng bằng và đương nhiên họ sẽ chuyển lên địa bàn
mà nơi họ có khả năng mua nhà ở và rừng được xem là địa bàn sinh sống tiềm năng.
Khi dân số tăng nhanh không những nhu cầu về việc làm, nhà ở tăng mà bên cạnh
đó nhu cầu giả trí ăn uống du lịch… của con người cũng tăng nhiều hơn khi đời
sống người dân được nâng lên họ muốn được ăn những thứ ngon, những thứ lạ,

dùng những sản phẩm độc đào từ thên nhiên, muốn có nguồn vật liệu xây dựng như
sản phẩm từ gỗ quý hiếm như: giáng hương (Pterocarpus macrocarpus), gụ (Sindora
siamensis), sao đen (Hopea odaratu). Có cầu ắt sẽ có cung và con người lại tiếp tục
vào rừng tìm kiềm các loài động thực vật quý hiếm để săn bắt, khai thác với mục
đích bán cái trên thị trường cần để có thêm thu nhập. Tài nguyên rừng thì có hạn mà
nhu cầu con người thì ngày càng tăng và chỉ trong một thời gian ngắn các loài động
vật, thực vật quý hiếm đã bị khai thác cạn kiệt, thậm chí có nguy cở bị tiêu diệt làm
cho số lượng và chủng loài sinh vật ngày càng giảm đi. Vậy có thể nói sức ép dân
số cũng tác động mãnh mẽ đến sự suy thoái tài nguyên rừng, con người cần có sự
khai thác hợp lý có kế hoạch để hạn chế tình trạng kahi thác rừng bừa bài làm giảm
tài nguyên rừng một cách đáng kể.
3.5. Nghèo đói
Suy thoái môi trường có nhiều nguyên nhân trong đó một phần là do sự đói
nghèo tác động nên. Đói nghèo luôn đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất đã
dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức làm tăng sự khan hiếm
và suy thoái. Với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là một nước
nông nghiệp phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Đất nông nghiệp ở nhiều nơi
thiếu nghiêm trọng và nhiều người phải sống dựa vào rừng, đời sống rất thấp
khoảng 50% gia đình thuộc vào diện đói nghèo. Vì thiếu ruộng, thiếu vốn đầu tư
những người nghèo đói thường phải đến sinh sống tạo những nơi có điều kiện
không thuận lợi mà cần ít vốn đầu tư phải bóc lột đất và tài nguyên thiên nhiên để
duy trì cuộc sống làm cho các loại tài nguyên nay dần bị suy thoái nhanh chóng.
Nhưng cũng phải chứng tỏ một điều là: nghèo đói không đồng nghĩa với việc được
tàn phá rừng như hoạt động khai thác gỗ, củi, đặc sản rừng… để đem đi bán. Nhưng
vì nghèo, không có đất sản xuất, không có vốn đầu tư, buộc họ phải tàn phá để nuôi
sống bản thân và gia đình họ, có thể số củi, gôx mà họ khai thác được chỉ bản ra với
giá là 50.000 đồng nhưng số tiền đó lại nuôi được gia đình họ trong một tuần. nếu
thu nhập một người/ ngày mà thấp hơn 15.000 thì được xét là hộ nghèo thì những
hộ gia đình ố lại có cuộc sống khó khăn hơn. Các hoạt động khai phá của họ cũng
một phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho những người giàu có, phục vụ mục đích

kinh doanh cho những con người có tiền bạc. Tuy hoạt độngấnỳ mang tính nhỏ lẻ,
manh múm, không ồ ạt nhưng lại được lặp đi lặp lại trong một thời gian khá dài nên
rất khó quản lý và gây nên tình trạng cạn kiệt dần của tài nguyên rừng. Khi rừng
ngày càng giảm về số lượng cây trồng, vật nuôi hay diện tích rưùng bị thu hẹp đã
dẫn đến hiện tượng hạn hán lũ lụt, khả năng ngăn chặn xói mòn đất là rất kém. Cho
nên mỗi lần thiên tai ập đến lại chính những người nghèo tiếp tục gánh chịu tổn thất
nặng nề hơn do phải sống gần rừng. Vốn dĩ họ đã nghèo nay lại càng nghèo hơn, sự
nghèo đói luôn xây quanh cuộc sống của họ, dường như họ khó có thể thoát ra được
cuộc sống tiếp tục phá rừng lấy gỗ,củi, đặc sản rừng bán để có thu nhập. Vì mục
đích là có thu nhập nuôi sống gia đình mình mà các hộ dân nghèo đói đang dần dần
làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vậy cần có các chính sách hỗ trợ giải
quyết việc làm cho hộ nghèo đói như các chương trình phát triển ngành nghệ phụ…
để giảm bớt hiện tượng khai thác rừng.
3.6. Hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học để lại:
Cuộc chiến tranh hoá học chính là những cuộc chiến tranh bằng chất độc da
cam/đioxin mà quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng và rải lên đất nước Việt Nam trong các
cuộc chiến tranh. Với số lượng rất lớn chát độc hoá học đã rải, lặp đi lặp lại nhiều
lần trong một quãng thời gian dài với nồng đọ cao, chúng ngấm và dần phân huỷ
trong đất, không những đã làm chết cây cối mà còn gây ô nhiễm môi trường trong
một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên. Những hậu quả tức thời
và lâu dài của chất độc hoá học đối với tài nguyên và môi trường rừng là rất rõ ràng.
Trong quá trình bị tác động, hàng trăm loài cây đã bị trút lá, đáng quan tâm nhất là
những cây gỗ lớn thuộc tầng nhô và tầng ưu thế sinh thái thuộc họ dầu
( Dipterocarpaceae), họ đậu ( Fabaceae). Nhiều loài cây gỗ quý hiếm như giáng
hương ( Pterocarpus macrocarpus), gụ ( Sindora siamensis), sao đen ( Hopea
odorata)… và một số cây họ dầu thuộc tầng cao trong rừng đã bị chết dẫn đến khan
hiếm nguồn hạt giống củamột số loài cây quý. Tán rừng bị phá vỡ, môi trường rừng
bị thay đổi nhanh chóng, những loài cây của rừng thứ sinh như tre, nứa, các loài cây
gỗ ưa ánh sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế thì chúng xuất hiện và lấn át cây gỗ
bản địa. Nhiều khu rừng đã bị phá huỷ nặng nề do quy mô phá hoại rộng lớn và lặp

đi lặp lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, kèm theo với các tác động khác của
bom đạn… Hậu quả là cây rừng bị chết đi, các loài cây cỏ dại như cỏ Mỹ
( Pennisetum polystachyon), cỏ tranh(Imperate cylindrica), lau lách xâm lấn và đến
nay rừng vẫn chưa được phục hồi. Ngoài ra, chất độc hoá học rải lên rừng còn gây
thiệt hại nhiều cho các loại tài nguyên khác ngoài gỗ chưa được tính đến như dầu
nhựa, cây thuốc, song mây và các loài động vật rừng. Và hậu quả của cuộc chiến
tranh hoá học của Mỹ rải xuống còn dẫn đến nhiều thiệt hại khác về môi trường và
tính đa dnạg sinh học làm cho quá trình trút lá ồ ạt đã dẫn đến hiện tượng ứ đọng
dinh dưỡng và có 10-15 triệ hố bom chiếm khoảng 1% diện tích rừng Nam Việt
Nam làm cho lớp đất mặt bị đảo lộn và thúc đẩy quá trình rửa trôi đất. hậu quả trên
cản trở trực tiếp đến diễn thế phục hồi rừng và tác động xấu đến rừng phòng hộ đầu
nguồn. Tuy những năm gần đây, cây rừng cũng đã được chăm sóc, được đầu tư phát
triển thêm nhưng chất lượng và số lượng vẫn không được cao. Qua phân tích trên
chúng ta thấy rằng hậu quả mà cuộc chiến tranh hoá học để lại là giảm diện tích
rừng, làm cho tài nguyên rừng Việt Nam bị tổn thương rất nặng nề. Mặc dù, đã trải
qua trên 30 năm nhưng vết thương đó
vẫn chưa lành, diện tích rừng thì có
nhiều biến đổi theo xu hướng suy giảm
do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng
chiến tranh hoá học của Mỹ đã để lại
một hậu quả tàn khốc lên tài nguyên
rừng Việt Nam.
3.7. Tập quán du canh du cư
Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít
người ở Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên. nơi
nhằm ổn định sản xuất và đời sống trong một phạm vi lãnh thổ cố định. Vào mùa
khô và thường là cuối mùa đông( miền Bắc Việt Nam), người dân thường vào sâu
trong rừng tìm một khoảnh đất rừng phù hợp, đốt cháy mảnh diện tích đủ rộng theo
ý muốn( thường là không thể điều khiển theo mục đích người đốt vì lửa rừng bị tác
động của gió và độ ẩm, nhiệt độ tại khoảnh rừng). Và đến đầu mùa mưa, người ta đi

tra hạt( chủ yếu là ngô), hoặc ươm sắn, lợi dụng lượng nước ẩm do mưa, hạt giống
sẽ nảy mầm, cây sinh trưởng rất tốt do đất dưới tán rừng có hàm lượng dinh dưỡng
rất cao và cũng nhờ than tro của việc đốt rừng tiến hành. Nhưng người dân canh tác
ở đây lại ít có tác động tới cây trồng mà chủ yếu là thoái mặc chúng cho tự nhiên và
tới mùa thì thu hoạch. Thông thường chỉ sau 3-4 mùa rẫy, do nước mưa rửa trôi và
xói mòn, mặt khác lại không được bổ sung các chất dinh dưỡng nên đất rẫy sẽ
nghèo dinh dưỡng, cây trồng phát triển kém. Lúc này, người dân sẽ bỏ rẫy cũ, tìm
đến một khoảnh rừng mới và lại đốt rừng thành rẫy. Cuộc sống của họ thường gắn
bó với rẫy nên cả gia đình, bản làng cùng di cư theo rẫy. Và đây chính là tập quán
du canh du cư, là một tập tục cũ, lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, cuộc sống người
dân bấp bênh gây thoái hoá đất, mất rừng. Vì tập tục này thường xuất hiện ở các
vùng miền núi nên cũng có thể hiểu rằng, họ không có đất để sản xuất và trình độ
hiểu biết của người dân miền núi vẫn đang còn hạn chế, chỉ vì mưu sinh cuộc sống
qua ngày nên họ chỉ tập trung sản xuất trong một thời gian rất ngắn đáp ứng nhu
cầu hiện tại của họ, người dân phó mặc thiên nhiên mà không có đầu tư, chưa có
hiểu biết kỹ thuật canh tác để có năng suất cao hơn và chưa nắm rõ hậu quả của việc
đốt nương làm rẫy của họ có thể tàn phá cả một diện tích rừng rông lớn. Sinh sống
tại miền núi thì tiến hành sản xuất tại nơi sinh sống, nhưng địa hình miền núi phức
tạp, khó sản xuất trên phần diện tích này nên người dân càng không quan tâm tới
những hoạt động sản xuất của mình. Mặt khác, cùng với việc gia tăng dân số mà tập
quán du canh du cư trở thành một nguyên
nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá
đất và kết quả là đã tạo nên cả một vùng đất
trrống đồi núi trọc như hiện nay. Tăng dân
số đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất để
sản xuất thêm lương thực phẩm đáp ứng
với cuộc sống của con người. Và điều tất
nhiên là những người dân sinh sống ở miền
núi họ không thể mở rông diện tích dất canh tác xuống vùng đồng bằng được vì
theo thói quen sinh sống của họ, thói quen trong sản xuất, hơn nữa diện tích đồng

bằng chỉ chiếm một phần rất nhỏ không đủ để họ tiến hành canh tác. Cho nên người
dân phải lấn sâu vào rừng để mở rộng đất sản xuất và họ tiếp tục đốt nương rừng tạo
rẫy canh tác. Diện tích rừng cứ thế được đốt cháy nhưng lại không có sự đầu tư
cũng không có sự tái tạo thì chắc chắn diện tích rừng sẽ dần bị co hẹp lại theo thời
gian. Ngày nay, thủ tướng Chính phủ cũng đã banh hành Quyết Định về chính sách
hỗ trợ định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010 trên
phạm vi cả nước để có thể dần khôi phục diện tích rừng và với 70% số điểm định
canh, định cư tập trung có đủ các công trình cơ sở hạn tầng thiết yếu, phù hợp với
quy hoạch chung, bao gồm: đường giao thông, điện thuỷ lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu
giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công trình thiết yếu khác; 100% số hộ
đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư được tổ chức định canh định cư theo quy
hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt…để dần không còn hộ đói, mỗi
năm giảm 2-3% số hộ nghèo. Tuy đã có chính sách hỗ trợ nhưng theo thói quen
trong sản xuất, trong sinh hoạt, bước đầu họ khó thích nghi với cuộc sống mới nên
tình trạng khai thác rừng vẫn diễn ra. Cùng với sự gia tăng dân số, cùng với sự hiểu
biết ít của mình thì tập quán du canh du cư của những người dân sinh sống tại miền
núi cũng đang là nguyên nhân trực tiếp gây nên hiện tượng suy thoái rừng, làm
giảm sự đa dạng của rừng.
Với diện tích rừng Việt Nam là 14 triệu ha vào năm 1945 đến hiện nay chỉ
còn lại 6,5 triệu ha, như vậy trung ình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp tù 160-
200 ngàn ha…. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về diện tích là do
khai hoang trong chiến tranh, do tập quán sống du canh của một số dân tộc ở vùng
cao, do cháy rừng, do sự khai phá bừa bãi lấy gỗ lấy đất canh tác…, nguồn tài
nguyên động vật đa dạng của rừng Việt Nam cũng bị giảm sút nghiêm trọng là do
sự săm bắt thú bừa bãi để lấy lông, da, thịt, sừng và các sản phẩm khác để làm
thuốc, còn do việc buôn lậu thú quý hiếm ra nước ngoài… Trong 4 thập kỷ qua theo
ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim đã bị tuyệt chủng và 120 loài thú đã bị diệt vong.
Tất cả hậu quả trên đều do con người trực tiếp gây ra. Và qua phân tích ở trên
chúng ta thấy cả 7 nguyên nhân đều có mói liên hệ mật thiết với nhau, cùng tác
động và chi phối lẫn nhau, đều tác động trực tiếp làm ảnh hưởng tài nguyên rừng,

làm suy thoái tài nguyên rừng rất nhanh. Vấn đề đặt ra cho các ban ngành kiểm lâm
cần có những chính sách tác động để bảo vệ tài nguyên rừng, có sự kiểm soát chặt
chẽ với những hành động khai thác trộm bừa bãi các động thực vật quý hiếm. Cần
tuyên truyền cho người dân biết tác hại của vấn đề tàn phá rừng để tăng ý thức bảo
vệ cộng đồng làm cho rừng Việt Nam ngày càng đa dạng hơn về chủng loại và số
lượng
Nhận thức.
Kết quả điều tra nhận thức của cộng đồng o Yok Don (vung o Tay nguyen) về
vai trò và tầm quan trọng của Vườn quốc gia Yok Đôn tại 3 xã vùng đệm (Krông
Na, Ea Huar, Ea Wer) cho thấy 51% nhận biết được vai trò và tầm quan trọng, 21%
biết nhưng không rõ, 18% không rõ ranh giới, còn lại 10% không biết Vườn quốc
gia Yok Đôn ở đâu. Điều này là do công tác tuyên truyền chưa thực hiện tốt.

×