Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nhà thơ trào phú Tú Xương và Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.86 KB, 10 trang )



*ĐềII: So sánh tiếng cười trong thơ Tú Xương và Nguyễn Khuyến
Tản Đà –một nhà thơ nổi tiếng tài năng và "ngơng" của giai đoạn sau, giai đoạn giao thời thơ cũ
- thơ Mới cũng đã phải phát biểu: "Trong những thi sĩ tiền bối, tơi khâm phục nhất Tú Xương". Vũ
Trọng Phụng - nhà văn hoạt kê hàng đầu của những năm 30 cũng viết "Tú Xương là bậc thần thơ
thánh chữ". Sự nghiệp thơ của Tú Xương khơng chỉ được đánh giá cao ở trong nước mà cả ở nước
ngồi. Giáo sư Albert Smith (Anh) viết: "Tú Xương xứng đáng đứng vào hàng những nhà thơ trào
phúng lớn của thế giới". Tiến sĩ văn chương Jean-Curier (Pháp) cũng cho rằng: "Trong bầu trời thơ ca
Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn lấy năm ngơi sao sáng nhất thì Tú Xương là một trong năm ngơi
sao ấy".
Tú Xương có một câu đối Tết xuất sắc mà bây giờ ít khi ta nhắc lại vì cuộc sống và phong tục
cũng đã thay đổi, nhưng đặt vào lúc nó ra đời thì thật đắt và thật sâu cay, chua chát: "Thiên hạ xác rồi
còn đốt pháo/ Nhân tình trắng thế lại bơi vơi". Ngày nay chúng ta còn học tập được ở nghệ thuật dùng
từ tài tình của tác giả khi muốn châm biếm một điều gì đấy về nhân tình thế thái: xác (danh từ, danh từ
tính từ hóa); trắng (nghĩa bóng - nghĩa đen).
Tiếng cười cay độc, chua chát của Tú Xương có ý nghĩa phủ định xã hội, cái xã hội của những
kẻ giàu sang hãnh tiến. Bài Năm mới chúc nhau của ơng là tiếng chửi vào bọn người ấy, chứ khơng
phải là chửi tùm lum tất cả.
"Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ơng quyết đi bn cối
Thiên hạn bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thời mua tước, đứa mua quan
Phen này ơng quyết đi bn lọng
Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc


Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Nó lại mừng nhau sự lắm con
Sinh năm đẻ bẩy được vng tròn
Phố phường chật hẹp người đơng đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.”
Chính vì cảm hứng xã hội ấy của bài thơ, mà sau nghe nói có người thêm vào một khổ mà người
ta vẫn nghĩ là của Tú Xương vì nó hồn tồn thống nhất với cảm xúc chủ đạo của bài thơ:
"Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ người mn nước
Sao được cho ra cái giống người.”
1
Lê Thò Bảo Trâm
11văn
Cũng cảm hứng phê phán đó, có bài Năm mới:
"Khéo báo nhau rằng mới với me
Bảo nhau rằng cũ, chẳng ai nghe
Khăn là bác nọ to tầy rế
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
Công đức tu hành, sư cô lọng
Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi xe
Phong lưu rất mực ba ngày tết
Kiết cú như ta cũng rượu chè.”
Ở đây, Tú Xương phê phán thói phô trương rởm đời của bọn hãnh tiến học làm sang, nó là một sự
mỉa mai, chửi rủa đối với xã hội của những người nghèo khổ.
Đằng sau cái cười của Tú Xương là nỗi đau, nỗi đau mất nước. Bài Xuân ru mà của ông có những
câu thơ không còn là trào phúng nữa mà là trữ tình 100%.
"Xuân từ trong Huế mới ban ra
Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột

Loẹt lòe trên vách, bức tranh gà
Chí cha chí chát khua giày dép
Đen thủi đen thui cũng lượt là
Dám hỏi những ai nơi cố quận
Rắng xuân, xuân mãi thế ru mà".
Ông nhắc nhở bọn hãnh tiến rởm đời hãy nhớ nhục mất nước. Câu thơ là lời cảnh tỉnh thiết tha,
gợi nhớ câu thơ ông viết trong kỳ thi năm Đinh Dậu. "Nhân tài đất Bắc nào ai đó/ Ngoảnh cổ mà
trông lại nước nhà".
Có bài thơ Tú Xương không nói về Tết nhưng nhân sự việc xảy ra vào dịp này, ông có nhắc đến
Tết, đó là bài Mồng 2 tết viếng cô Ký:
"Cô Ký sao mà đã chết ngay
Ô hay trời chẳng nể ông Tây
Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một ngày
Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ
Ông chồng thương đến cái xe tay
Gớm ghê cho những cô con gái
Mà vẫn đua nhau lấy các thầy".
Tú Xương châm biếm thói thực dụng vô luân mất gốc của một số người lúc đó. Cô Ký lấy thầy
Ký ta nhưng lại đi lại với ông Tây chánh cẩm để thuận tiện cho việc làm ăn (mở hiệu xe tay). Nhưng
câu đau nhất trong bài không chỉ là câu 2 mà là câu luận thứ 2 (câu 6). Ông chồng không thương vợ
chết trẻ mà chỉ lo từ nay không ai lo liệu cho cái hiệu xe tay, không còn ai đi lại với ông chánh cẩm để
công việc làm ăn được thuận lợi, nhất bản vạn lợi.
Tú Xương hay cười, cười cả những người không có tội nhưng hãy xem kỹ, trong cái cười ấy có cả
giọt nước mắt xót thương. Nhà thơ cảm thương với kiếp cô đầu trong ngày tết ế ẩm, túng thiếu: "Chị
hỡi chị, năm nay túng lắm/ Biết làm sao, Tết đến nơi rồi.../ Chị em ta cùng nhau giữ giá/ Đến bây giờ
ngã cả chẳng ai nâng/ cũng liều bán váy chơi xuân" (Tết cô đầu). Xem chừng nụ cười trào phúng đã
nhường cho nước mắt trữ tình. Và cảm hứng của nhà thơ trào phúng đầu thế kỷ bỗng gần với cảm xúc
của nhà văn lãng mạn năm 40 (Thạch Lam với Tối 30 tết), hoặc đã chuẩn bị cho tiếng cười cay đắng
của nhà văn hoạt kê Nguyễn Công Hoan những năm 30 trong Người ngựa, ngựa người.

2
Nhà thơ trào phúng ấy cũng là người hay tự trào. Tác giả cười hay nói đúng hơn, thẩm thía cái
nghèo, cái bất lực, cái không thành đạt của mình Cảm Tết, Sắm Tết. Những câu đùa trong 2 bài thơ
này là những câu đùa ra nước mắt:
"Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói e mồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành tết khác
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo”.
Đặc biệt, bài Sắm tết, tiếng cười được nghệ thuật hư cấu phóng đại giúp sức trở nên những tiếng
cười gằn:
"Tết nhất năm nay khéo thật là
Một mâm mứt rận mới bày ra
Xanh đồng thắng lại đen nhưng nhức
áo đụp bò ra béo thực thà
Kẹo chú Sìu Châu đâu đọ được
Bánh bà Hanh Tụ cũng thua xa
Sang năm quyết mở ngôi hàng mứt
Lại rưới thêm vào tí nước hoa".
Tác giả giễu mình mà hóa ra chửi đời. Tuy nhiên nỗi ghét đời kia lại chính là hình chiếu ngược
của lòng yêu đời. Bài hát nói Tết dán câu đối thể hiện lòng yêu vợ, tính cách phóng khoáng, tài tử và
vui tính của tác giả:
"Nhập thế cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng húng hắng lấy một vài
Huống thân danh mình đã đỗ tú tài
Ngày tết đến cũng phải một vài câu đối
Đối rằng: "Cực nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài

Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt”
Viết vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay
Thưa rằng hay thật là hay
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài
Xưa nay em vẫn chịu ngài”.
Và cả trong các bài thơ chửi giễu những thói rởm ngày tết vẫn có những câu thú vị đậm màu sắc
dân tộc: "Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột/ Om thòm trên vách bức tranh gà"...
Tóm lại, chỉ đọc mấy bài thơ Tết của Tú Xương, ta đã thấm thía cái ý vị hay, riêng của thơ Tú
Xương và phần nào thấy được tài năng và chiều sâu tâm tưởng ông. Khi Tú Xương mất, nhà thơ
Nguyễn Khuyến, người sinh trước ông 35 năm, nhưng lại mất sau ông 2 năm, đã viếng 2 câu đối: "Kìa
ai chín suối Xương không nát/ Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn". Nhà thơ lão thành đại khoa đó tuy lời lẽ
có phần cẩn trọng nhưng thực sự đã là người đầu tiên khẳng định giá trị cao, giá trị vượt thời gian của
thơ Tú Xương. Còn nhà thơ lớn hiện đại Xuân Diệu sau này thì lời lẽ mạnh mẽ hơn nhưng cũng vẫn ý
tưởng ấy: "Ông nghè, ông thâm vô máy khói / Đứng lại văn chương một tú
Bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX là một bức tranh xám xịt, nham nhở. Toàn bộ vùng
nông thôn rộng lớn vẫn chìm trong đêm tối của cảnh nghèo khốn, lạc hậu. Còn ở các vùng kẻ chợ như
Hà Nội và Nam Định (quê Tú Xương) thì phơi bày một cảnh đời đồi bại và lố lăng.
3
Tú Xương là một con người có đầy đủ lương tri và bản lĩnh của một trí thức Việt Nam phong
kiến chân chính. Nói như Tehernychevsky, nhà triết học và văn hào Nga thế kỉ XIX - ơng là "ngun
động lực của động lực", là "tinh chất muối trong muối của trần gian".
Tú Xương có tài văn chương xuất chúng, có cái TÂM của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, u
nước, thương xót giống nòi; có cái trí của một người lỗi lạc biết được cái gì có thể chấp nhận và cái gì
phải phủ nhận trên thế giới này; có cái Hồn của một nhà lãng mạn chủ nghĩa tầm vóc nhân loại.
Số phận của bản thân ơng phản ánh số phận của dân tộc ơng thời ấy. Đó là bi kịch của một con
người "tiến thối lưỡng nam". Ơng khơng thể cam tâm "vứt bút lơng đi giắt bút chì" để trở thành
"Chẳng kí, khơng thơng cũng cậu bồi" như những kẻ vơ liêm sỉ khác. Ơng cũng khơng phải hạng hủ
nho vùi đầu vào kinh sử, quanh năm "đẽo gọt con sâu". Chính vì vậy mà ơng đến nỗi "tám khoa chưa
khỏi phạm trường qui".

Phẩm cách sĩ phu thơi thúc ơng phải đỗ đạt, phải "lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ". Tú
Xương đã khơng tìm ra được một con đường tiến thân đúng đắn. Những bế tắc về tư tưởng, về cơng
danh, và cảnh khốn cùng đã khiến ơng phẫn chí, có lúc tưởng chừng phát điên phát dại.
Một nhân cách lớn và một tài năng lớn như Tú Xương lẽ nào lại chịu "tan nát với cỏ cây"? Tú
Xương đã, khơng phải "nhả ngọc phun châu" mà nhả đạn ra ngồi miệng bắn phá cái cuộc đời xấu xa
bẩn thỉu đang diễn ra xung quanh ơng. Ơng đã trút vào văn thơ tất cả những nỗi ưu uất của lòng mình.
Mải sống, mải chơi, mải vẫy vùng và "bắn phá", Tú Xương có lẽ khơng hề nghĩ đến cái thành
quả, cái "sự nghiệp" đích thực của chính ơng. Ơng đã nói và nói thật rằng :
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì!
Trái với cái ý nghĩ tuyệt vọng đó, lịch sử đã xác nhận: Thành quả lớn nhất của nền văn học Việt
Nam cuối thế kỷ XIX thuộc về dòng văn chương hiện thực - trữ tình - trào phúng với hai nhà thơ lỗi
lạc: Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
Về nội dung: thơ Tú Xương mang tính chất hiện thực cao độ, phản ánh cả một xã hội "kẻ chợ"
(thành phố Nam Định) với đủ mọi hạng người, và phản ánh sự suy đồi của nền đạo đức ln lí trong
thời buổi giao thời ấy. Thơ văn Tú Xương cũng khắc hoạ được hình tượng một "nhân vật của thời
đại". Đó là bản thân Tú Xương : một nhân vật có tâm hồn cao đẹp và lãng mạn, có phẩm cách, tài
năng xuất chúng nhưng tiếc thay lại chưa tìm được cho mình một lí tưởng chân chính, rốt cuộc trở
thành một nhân vật bi kịch. Khơng ở đâu "cái tơi" được miêu tả một cách sắc nét và đầy cá tính như
trong thơ văn Tú Xương. Đó chính là " sự gặp gỡ khơng hẹn mà nên" giữa thơ Tú Xương với các
trường phái văn học phương Tây.
Thơ văn Tú Xương cũng hàm chứa những tình cảm vơ cùng sâu sắc: Những nối ưu tư với số
phận của đất nước, với nền văn học và đạo đức của dân tộc, với những thiên tai, với mn ngàn cảnh
khổ của con người và nỗi đau đớn dằn vặt khơn xiết kể của chính nhà thơ. Thơ văn Tú Xương còn ghi
lại hình ảnh người vợ mà nhà thơ vơ cùng u q. Đó là hình ảnh của một phụ nữ Việt Nam điển
hình, cho đến nay vẫn khiến chúng ta rung cảm.
Về nghệ thuật, thơ Tú Xương đạt tới đỉnh cao bậc nhất ở thời đại ơng. Tú Xương hầu như hồn
tồn chỉ sáng tác thơ nơm. Ơng là người khẳng định triệt để giá trị và khả năng to lớn của tiếng Việt.
Ơng được người đời sau tơn là bậc " thần thơ thánh chữ". Ngơn từ của ơng tài tình khơng kém nữ sĩ
Hồ Xn Hương trước kia nhưng phong phú hơn.

Bằng tiếng nói thơng thường, bằng những câu cửa miệng của người bình dân, Tú Xương sáng tác
những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài nghệ của ơng mà sau này chỉ có Nguyễn Bính sánh được. Tính chất
trào phúng vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản tính của con người Việt Nam, đến Tú Xương đã được
sử dụng triệt để và tung hồnh như một lợi khí sắc bén. Tiếng cười trong thơ Tú Xương mạnh mẽ,
ln tạo nên những "Cú chết bất ngờ" cho kẻ nào bị ơng đả kích.
Tú Xương, cũng như Vũ Trọng Phụng sau này, có biệt tài đưa những mảng hiện thực gần như
trần trụi của cuộc sống vào trong thơ văn, vậy mà lại tạo ra được những tác phẩm hay đến mức thần
4
tình.Tú Xương mất đã gần 90 năm, vậy mà văn thơ của ông đối với chúng ta hôm nay vẫn gần gũi,
vẫn sống động vô cùng.
Nỗi đau đời, những trăn trở riêng chung, tiếng cười của ông và bút pháp tài tình của ông thể
hiện trong hàng trăm tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại (thơ, phú, văn tế, ca trù, câu đối, .. ..), tất cả đã
đưa ông lên vị trí một trong những nhà thơ lớn nhất của dân tộc.
Trước hết vì nhà thơ là một con người, một tâm hồn thơ tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. Về phương
diện này có thể so ông với Hồ Xuân Hương trước kia và Nguyễn Bính sau này.
Bản sắc tâm hồn Việt Nam! Cái đặc tính dịu dàng, kín đáo, không ồn ào nhưng hóm hỉnh, trong sáng
và sâu sắc, tế nhị, có lẽ là sản phẩm tinh thần độc đáo của xứ sở đồng bằng trồng lúa nước, xứ sở của
những làng quê xanh ngắt với những lũy tre bao bọc xung quanh! Những đặc tính ấy đã từng làm say
mê bao nhiêu du khách đến từ những đất nước xa xôi.
Mặc dù đã dự phần "bảng vàng bia đá ngàn thu", nhưng Nguyễn Khuyến lúc nào cũng giữ nguyên vẹn
phong cách một ông già của xứ làng quê ấy, sống chan hoà với những người "chân quê" giữa đồng đất
quê hương. Cảnh "bạn đến chơi nhà" là một bức tranh sinh hoạt nông thôn tiêu biểu, đằm thắm tình
người:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà...
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Hình ảnh những người dân quê được ngòi bút Nguyễn Khuyến miêu tả vừa sinh động, vừa như đượm

niềm trìu mến sau nụ cười dí dỏm:
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung... !
Trong những cơn hoạn nạn: thiên tai địa ách, đói rét, ngoại xâm... giọng thơ của ông trở nên bi thiết
trước số phận của cộng đồng mà ông là một thành viên không tách rời:
Quai Mễ Thanh liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
5

×