Cảm hứng Tết của nhà thơ trào phúng Tú Xương
Thấm thoát đã tròn một thế kỷ từ khi Trần Tế Xương (5/9/1870 - 29/1/1907) ra
đi ở tuổi 37. Tú Xương mất quá sớm nhưng đã kịp để lại một gia tài thơ trữ tình - trào
phúng phong phú và độc đáo.
Tản Đà - nhà thơ nổi tiếng tài năng và "ngông" của giai đoạn sau, giai đoạn
giao thời thơ cũ - thơ Mới cũng đã phải phát biểu: "Trong những thi sĩ tiền bối, tôi
khâm phục nhất Tú Xương". Vũ Trọng Phụng - nhà văn hoạt kê hàng đầu của những
năm 30 cũng viết "Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ". Sự nghiệp thơ của Tú Xương
không chỉ được đánh giá cao ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Giáo sư Albert Smith
(Anh) viết: "Tú Xương xứng đáng đứng vào hàng những nhà thơ trào phúng lớn của
thế giới". Tiến sĩ văn chương Jean-Curier (Pháp) cũng cho rằng: "Trong bầu trời thơ
ca Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn lấy năm ngôi sao sáng nhất thì Tú Xương là
một trong năm ngôi sao ấy".
Tú Xương ra đi vào ngày 29/1/1907, tức là trước Tết khoảng nửa tháng, chưa
kịp viết bài thơ Tết năm ấy. Mà như ta biết, Tết vốn là dịp dồi dào thi hứng của thi
nhân.
Tú Xương có một câu đối Tết xuất sắc mà bây giờ ít khi ta nhắc lại vì cuộc
sống và phong tục cũng đã thay đổi, nhưng đặt vào lúc nó ra đời thì thật đắt và thật
sâu cay, chua chát: "Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo/ Nhân tình trắng thế lại bôi vôi".
Ngày nay chúng ta còn học tập được ở nghệ thuật dùng từ tài tình của tác giả khi
muốn châm biếm một điều gì đấy về nhân tình thế thái: xác (danh từ, danh từ tính từ
hóa); trắng (nghĩa bóng - nghĩa đen).
Tiếng cười cay độc, chua chát của Tú Xương có ý nghĩa phủ định xã hội, cái xã
hội của những kẻ giàu sang hãnh tiến. Bài Năm mới chúc nhau của ông là tiếng chửi
vào bọn người ấy, chứ không phải là chửi tùm lum tất cả. "Lẳng lặng mà nghe nó chúc
nhau/ Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu/ Phen này ông quyết đi buôn cối/ Thiên hạn
bao nhiêu đứa giã trầu". "Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang/ Đứa thời mua tước, đứa
mua quan/ Phen này ông quyết đi buôn lọng/ Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng". "Nó lại
mừng nhau cái sự giàu/ Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu/ Phen này ắt hẳn gà ăn bạc/
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu". "Nó lại mừng nhau sự lắm con/ Sinh năm đẻ bẩy
được vuông tròn/ Phố phường chật hẹp người đông đúc/ Bồng bế nhau lên nó ở non".
Chính vì cảm hứng xã hội ấy của bài thơ, mà sau nghe nói có người thêm vào
một khổ mà người ta vẫn nghĩ là của Tú Xương vì nó hoàn toàn thống nhất với cảm
xúc chủ đạo của bài thơ: "Bắt chước ai ta chúc mấy lời/ Chúc cho khắp hết cả trên đời/
Vua, quan, sĩ, thứ người muôn nước/ Sao được cho ra cái giống người".
Cũng cảm hứng phê phán đó, có bài Năm mới: "Khéo báo nhau rằng mới với
me/ Bảo nhau rằng cũ, chẳng ai nghe/ Khăn là bác nọ to tầy rế/ Váy lĩnh cô kia quét
sạch hè/ Công đức tu hành, sư cô lọng/ Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi xe/ Phong lưu rất
mực ba ngày tết/ Kiết cú như ta (ai) cũng rượu chè". Ở đây, Tú Xương phê phán thói
phô trương rởm đời của bọn hãnh tiến học làm sang, nó là một sự mỉa mai, chửi rủa
đối với xã hội của những người nghèo khổ.
Đằng sau cái cười của Tú Xương là nỗi đau, nỗi đau mất nước. Bài Xuân ru
mà của ông có những câu thơ không còn là trào phúng nữa mà là trữ tình 100%.
"Xuân từ trong Huế mới ban ra/ Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà/ Đì đẹt
ngoài sân tràng pháo chuột/ Loẹt lòe trên vách, bức tranh gà/ Chí cha chí chát khua
giày dép/ Đen thủi đen thui cũng lượt là/ Dám hỏi những ai nơi cố quận/ Rắng xuân,
xuân mãi thế ru mà". Ông nhắc nhở bọn hãnh tiến rởm đời hãy nhớ nhục mất nước.
Câu thơ là lời cảnh tỉnh thiết tha, gợi nhớ câu thơ ông viết trong kỳ thi năm Đinh Dậu.
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó/ Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà".
Có bài thơ Tú Xương không nói về Tết nhưng nhân sự việc xảy ra vào dịp này,
ông có nhắc đến Tết, đó là bài Mồng 2 tết viếng cô Ký: "Cô Ký sao mà đã chết ngay/
Ô hay trời chẳng nể ông Tây/ Gái tơ đi lấy làm hai họ/ Năm mới vừa sang được một
ngày/ Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ/ Ông chồng thương đến cái xe tay/ Gớm ghê
cho những cô con gái/ Mà vẫn đua nhau lấy các thầy". Tú Xương châm biếm thói thực
dụng vô luân mất gốc của một số người lúc đó. Cô Ký lấy thầy Ký ta nhưng lại đi lại
với ông Tây chánh cẩm để thuận tiện cho việc làm ăn (mở hiệu xe tay). Nhưng câu
đau nhất trong bài không chỉ là câu 2 mà là câu luận thứ 2 (câu 6). Ông chồng không
thương vợ chết trẻ mà chỉ lo từ nay không ai lo liệu cho cái hiệu xe tay, không còn ai
đi lại với ông chánh cẩm để công việc làm ăn được thuận lợi, nhất bản vạn lợi.
Tú Xương hay cười, cười cả những người không có tội nhưng hãy xem kỹ,
trong cái cười ấy có cả giọt nước mắt xót thương. Nhà thơ cảm thương với kiếp cô đầu
trong ngày tết ế ẩm, túng thiếu: "Chị hỡi chị, năm nay túng lắm/ Biết làm sao, Tết đến
nơi rồi / Chị em ta cùng nhau giữ giá/ Đến bây giờ ngã cả chẳng ai nâng/ cũng liều
bán váy chơi xuân" (Tết cô đầu). Xem chừng nụ cười trào phúng đã nhường cho nước
mắt trữ tình. Và cảm hứng của nhà thơ trào phúng đầu thế kỷ bỗng gần với cảm xúc
của nhà văn lãng mạn năm 40 (Thạch Lam với Tối 30 tết), hoặc đã chuẩn bị cho tiếng
cười cay đắng của nhà văn hoạt kê Nguyễn Công Hoan những năm 30 trong Người
ngựa, ngựa người.
Nhà thơ trào phúng ấy cũng là người hay tự trào. Tác giả cười hay nói đúng
hơn, thẩm thía cái nghèo, cái bất lực, cái không thành đạt của mình Cảm Tết, Sắm Tết.
Những câu đùa trong 2 bài thơ này là những câu đùa ra nước mắt: "Anh em đừng nghĩ
Tết tôi nghèo/ Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu/ Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng
quẩy/ Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu/ Bánh đường sắp gói e mồm chảy/ Giò lụa toan
làm sợ nắng thiu/ Thôi thế thì thôi đành tết khác/ Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo".
Đặc biệt, bài Sắm tết, tiếng cười được nghệ thuật hư cấu phóng đại giúp sức trở nên
những tiếng cười gằn: "Tết nhất năm nay khéo thật là/ Một mâm mứt rận mới bày ra/
Xanh đồng thắng lại đen nhưng nhức/ áo đụp bò ra béo thực thà/ Kẹo chú Sìu Châu
đâu đọ được/ Bánh bà Hanh Tụ cũng thua xa/ Sang năm quyết mở ngôi hàng mứt/ Lại
rưới thêm vào tí nước hoa".
Tác giả giễu mình mà hóa ra chửi đời. Tuy nhiên nỗi ghét đời kia lại chính là
hình chiếu ngược của lòng yêu đời. Bài hát nói Tết dán câu đối thể hiện lòng yêu vợ,
tính cách phóng khoáng, tài tử và vui tính của tác giả: "Nhập thế cục bất khả vô văn
tự/ Chẳng hay ho cũng húng hắng lấy một vài/ Huống thân danh mình đã đỗ tú tài/
Ngày tết đến cũng phải một vài câu đối/ Đối rằng: "Cực nhân gian chi phẩm giá phong
nguyệt tình hoài/ Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt”/ Viết vào giấy dán
ngay lên cột/ Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay/ Thưa rằng hay thật là hay/ Chẳng hay sao
lại đỗ ngay tú tài/ Xưa nay em vẫn chịu ngài". Và cả trong các bài thơ chửi giễu
những thói rởm ngày tết vẫn có những câu thú vị đậm màu sắc dân tộc: "Đì đẹt ngoài
sân tràng pháo chuột/ Om thòm trên vách bức tranh gà"
Tóm lại, chỉ đọc mấy bài thơ Tết của Tú Xương, ta đã thấm thía cái ý vị hay,
riêng của thơ Tú Xương và phần nào thấy được tài năng và chiều sâu tâm tưởng ông.
Khi Tú Xương mất, nhà thơ Nguyễn Khuyến, người sinh trước ông 35 năm, nhưng lại
mất sau ông 2 năm, đã viếng 2 câu đối: "Kìa ai chín suối Xương không nát/ Có lẽ
nghìn thu tiếng vẫn còn". Nhà thơ lão thành đại khoa đó tuy lời lẽ có phần cẩn trọng
nhưng thực sự đã là người đầu tiên khẳng định giá trị cao, giá trị vượt thời gian của
thơ Tú Xương. Còn nhà thơ lớn hiện đại Xuân Diệu sau này thì lời lẽ mạnh mẽ hơn
nhưng cũng vẫn ý tưởng ấy: "Ông nghè, ông thâm vô máy khói / Đứng lại văn chương
một tú tài".
***