Tải bản đầy đủ (.ppt) (41 trang)

báo cáo bệnh lợn tai xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.48 KB, 41 trang )


BỆNH LỢN TAI XANH
Giảng viên : Phạm Thị Tuyết Mai
Sinh Viên : Nguyễn Thị Hồng
Lớp : k39 BQCBNS

Mục lục
1. Bệnh lợn tai xanh.
2. Ảnh hưởng của bệnh lợn tai xanh.
3. Cách phòng chống và lời khuyên cho người
tiêu dùng.
4. Tài liệu tham khảo.

Bệnh lợn tai xanh chính là hội
chứng rối loạn sinh sản. Hội
chứng rối loạn sinh sản và hô
hấp trên lợn, còn gọi là “bệnh
tai xanh” là bệnh truyền nhiễm,
lây lan nhanh, gây sẩy thai trên
lợn nái chửa hoặc gây bệnh
đường hô hấp, đặc biệt ở lợn
con cai sữa
1. Bệnh lợn tai xanh
1.1 triệu chứng biểu hiện ở lợn

Bệnh lây lan nhanh trên
đàn lợn do tiếp xúc trực tiếp với
gia súc bệnh, hay gián tiếp qua
gieo tinh nhân tạo; chất thải;
không khí; dụng cụ chăn nuôi
hoặc qua việc vận chuyển, mua


bán, giết mổ lợn bệnh Lợn
mắc bệnh tai xanh thường có
biểu hiện là da bị xuất huyết
(đỏ), mạch máu bị phù và vùng
ngực, hậu môn, vùng da non, tai
lợn cũng xuất huyết và lâu ngày
thành tím xanh (cho nên gọi là
bệnh tai xanh).

Ngoài ra, còn có triệu chứng viêm phổi, ho, chảy
nước mũi, sốt cao, mắt bị sưng, đổ ghèn, xù lông, nằm ủ
rũ. Lợn trong giai đoạn ủ bệnh nếu được giết mổ thì trên
quầy thịt không thể hiện rõ bệnh tích. Trường hợp lợn mắc
bệnh nặng thì các hạch đều bị sưng, thịt bị nhão, có màu
đỏ, thận bị xuất huyết.

1.2 Vi sinh vật gây bệnh
Bệnh tai xanh chỉ tồn tại ở cơ thể lợn. Bệnh này
làm suy giảm miễn dịch, khiến các bệnh khác ở lợn phát
triển nhanh, trong đó có chứng liên cầu - một bệnh nguy
hiểm có thể lây cho người và dễ dẫn đến tử vong.
khi chưa có dịch tai xanh, bệnh liên cầu lợn đã có
thể gây bệnh cho người. Tuy nhiên, khi bệnh tai xanh
xuất hiện, bệnh liên cầu mới có cơ hội bùng phát thành
đại dịch. Nguy cơ lây lan sẽ rất cao.

Khuẩn liên cầu (Streptococcus suis) là loại vi khuẩn
thường trú trong đường hô hấp của lợn, nếu có cơ hội,
chúng sẽ phát triển thành bệnh. Người ăn phải hoặc tiếp
xúc với lợn mắc bệnh sẽ bị lây nhiễm.

Vi khuẩn này tồn tại trong thịt lợn đã giết mổ và
trong bụi không khí từ 1 đến 6 ngày. Như vậy, ngoài việc
tiếp xúc với máu lợn, chỉ cần hít thở không khí nơi có lợn
mắc bệnh, con người đã có thể bị lây nhiễm.

Lúc đầu, người ta cho rằng, một số virus như
Parvovirus, virus giả dại (Pseudorabies), virus cúm lợn,
Porcine enterovirus, đặc biệt virus gây viêm não - cơ tim
(Encephalomyocarditis) gây nên. Sau đó, người ta đã xác
định được một loại virus mới, được gọi là virus Lelystad,
phân lập được từ các ổ dịch ở Hà Lan, là nguyên nhân
chính gây ra hội chứng trên. Virus có cấu trúc ARN,
thuộc họ Togaviridae, gần giống với virus gây viêm khớp
ở ngựa (EAV), Lactic Dehydrogenase virus của chuột
(LDH) và virus gây sốt xuất huyết trên khỉ (SHF).



Virus rất thích hợp với đại thực bào đặc biệt là đại
thực bào hoạt động ở vùng phổi. Bình thường, đại thực bào
sẽ tiêu diệt tất cả vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể,
riêng đối với virus PRRS, virus có thể nhân lên trong đại
thực bào, sau đó phá huỷ và giết chết đại thực bào (tới
40%). Do vậy, khi đã xuất hiện trong đàn, chúng thường
có xu hướng duy trì sự tồn tại và hoạt động âm thầm. Đại
thực bào bị giết sẽ làm giảm chức năng của hệ thống bảo
vệ cơ thể và làm tăng nguy cơ bị nhiễm các bệnh kế phát.
Điều này có thể thấy rõ ở những đàn vỗ béo hoặc chuẩn bị
giết thịt có sự tăng đột biến về tỷ lệ viêm phổi.


Liên cầu khuẩn streptococcus suis


Đường truyền lây

Virus có trong dịch mũi, nước bọt, tinh dịch (trong
giai đoạn nhiễm trùng máu), phân, nước tiểu và phát tán ra
môi trường. Ở lợn mẹ mang trùng, virus có thể lây nhiễm
cho bào thai từ giai đoạn giữa thai kỳ trở đi và virus cũng
được bài thải qua nước bọt và sữa. Lợn trưởng thành có
thể bài thải virus trong vòng 14 ngày trong khi đó lợn con
và lợn choai bài thải virus tới 1-2 tháng.



Virus có thể phát tán thông qua các hình thức: vận
chuyển lợn mang trùng, theo gió (có thể đi xa tới 3 km),
bụi, bọt nước, dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ bảo hộ lao
động nhiễm trùng, thụ tinh nhân tạo và có thể do một số
loài chim hoang.

Bệnh tích

Viêm phổi hoại tử và thâm nhiễm đặc trưng bởi những
đám chắc, đặc trên các thuỳ phổi. Thuỳ bị bệnh có màu
xám đỏ, có mủ và đặc chắc (nhục hoá). Trên mặt cắt
ngang của thuỳ bệnh lồi ra, khô. Nhiều trường hợp viêm
phế quản phổi hoá mủ ở mặt dưới thuỳ đỉnh. Về tổ chức
phôi thai học, thường thấy dịch thẩm xuất và hiện tượng
thâm nhiễm, trong phế nang chứa đầy dịch viêm và đại

thực bào, một số trường hợp hình thành tế bào khổng lồ
nhiều nhân. Một bệnh tích đặc trưng nữa là sự thâm nhiễm
của tế bào phế nang loại II (Pneumocyte) làm cho phế
nang nhăn lại, thường bắt gặp đại thực bào bị phân huỷ
trong phế nang.


Chẩn đoán

Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mô tả
trên. Trong phòng thí nghiệm, có thể dùng phản ứng
immunoperoxidase một lớp (IPMA) để phát hiện kháng
thể 1-2 tuần sau khi nhiễm; phản ứng kháng thể huỳnh
quang gián tiếp (IFA) kiểm tra kháng thể IgM trong 5-
28 ngày sau khi nhiễm và kiểm tra kháng thể IgG trong
7-14 ngày sau khi nhiễm; phản ứng ELISA phát hiện
kháng thể trong vòng 3 tuần sau khi tiếp xúc. Ngoài ra,
phương pháp PCR phân tích mẫu máu (được lấy trong
giai đoạn đầu của pha cấp tính) để xác định sự có mặt
của vi rút, đây là phản ứng tương đối nhạyvàchính
xác.


Điều trị

Hiện nay, vẫn chưa có thuốc đặc trị để điều trị bệnh này.
Có thể sử dụng một số thuốc tăng cường sức đề kháng,
điều trị triệu chứng và chủ yếu ngăn ngừa nhiễm bệnh kế
phát.


Phòng bệnh

Chủ động phòng bệnh bằng cách áp dụng các biện pháp
an toàn sinh học, chuồng trại phải thoáng mát về mùa hè,
ấm vào mùa đông, tăng cường chế độ dinh dưỡng, mua
lợn giống từ những cơ sở đảm bảo, thiết lập hệ thống
chuồng nuôi cách ly ít nhất 8 tuần, hạn chế khách tham
quan, sử dụng bảo hộ lao động, không mượn dụng cụ
chăn nuôi của các trại khác, thực hiện “cùng nhập, cùng
xuất” lợn và để trống chuồng, thường xuyên tiêu độc, khử
trùng chuồng nuôi,



Một biện pháp hiệu quả là tiêm phòng vắc-xin. Hiện
có vắc-xin nhược độc dùng cho lợn con sau cai sữa, lợn
nái không mang thai, lợn hậu bị. Vắc-xin chết dùng cho
lợn giống cũng đem lại hiệu quả phòng bệnh cao. Giá vắc-
xin tiêm phòng bệnh "tai xanh" cho lợn là 30.000đ/ mũi.

2 Ảnh hưởng của bệnh lợn tai xanh
2.1 con người
chỉ có lợn bị bệnh liên cầu mới lây sang người còn
bệnh lợn tai xanh không thể lây sang người. Tuy nhiên,
người ta cảnh báo nguy cơ lợn tai xanh vì khi đã mắc
bệnh tai xanh thì sức đề kháng của lợn rất yếu, khả năng
bị nhiễm thêm các bệnh khác rất cao, trong đó có cả
bệnh liên cầu.

Theo các bác sĩ chuyên khoa, người mắc vi khuẩn rất

khó chẩn đoán bệnh tại nhà do biểu hiện ban đầu của bệnh
khá giống với các triệu chứng cảm sốt thông thường. Cho
nên sau khi dùng thịt hoặc tiếp xúc với lợn, nếu thấy có
triệu chứng sốt cao, nhức đầu, cứng cổ, ói mửa, đau họng,
người bệnh phải nhập viện ngay để được xét nghiệm.

Đối với những người nằm trong vùng có bệnh liên
cầu lợn, nhưng người tiếp xúc và ăn thịt lợn ốm, chết nếu
người có các dấu hiệu như sốt cao, rét run, đau bụng, rối
loạn tiêu hóa nổi ban đỏ hoặc xuất huyết dưới da thành
mảng cơ thể hoặc triệu chứng viêm màng não cần đưa
người bệnh đến ngay cơ sở y tế gần nhất để chẩn đoán và
điềutrị kịp thời.

2.2 nền kinh tế
Thịt lợn là nguồn thực chính đối với con người vì vậy khi
bệnh lợn tai xanh có ở việt nam và bùng phát trở thành đại
dịch đã gây thiệt hại lớn về kinh tế người chăn nuôi, kinh
tế của nhà nước, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng.
Hàng năm nhà nước đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng để dập
dịch, hỗ trợ và đền bù cho những hộ gia đình, trang trại có
lợn bị mắc bệnh
Ngoài ra nó còn gây ô nhiễm môi trường do phải tiêu hủy
lợn bị mắc bệnh

3. Biện pháp phòng tránh bệnh lợn tai xanh và lời
khuyên cho người tiêu dùng
3.1 Biện pháp phòng tránh
* Đối với các địa phương chưa có dịch:
- Thường xuyên theo dõi sức khoẻ của đàn lợn trong các

cơ sở chăn nuôi lợn sinh sản để sớm phát hiện lợn có dấu
hiệu lâm sàng của bệnh tai xanh; cách ly xử lý kịp thời và
gửi mẫu bệnh phẩm đi xét nghiệm.

-Tiêm vacxin phòng bệnh tai xanh cho đàn lợn trong cơ
sở chăn nuôi chưa có lưu hành bệnh. Trước khi tiêm cần
tham khảo ý kiến của Chi cục Thú y tỉnh để biết trong
khu vực trước đó có chủng virút nào gây bệnh (Châu Âu
hoặc Châu Mỹ) để lựa chọn vacxin thích hợp. Bởi vì
vacxin không tạo được miễn dịch chéo giữa chủng chế
tạo vacxin và chủng gây bệnh cho lợn ở trong vùng.

- Để loại trừ các bệnh kế phát do vi khuẩn ở lợn, tất cả
đàn lợn phải được tiêm vacxin phòng 4 bệnh đỏ (dịch tả
lợn, tụ huyết trùng, đóng dấu lợn và phó thương hàn).
Trong điều kiện cần thiết có thể phải tiêm vacxin phòng
một số bệnh đường hô hấp (bệnh xuyễn lợn, bệnh viêm
phổi và màngphổi ở lợn).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×